GÁC VĂN

16/10/2010

NHÀ SƯ VƯỚN LỤY ( tiếp theo và hết) – TÔ MẠN THÙ

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 15:22

CHƯƠNG MƯỜI LĂM 

Nói chuyện với em gái đến đó, lòng tôi tự nhủ: “Tĩnh Tử tệ cốt thiên sinh, một thời không hai (vô lưỡng vô song) há chẳng khiến đời kính sợ? Tiếc sao, tiếc sao, ta phải đành ngậm ngùi xa lánh, không thể nào để thu hút về bờ cõi bất tuyệt thiên hương kia. Làm sao! Làm sao ta dám lân la phụng thị tài bồi chầy ngày bên làn thu ba kỳ ảo nọ!” (Kiyoko’s brilliant mentality comes straight from heaven. There is no other like her. How can she but inspire one with awe and repect? It is regrettable that I cannot always bask in the radiance of her eyes.”) 

Vâng. Ngọn thu ba huyền diệu dâng lên dị thường như thế, ta phải đành nuốt hận mà cao chạy xa bay. Để bảo rằng tồn trì lưu tự thân thể. Vẫn biết rằng làn sóng nọ ôn tồn ấm áp vô song. Nhưng cũng chính vì thế mà nó giết chết hồn ta trong từng cơn o bồng o bế. 

Đang giữa lúc liên miên tư lự, thì Tĩnh Tử đã lòa xòa tròn xoe trở lại. Bước vào như xô ùa về cả trời mộng càn khôn. Tay cầm một tấm lụa họa, nàng đứng thẳng trước nhãn quan tôi, phiêu phiêu như liên tồn chẩm ma tiên tử na cá vạn chủng phong tình bài động liễu yêu. Tôi đứng thẳng lên. Máu me run như cầy sấy, xương xẩu rục rịch như giẽ giun, nhưng phải làm ra vẻ thản nhiên túc mục, tâm bình khí hòa thong dong bước tới chậm rãi, cầm tấm lụa mà xem xét. 

Bên bờ mép ao sen, xum xuê thùy dương lòa xòa bên tỷ trúc, đấy là phong cảnh bên nhà dì tôi, một vị nữ lang phiêu nhiên đứng lòa xòa tại đó bên bóng trúc liễu mơ màng, phong thái an nhiên, màu áo lụa xanh lơ bích la tụ đái, dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê, nửa giống như nữ lang ở tiền diện, nửa giống như gái Ngô của vong hồn vãng sự. Tà xiêm phất phất gió đàn. Hương gây cấn dậy mùi đàn giẽ giun. Thân cầy sấy mộng điên cuồng. Lạc đường thêm lỗi hẹn nguồn sơ nguyên… 

Thưa gái ạ, nếu gái về xứ sở
Của Dư Vang về lịch sử khuynh thành 
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ 
Sẽ bao trùm hồn sông Lõa sông Xên 

Nữ lang ấy búi tóc đuôi phụng theo phong thể “phi thiên” (tiên nữ bay trong gió) thời nhà Hán. Nàng đăm chiêu đưa mắt nhìn phong cảnh diệp hoa tỷ yến, mà cũng như dường đang tự ngắm bóng hình mình trong màu sắc trang y, lõa xõa tiêu nhiên hữu xuất trần chi tư. Phiêu phiêu hữu lăng vân chi khái. 

Tôi than một tiếng mà rằng: 

-Người đâu mà đẹp thế. Há chăng ru là Chân Chân nương tử mộng lý tầm sưu? 

Tĩnh Tử nghe tôi nói thế, đưa mắt nhìn tôi, rồi nhìn em tôi, mỉm cười nói: 

-Có thật đáng được Tam Lang khen ngợi vậy chăng? Và Tam Lang có thật là biết nhận ra người lúc nhìn qua ngoại mạo? Có thật nhận rõ bên trong, linh hồn còn chứa chất những gì? Người trong tấm họa có vẻ linh hoạt khiến lòng người xúc động, nhưng nàng không biết nói, thì Tam Lang căn cứ vào đâu mà nhận xét được tâm tư nàng mang những tình tự ra sao? 

