CLAUDE OLLIER
(1922~)
Claude Ollier sinh năm 1922 ở Paris, thuở nhỏ say mê văn chương và âm nhạc, học trung học ở Carnot, đậu tú tài năm 18 tuổi, vào học luật và thương mại ở Ecole des Hautes Etudes Commerciales (HEC) từ 1941 đến 1943, nửa chừng bị động viên, làm việc trong một nhà máy ở Nuremberg, rồi bỏ trốn qua ngả Thụy sĩ, rồi bị bắt, đến 1946 mới học xong HEC, trước khi ra làm việc trong ngành bảo hiểm (1946-1950). Trong thời gian này, ông lui tới các phòng tranh, các buổi hoà nhạc, các buổi họp mặt điện ảnh, và bắt đầu một vài hoạt động xã hội: tham dự Đại hội Thanh niên Dân chủ Thế giới ở Prague, tham gia xây dựng một đường xe lửa ở Bulgarie (1947). Ông bắt đầu viết từ khi còn trong ngành bảo hiểm, với những đoản văn. Sau 5 năm làm việc hành chánh cho nhà nước Maroc trở về Pháp (1955) ông mới thực sự hoàn thành và cho xuất bản cuốn đầu tiên, La Mise en scène (Editions de Minuit, 1958 — một năm sau cuốn La Jalousie của Robbe-Grillet) và đoạt Giải Médicis. Sau một năm làm việc hành chánh trở lại, năm 1959 đánh dấu quyết tâm chuyên vào việc viết lách. Cùng với Fernando Arrabal, Robert Pinget, Italo Calvino… ông được Tổ chức Ford ở Hoa Kỳ mời và dịp này đã dùng xe lửa đi xuyên lục địa trong suốt mùa đông, trước khi đến Mexico và Cuba. Sau hai tiểu thuyết Le Maintien de l’ordre (Gallimard, 1961) và Eté indien (Minuit, 1963), Ollier khởi sự viết một loạt kịch truyền thanh cho Radio-Stuttgart, và cho ORTF / Đài truyền thanh truyền hình Pháp, như La Mort du personnage (1964), L’attentat en direct (1965), Régression (1965) Le Dit de ceux qui parlent (1970)… và từ 1966-1970 được mời tham dự các hoạt động văn hoá và giảng dạy ở Berlin và nhiều vùng khác ở Đức, ở Hammame [Tunisie], Québec [Canada]… Claude Ollier là một người luôn ở thế động: ông ít khi ở yên một chỗ, và hầu hết những tác phẩm ông ra đời đều bắt rễ từ một nơi chốn, một kinh nghiệm: ngoài châu Âu, có thể kể Téhéran, Marrakech, Sahara, Thái-lan, Singapour, Mã-lai, Maroc, Úc-đại-lợi, Tân-tây-lan, Jordanie, Jérusalem, Canada, Ai-cập… là những nơi ông đặt chân tới với nhiều mục đích khác nhau: ghi chép tư liệu, tham gia hội thảo, thuyết trình tại các trường đại học.
Các tác phẩm chính sau Été indien (1963) gồm có: L’Echec de Nolan và Navettes (Gallimard, 1967), La Vie sur Epsilon (Gallimard, 1972; Flammarion, 1988), Jeu d’enfant (nhiều tập, 1972-1975), Marrakech Médine (Flammarion, Giải thưởng France Culture – 1979), Nébules (Flammarion, 1981), Une histoire illisible (Flammarion, 1986), Déconnection (P.O.L, 1988), Feuilleton (Julliard, 1990), Truquage en amont (Flammarion, 1992), Outback ou L’Arrière-monde (P.O.L, 1995), Cité de mémoire (P.O.L, 1996), Aberration (P.O.L, 1997), Missing (P.O.L, 1998), Wanderlust et les Oxycèdres (P.O.L, 2000), Mon Double à Malacca (Flammarion, 1982; P.O.L, 2001), Préhistoire (P.O.L, 2001), Qatastrophe (P.O.L, 2004), Wert et la vie sans fin (P.O.L, 2007)
Claude Ollier là một trong những tiểu thuyết gia được coi là viết “khó hiểu” nhất. Khởi đầu, ông viết trong dòng khai phá của nhóm Tiểu thuyết mới ở Pháp, với những nhà văn như Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Claude Simon, Robert Pinget, Michel Butor, nhưng văn xuôi của ông như một bông hoa nở không biết ngừng, và ngòi bút mạnh dạn của ông cứ thế phát triển qua mỗi cuốn sách ra đời, chối bỏ tất cả những hạn chế của câu chuyện kể, mở hết tốc độ đi vào một khoảng không gian và thời gian tan rã và bất định…
Đầu tháng 12, 2009, Nhà xuất bản P.O.L vừa phát hành một lúc hai tác phẩm của ông, được giới thiệu như hai tác phẩm nối tiếp một công trình thể nghiệm những hình thức bán tự sự: Cahier de fleurs et de fracas và Hors-champs (1990-2000), một loại nhật ký viết văn.
“Ghi âm” [“Sonorisation”] là những phân cảnh, là cái nhìn tinh vi và chính xác của một nhà làm điện ảnh, sửa soạn vô tiếng cho một phim, sửa soạn đem âm thanh, đem tiếng nói lại cho một cảnh vật. Đoản văn được viết trong giai đoạn 1963-1965, in trong tập Navettes (1967). Đầu tập sách (gồm những đoản văn được sắp xếp thứ tự thời gian trong suốt mười lăm năm, theo từng giai đoạn rõ rệt), Ollier ghi lại định nghĩa của Littré về chữ navette (con thoi): dụng cụ nơi đó người thợ dệt đặt sợi chỉ dệt khổ ngang để luồn qua hàng chỉ dọc trên khung cửi… Hàng chỉ dọc ở đây phải chăng là những cuốn tiểu thuyết, và tấm vải dệt thành là toàn bộ Fiction của Ollier người thợ dệt?
nguồnl: tienve.org