Tôi không đáp vào lời chất vấn đó. Nhưng thầm nhủ: “Người trong tấm họa không biết nói. Nhưng người vẽ tấm họa đã đem dung nhan mình và ngôn ngữ mình mà truyền vào cho giai nhân trong họa, chừng đó há chưa đủ hay sao? – I wishes the simpering misses or the intellectual girls could meet Diotima Kiyoko’s eyes. How the affectations of the young women would fall from them, and the intellectuals, recognize a wisdom not in book. Would young intellectual women not recognize something they had lost irreparably in the quiet chastity of Beatrix-Diotima-Kiyoko’s eyes? Tôi ước mong những cô nàng ỏn ẻn cười giả tạo, những gái trí thức mang kính trắng đong đưa, có cơ hội một phen nhìn thấy hai con mắt bình lặng của Diotima Kiyoko một lần. Thì từ đó, bao nhiêu giả tạo lai rai ắt sẽ rụng rơi đi hết, và những cô nàng trí thức ắt sẽ có dịp nhận thấy ra một phong tuệ anh hoa ở ngoài vòng sách vở. Một màu lan nam diện tuyệt nhiên chẳng có liên can chi tới học đường. Phải chi mà các cô nàng! Há rằng chi phải? Hỡi các nương tử cô nương? Há đâu rằng các cô nương sẽ chẳng bao giờ nhận nhìn rằng mình đã đánh mất một cái gì, đánh mất một cái khôn hàn vĩnh viễn, lúc các cô nàng nhìn vào vẻ thuần nhiên thơ dại trong hai con mắt Beatrix Diotima Cô Em Mọi Nhỏ Kiyoko? 

Tĩnh Tử nhìn tôi. Như chờ đợi lời đáp. Tôi sực nhớ rằng mình mãi suy nghĩ đâu đâu trong khi nàng còn chưa bỏ rơi câu chất vấn. Tôi bèn cất tiếng mà rằng: 

-Hoa bút tú dật tuyệt luân, cố thị tiên phẩm. Tôi sinh bình từng nhìn qua nhiều bức đơn thanh của nhiều họa sĩ, thì toàn nhiên là không kịp bức này. Hỡi ôi! Y bát cựu truyền đã rụng rơi đâu hết cả. Tại hạ còn biết ăn nói ra sao nữa bây giờ! Nay cứ theo cái nét vẽ phiêu nhiên hành vân lưu thủy này của cô nương, quả thật là duy nhất một mình tài hoa kiết kiết độc tạo anh hoa phát tiết duy nhất một lần. Khiến tại hạ chỉ biết than một tiếng ngậm ngùi cho bù cơn bối rối và dừng hết mọi trận chiêm bao. A tỷ đáng là bậc thầy của tại hạ, thật là phước hạnh lắm ru! 

Tĩnh Tử lúc bấy giờ e lệ ngại ngùng không mở môi đáp được; phủ tủ tu du, ủy uyển ngôn viết: 

-Tam Lang sao lại nói quá lời khen tặng tôi như thế? Khiến cho niềm riêng lóng cóng không biết còn chỗ đất đai nào để bình tĩnh tự dung. Chỉ mong Tam Lang đem bức họa hôm này vui lòng ban cấp cho, thì tôi sẽ coi đó là một mẫu mực riêng biệt, và cũng là một kỷ niệm để ghi tạc trăm năm. Nhân vì cái ý huống, tình cảnh biểu hiện trong họa kia, lại tương hợp với thân thế tôi. Tâm tình Tam Lang, há chăng cũng y nhiên như thế? 

Tôi đáp: 

-Tại hạ lâu nay chẳng chú ý tới việc tập họa, bởi vì năng khiếu chẳng có bao nhiêu, tài ba đã tận. A tỷ trái lại, đúng là rất mực tài điệu hơn người, nên khiến tại hạ chiêm ngưỡng rất mực” bắc diện hồng trang” há đâu phải là lời thốt buông tuồng sàm sỡ? 

Tĩnh Tử sượng sùng e lệ không đáp. Tôi cũng không lời. Nhưng hai tay tôi nâng bức họa hiến tặng nuồng. Và ngẫu nhiên mà thốt: 

-Kính tặng cô nương vui lòng mỉm cười nhận cho một chút gọi là! Gọi là tỏ bày chút lòng của tiểu đệ kính một cô nương. Há dám bảo đây là họa hội hội họa gì ráo ráo! 

Tĩnh Tử hãn nhiên mà rằng: 

-Tam Lang nói như thế, càng cho thấy rõ cái tài hoa sâu kín của người tao nhã vậy. Bức họa càng quý giá bội phần. 

Nói xong nàng vén xiêm, chỉnh đốn quỳ một chân xuống, trang trọng đón chút quà mọn như đón tặng vật trời ban. Ôn tồn thuần hậu mà rằng: 

-Kính tạ Tam Lang! Tam Lang từ nay đừng dùng tiếng “cô nương cô nưỡng cô nuồng” mà gọi tôi. Nghe có vẻ ra cái làm sao ấy. Chẳng thân thiết tý nào. 

-Kính thưa cô nương. Tại hạ đồng ý là: tiếng cô nương nghe ra không có vẻ thân mật. Nhưng còn tiếng “cô nuồng” thì quả thật là thân thiết bịch bồ. 

Tĩnh Tử hỏi: 

-Hà dĩ kiến đắc? 

Tôi đáp: 

-Nhân vì tiếng “cô nuồng” có chứa chất âm thanh “uông uông uồng uồng” ngụ trong tính tình nên lời tuyệt diệu. 

Tĩnh Tử hỏi: 

-Tuyệt diệu như răng? 

Tôi nói: 

-Như rằng uồng uồng chuồn chuồn thèm thuồng và ở truồng vân vân. 

Tĩnh Tử phì cười: 

-Tam Lang chớ giỡn như thế. Em không bằng lòng. 

Tôi nói: 

-Dạ vâng. 

Nuồng bảo: 

-Dạ vâng cái chi. Tam Lang hãy dùng tiếng ừ vậy. 

Tôi đáp: 

-Nhiên. 

Nuồng nói: 

-Phải. Nhiên. Giờ đây em đã nhận tặng vật của anh, sớm hôm nhìn ngắm, em sẽ không quên con người đã ban cho. 

Đêm ấy, trăng lưỡi liềm đã mọc. Mặt biển phía Tây, thủy ba phẳng lặng. Tôi cầm cây gậy bước ra cửa, lần bước thong thả mà đi. Gặp một ngư ông, tôi dừng chân cùng ông trò chuyện. Đến khi ngư ông thu thập cần câu, tôi cũng quay thân về nhà. Lúc bấy giờ đêm lặng, gió lạnh. Tôi nhìn ra bốn mặt. Trừ bãi biển quanh co mấp mô cồn cát và trừ vầng trăng mới mày xanh in ngần kia, chẳng còn thấy gì nữa hết. Doanh hoàn vũ trụ thu thể lại thành man mác một màu. 

Lúc tôi còn cách nhà khoảng một trượng, chợt mắt thấy một bóng người ngồi yên bên một tảng đá cheo leo lạc loài bên bờ biển, mà nhìn ra mặt biển khơi. Tôi nhận rõ dáng dấp thon thon kia chính là Tĩnh Tử. Liền bước tới hỏi: 

-Có phải a tỷ ngồi đó chăng? 

Tĩnh Tử nghe tiếng tôi gọi, thì mừng rỡ vô cùng. Quay đầu lại vội vã, hẳn nhiên mà rằng: 

-Tam Lang! sao về muộn thế? Không sợ gió biển lạnh lẽo hay sao? Em ngồi đây chờ đợi anh đã lâu, lúc ra biển Tam Lang có mặc thêm áo vào thân thể hay không? Trời chiều hôm, khí hậu không như ban ngày, Tam Lang ắt hẳn không chịu nổi đâu. Chẳng nên lang thang như thế người nhà lo âu. Tam Lang hãy giữ gìn thân thể, cái rét chiều hôm đâu phải chuyện chơi. 

Tôi đáp: 

-Cảm tạ a tỷ lưu tâm chiếu cố. Trời lạnh lẽo, đêm tịch mịch, a tỷ ra ngồi đây, tư lự chuyện gì? Em gái tại hạ vì sao không cùng đi với a tỷ? 

Tĩnh Tử nhỏ nhẹ lời mà rằng: 

-Thân hèn cỏ nội hoa cồn, có chi đáng tiếc, để Tam Lang bận lòng. Em vừa ở nhà ra đây. A mẫu, lệnh tỷ, lệnh muội và di mẫu, cùng họp tụ ở nhà bếp gọt dưa, chẻ mướp. Chỉ một mình em rỗi rảnh ra đây, phụng bồi Tam Lang, Tam Lang về gặp nhau đây, lòng em thư thái lắm. 

Tôi cảm tạ nàng mà rằng: 

-Thâm cảm a tỷ hậu ý kiến đãi! Quý phất khắc đương? Vọng a tỷ thứ hồi, vô mạo dạ dĩ trữ ngã!… Rất mực cảm kích ý nồng của a tỷ đối với tại hạ. Xấu hổ vì mình cảm thấy chẳng đáng được nhận tấm lòng của thiên hương. Mong a tỷ quay về nhà, đừng xông sương đêm giá lạnh mà chờ tại hạ ra như thế. Tấm lòng ân đức của a tỷ, tại hạ cảm thấy rất mực rằng mình chẳng đáng đón nhận một tý ty giọt nhỏ liên tồn dục trích nào đâu. 

Tĩnh Tử ra chiều bực tức mà rằng: 

-Tại sao anh ăn nói có vẻ lẩn quẩn kỳ quái như thế? 

-Kỳ quái như thế nào? 

-Anh làm ra vẻ… tục gọi là kẻ nhiều mặc cảm. 

-Hỡi ôi: Có lẽ đúng và cũng có lẽ không. Xin cô nương thử nghĩ… 

-Thử nghĩ cái chi? 

-Thử đặt mình vào địa vị một kẻ lạc loài từ thuở sơ sinh, quen sống ở giữa lầm than địa ngục, rằng quen mất nết đi rồi… Thì từ đó về sau. 

-Về sau như thế nào? 

-Nếu bất thình lình cô nương hạ tứ ném châu gieo vàng, chan rưới mưa móc liên tồn thiên hương tràn lan ra cho nó, nghĩa là đùng một cái xô ùa nó xoay tít từ Địa ngục lên tột đỉnh tột vời Thiên đường, thì làm sao có thể… 

-Có thể cái chi? 

-Có thể nó sống nổi trong cái sát na kỳ ảo đùng một cái nối tiếp hai thái cực một vực một trời? Người xưa có nói: “Sự gì cũng phải từ từ. Đốn tre đẵn gỗ, mò cua bắt chuồn chuồn” cũng vậy. Hà huống… 

-Hà huống cái chi? 

-Hà huống sự vụ ban hạnh phước hồng ân lai láng liên tồn cỏ tơ xum xuê tươi tốt. Cái khung cửa kia vốn dĩ là đã hẹp, thì cứ mở ra cũng phải mở từ từ, há đâu đùng một cái mở toang cả hai cánh ra một lúc bất thình lình cho được. 

Nói xong, tôi ngậm ngùi dấn bước, toan băng qua cửa vào nhà. Nhưng Tĩnh Tử vội vã chạy theo gọi giật lại: 

-Tam Lang cho phép em hỏi anh vài điều. 

-Cô nương sao khách khứa như thế! Có việc gì cứ hỏi. Tiểu đệ không có sự gì không hết lòng giải thích cho a tỷ rõ ràng. 

Tĩnh Tử ngần ngừ một chút, rồi thấp giọng ôn tồn mà rằng: 

-Tam Lang, từ ngày biết nhau, em thấy Tam Lang có vẻ mang chứa một mối sầu gì khó tả. Đó là bởi cái cớ gì? Tam Lang buồn, thì khiến người ta cũng buồn theo. Nay em mong manh giải thích cho một chút. 

Lúc bấy giờ lòng tôi đã rõ. Hung triệu đang lảng vảng quanh mình. Tôi đứng im không nói. 

Tĩnh Tử hỏi tiếp điều hai: 

-Tam Lang có biết duyên do bởi đâu mà hôm nay a mẫu yêu cầu a di cùng lệnh tỷ đi lễ Đạm Đáo Minh Thần? Em tưởng rằng Tam Lang tất nhiên chưa rõ lẽ điều đó. 

Nghe nàng hỏi thế, tôi trố mắt nhìn ra, không biết đáp lại như thế nào cả. Cuối cùng mà rằng: 

-Quả đúng như a tỷ nói. Tiểu đệ chưa rõ lắm. 

Tĩnh Tử thấp giọng, lời nói hổn hển ngậm ngùi không nghe rõ tiếng, đại khái dường như nàng nói thế này: 

-Tam Lang nghĩ lại xem, ấy chẳng qua chỉ vì chàng và em đây mà thôi vậy.

 

 

CHƯƠNG MƯỜI SÁU 

Ngực tôi bỗng chấn động hãi nhiên, tôi hiểu điều cốt yếu trong lời nói hổn hển kia. Tôi bàng hoàng gay cấn, quày thân bước tẽ sang bên. Rồi cố lấy giọng chậm rãi, làm bộ thản nhiên, đưa tay chỉ mặt biển mà rằng: 

-A tỷ nhìn ra ngoài kia, cái bóng đen gì như thế ở giữa lòng biển mù khơi. Dường như đó là chiếc ghe ngư phủ lạc loài ở trong sương. Phải chăng? Phải chăng? Nhiên da? Phủ da? 

Tĩnh Tử cúi đầu không đáp, nàng bước tới sát bên ngực phổi tôi, đưa hai làn mắt xanh nhìn vào mặt tôi một cái. Tôi đứng dưới màu trăng minh mông, ngưng thần nhìn kỹ hai má nàng, ngó tỉ mỉ vào hai môi miệng nàng. Ôi phù dung như diện, liễu như mi. Một khuôn mặt huyền ảo. Như vầng nguyệt nguyên tiêu với làn tóc mây lòa xòa xung quanh xúm xít lại. Lúc nấy giờ cảnh vật bốn bề lặng lẽ, vạn vật cô liêu… Lòng tôi mất hết khả năng tự trấn định. Tôi ngẩng mặt ngó lên trời. Trời tràn lan ô vân hắc vụ. Chỉ lấp lánh vài đóa ngôi sao lạc lõng phiêu phiêu hốt hốt nhấp nhô chút tàn phai ánh sáng… “In every land I saw, wherever light illumineth, Beauty and Anguish walking hand in hand the downward slope to death…” 

-Khắp nơi nơi xứ sở đất đai người? Nơi ánh sáng lập lòe nơi u tối? Tôi chỉ thấy riêng một niềm vòi või? Lạnh căm căm hồ hải mộng tan rời. Ôi kiều diễm và hoang mang khắc khoải. Nắm tay nhau bước xuống dốc xuôi đời. Về cõi chết âm u ồ vô hạn… Còn gì đâu sau những phút chung ngồi? 

Tôi bất giác tự nhủ: “Hỡi ôi! Đây phải chẳng thế gian của con người. Vùng đất đai này không còn bờ thanh lục nguyệt. Đêm nay vì duyên do nào, ta lạc lõng về chốn non nước bi thương này”. 

Tôi đang nghĩ bần thần ra như thế, chợt có một vật gì như một mảng bông tơ nõn xứ Ngô dịu mềm ấm áp đặt thiêm thiếp lên bàn tay tôi. Té ra đó là bàn tay Tĩnh Tử đặt lên, nắm lấy tay tôi, kéo tôi lại, kéo tôi lại ngồi lên một tảng đá lạnh không khô. Tôi đành ngồi sát bên nàng không cách gì thoát thân. Lâu lắm, Tĩnh Tử mới lên tiếng nói, bằng giọng réo rắt trong veo, nhưng như sầu như oán: 

-Em xin hỏi anh Tam Lang, dì đã nói với anh về chuyện chúng ta chưa? 

Tôi lúc bấy giờ tâm thần hoảng hốt, tay chân như muốn run lên lẩy bẩy, hai hàm răng suýt lật bật cằm cập. Tôi cúi gầm đầu xuống, không dám ngó nàng. Trong lòng tự nhủ: lưới tình bủa vây, có chấp cánh cũng không dễ mà bay đường trời. 

Chỉ nghe Tĩnh Tử liên tiếp hỏi dồn dập: 

-Tam Lang! Quả thật a di đã nói lời gì? Tam Lang chẳng lẹ không hiểu gì hết cả về thế tình hay sao? Hay là Tam Lang trong lòng rõ hết, mà không chịu nói ra lời? Vì lẽ chi em phiền não thế này? Vì lẽ chi anh chẳng đoái hoài chút gì cả? Em cứ thấy anh ủ rũ ưu tư hoài, nhưng không dám hỏi han làm rầy anh. Anh chẳng thấy nhìn gì hết cả hay sao? 

Tôi cố gắng sức chế ngự mối kinh hoàng, lắp bắp mà rằng: 

-A nương chẳng có nói gì hết. Dẫu có nói, tôi cũng mơ hồ không hiểu và không còn nhớ gì. 

Tôi vừa thốt lời đó ra, chợt cảm thấy Tĩnh Tử gân mạch lẩy bẩy đảo điên, bàn tay nàng rời rã buông xuôi. Tôi biết nàng kinh ngạc dị thường vì lời nói của tôi. Tôi đương tìm sự khác nói lãng đi chợt một trận gió não nùng từ ngoài biển thổi lại, thổi tới ghềnh đá núi, băng ngàn mà đi. Tôi đứng im lìm. Tĩnh Tử hoảng nhiên nhìn bốn phía, nàng thò tay vào trong mình mẩy, rút ra một tấm khăn đem ấn vào giữa lòng bàn tay tôi như ấn một vật ôn tồn huyền bí. Rồi lên tiếng bảo: 

-Tam Lang, trong chiếc khăn tay này có thêu thùa lê hoa tiên ở một góc, em thuở còn nhỏ học thêu với mẹ và làm nên vật đó. Em xin tặng anh, gọi là báo đền chút ít bức kiệt tác hôm nay. Anh hãy nhận cho. Vật mọn chẳng đáng kể là bao. Nhưng Tam Lang sẽ thấu hiểu lòng em. 

Tôi nghe nàng nói như thế, không còn biết tính sao. Tự nhủ: Từ chối không nhận thì lòng không nỡ. Nhận lấy thì ắt sẽ lâm vào tình cảnh thấy vật nhớ người. Làm sao tôi có thể đáp ứng được tâm nguyện mẫu thân và hoài vọng Tĩnh Tử? Tôi lẩn quản tư lự chẳng biết làm thế nào. Tĩnh Tử còn muốn nói nhiều tôi chỉ nghe thấy tiếng gió lạnh thổi tràn, heo hút khắp nước non, sóng biển gầm thét đập vào đá ghềnh, thê thảm bi hùng như ba quân tan tác, hào lũy tan hoang. 

Tĩnh Tử cầm chiếc khăn gấp lại tỉ mỉ, nhét vào túi áo nơi ngực tôi, rồi nắm lấy cánh tay tôi, nàng ôn tồn áp má nàng vào đó. Thổn thức như muốn khóc: 

-Tam Lang! Nhận lấy vật ấy đi và đừng buốn nữa. Em cầu nguyện Trời Xanh và Thượng Đế Như Lai che chở anh khỏi tai ương. Bây giờ chúng ta hãy cùng về nhà gặp mẹ. 

Tôi ngẩn ngơ đứng ù lỳ không nói, chỉ cảm thấy phổi tim máu me đập dữ dội, như muốn nhảy vọt ra ngoài. Tĩnh Tử kiều diễm dị thường ân cần nắm tay tôi dắt đi như dắt một con chó con, và chậm rãi bước. Về tới phòng gác, cảm thấy có phần sáng sủa của trí óc chút ít ra, nhưng tình tự máu tim vẫn bồi hồi phân loạn rời rạc như nhà ma không còn tìm ra đâu lối vào cửa quỷ. 

Đêm đó tôi mới giác ngộ ra rằng nếu không thoát ly linh hồn ra khỏi thân thể, đem tấm hình hài máu me hoàn lại cho phụ mẫu, thì ngoài ra, không còn cách gì thoát ra khỏi được cái cửa ải eo óc của tình yêu tình lụy, mà ly khai những cạm bẫy rối rắm bủa vây bốn mặt ba bề. 

Tình chấn động suốt vùng cây suối liễu
Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra dòng 
Lời lẩn quẩn theo vần lôi thôi nhuốm 
Màu gẫm suy cái chết của thân mình 
Đành thế vậy miễn là em chịu muốn 
Anh rời bờ lìa cõi thế điêu linh

CHƯƠNG MƯỜI BẢY 

Tân toan hái củ cuốc cày
Mồ hôi máu lệ nhuộm đầy tay thôi 
Nghèo xơ xác luống trông vời 
Tháng năm hồ diện nước vơi lại đầy.

Ngày hôm sau, buổi sáng trời xanh vô cùng. Nhưng khí hậu rất lạnh lẽo. Thâm đông quý tiết thật là đến chỗ gay cấn. Mẹ tôi dậy sớm bảo người bếp sắp đặt bánh trái ra và đồ ăn thức uống, mọi người tề tựu trong phòng, tiếng nói vui tươi nhộn nhịp nghe như chạy tràn. Hôm nay người chị tôi sắp quay về nhà chồng. Tĩnh Tử lúc bấy giờ búi tóc theo thời xưa đời Ngụy “hiểu hà trang” (khói mây buổi sáng). Một món tóc lòa xòa lệch nghiêng xuống vai bên phải. Lối búi tóc đó tuyệt nhiên không có gì giống thời trang lúc bấy giờ. Nàng e lệ nghiêng thân chào tôi, trông càng kiều diễm thêm ra. Tôi lại bên lò bếp ngồi xuống, lòng cứ bồi hồi không yên nhân vì trong đêm trước nói chuyện với nàng bên bãi biển, tôi chưa nói rõ ràng cái gì ra cái gì cả với Tĩnh Tử. 

Lát sau chị tôi từ biệt mọi người, thì Tĩnh Tử nắm tay em tôi đưa chị tôi ra cửa. Tôi bước theo sau. Ra tới đường, mẹ tôi đứng một bên bảo tôi hãy đưa chân chị tôi. Tĩnh Tử nghe thì vẻ mặt lộ vui mừng, nàng liền chạy cầm mũ sách can đen lại cho tôi. 

Tôi nói: 

-Cám ơn a tỷ ân cần chiếu cố. 

Chúng tôi cùng đi tới nhà ga. Tới khi còi tàu huýt, tôi từ biệt chị. Trên đường về chỉ còn tôi và Tĩnh Tử và em gái tôi mà thôi. Tĩnh Tử chậm rãi bước đi, xa xa trông thấy những người nông dân cày cấy, nàng đưa tay chỉ cho tôi nhìn, thuận miệng nàng ngâm: 

Thái lăng tân khổ phế lê sừ
Huyết chỉ lưu chu quỷ chất khô 
Vô lực mãi điền liêu chủng thủy 
Cận lai hồ diện diệc thu tô
” 

(Hái củ tân toan lưỡi cuốc cày
Mồ hôi máu lệ nhuốm đầy tay 
Không tiền mua ruộng đành cấy mướn 
Hồ diện đến ngày lại mướn thuê…

Tam Lang! Đó có phải là thơ của Phạm Thạch Hồ (Fan Sek-hu) hay không? Tại đời Tống dĩ nhiên. Thế mà cho đến ngày nay trong nước ta tiền thuế ruộng cũng nặng nề quá mức. Em nghĩ tới những người nhà quê mà thương cảm vô cùng. 

Tĩnh Tử nói xong thì thở dài, bỗng chốc mặt mày nàng ửng đỏ. Nhìn tôi nói: 

-Tam Lang có thấy nhọc mệt chăng? Mấy ngày nay trong mình có thường không? Sáng nay em nghe mẹ em cho biết rằng ba bữa nữa, mẹ em sẽ dẫn em gái anh cùng em về Sương Căn. Chẳng rõ lúc bấy giờ anh Tam Lang có bằng lòng cùng chúng em đặt lại gót giày dép lên đường? 

Nghe nàng nói như thế, bao ý niệm bỗng theo nhau tới, tôi không kịp đáp ngay. Quay nhìn nàng, mặt nàng che ở phía sau tấm dù, nàng đưa mắt nhìn, có vẻ như bẽn lẽn. 

Tôi nói: 

-Nếu mẹ tôi đi, ắt tôi cũng theo mẹ đi. Nói xong, thì quay nhìn nàng một lần nữa, thấy mày mặt nàng đượm vẻ buồn rầu. Phút chốc bỗng thấy Tĩnh Tử òa khóc nói: 

-Sáng nay vào phòng ăn, em nhìn thấy anh Tam Lang vẻ mặt sầu não? Chẳng lẽ trong mình anh có đau ốm gì? Còn nếu anh Tam Lang có điều chi thương cảm, xin anh đừng ngại nói ra cho em rõ, anh đừng xem em như người ngoài. 

Tôi trầm ngâm ù lỳ không đáp. 

Tĩnh Tử lại ôn tồn hỏi tiếp: 

-Anh giận em đấy ư? Sao chẳng thèm đáp lời em hỏi: 

Tôi dừng bước cất cao giọng nói: 

-Lòng tôi bồi hồi, chẳng rõ do nguyên nhân nào. Làm phiền a tỷ chiếu cố hỏi han, tự thấy xấu hổ còn biết nói năng gì! Chỉ mong a tỷ độ lượng thứ cho. 

Tôi vừa bước đi vừa suy nghĩ. Bỗng nhiên tim máu giật mình, không chịu đựng nổi, thất thanh la hoảng: 

-Hỡi ôi! Lòng tôi đau đớn ân hận thế này, ắt là không bao giờ nguôi được. 

Tĩnh Tử tuy nghe rõ lời tôi, nhưng tuyệt nhiên chưa ngờ ra tâm ý tôi muốn nói gì. Nàng lặng lẽ không thốt lời nào cả. Nhưng từ đó gương mặt nàng nhuốm đầy ảo não trông thật hết sức tiều tụy. Nàng rút tấm khăn hồng ra lau nước mắt, lầm lũi đi, xiêu xiêu lệch lệch. Nàng vẫn kiếm ra lời an ủi tôi, vừa an ủi tôi nàng vừa tiếp tục khóc mãi, đến nỗi áo nàng ướt đẫm nước mắt. 

Tôi kinh hoàng tự nhủ: 

-Cả hai đứa chúng tôi cùng thê thảm thế này, ắt là không sống lâu được. 

Gần trưa, chúng tôi về tới nhà. Tĩnh Tử và tôi, không đứa nào đến phòng ăn dùng bữa.

 

 

CHƯƠNG MƯỜI TÁM 

Chị tôi đi, chẳng mấy chốc đã được ba ngày. Lúc bấy giờ, gió tuyết dữ dội, tôi đóng chặt cửa sổ, ngồi im suy nghĩ. Lúc bấy giờ, tâm niệm tôi cùng với tuyết hoa gió bão theo nhau bay tán loạn vào khoảng trời biển mang mang. Tôi tư lự lâu lắm bồi hồi đứng lên lẩm nhẩm. 

-Trời Xanh! Trời Xanh! Vì lẽ gì suốt ngày tôi mang cái khối u hoài gậm nhấm mãi máu me, không cách gì xua đuổi cho tiêu tan đi được? Học đạo không thành, cuộc sinh nhai phôi phai tản mác. Thì ngày sau ăn năn ân hận cũng muộn mất rồi. 

Tình là cái gì như thế? Tại sao nó liên miên đi sát lụy? Tâm thần con người ta không còn một chút thư thái thanh bình nữa hay sao? Một tình yêu thứ nhất? Một tình yêu thứ hai? Một tình yêu cứ bị buộc ràng có lẽ bởi tình nghĩa cứ xung đột nhau hoài. 

Trời Xanh! Trời Xanh! Nếu Trời Xanh hỏi con yêu ai nhất trong đời con, nếu như hoàn toàn giả dối, ắt con sẽ bảo rằng: “Con yêu Phật nhất. Con yêu Tiên nhì”. Nếu như con giả dối lưng chừng, ắt con sẽ trả lời rằng: “Con không yêu ai hết cả”. Nhưng nếu ngày phán xét cuối cùng, Thượng đế hiền từ nhìn vào đáy mắt con mà nêu câu hỏi: – “Tam Lang! Thuở trần gian con đã yêu ai?” thì ắt con đáp không ngần ngừ một chút: -“Con yêu Tĩnh Tử và con yêu Tuyết Mai”- “Con muốn cưới ai?” – “Con không muốn cưới ai hết cả. Con chỉ muốn lấy nhau mà không buộc phải lấy nhau suốt đời!” – “Vì sao như thế?” –“Vì ăn ở với nhau suốt đời, thì ăn ở với nhau suốt năm suốt tháng. Ăn ở với nhau suốt năm suốt tháng ắt sẽ chán chường nhau, biến nhau thành những kẻ tệ bạc. Thì đâu còn cái nghĩa của tam sinh thạch thượng cựu linh hồn? Con kinh hoàng trước cái mộng vô biên đang lù lù yêu sách những gì mà máu me xương xẩu phù du không thể nào đáp ứng. Con sẽ già, con sẽ chết, con sẽ ngày ngày chứng giám người vợ già, người vợ chết. Con không thể nào quan niệm được sự vụ đồng tịch đồng sàng đồng quan đồng quách? Và con cũng không đủ tàn bạo để mỗi lúc chán chường mỗi chộp lấy con vợ bóp cổ cho nó chết đi rồi quay lưng lại tự mình bóp cổ mình cho chết”.- “Nhưng chuyện gì phải quyết liệt từng phen như thế? Cứ ẩn nhẫn chịu đựng, rồi thời gian sẽ gúp con vượt qua mọi buồn đau ảo não. Chiều nay con chán chường, biết đâu sáng mai con sẽ vui thú trở lại. Ngọc sóng xuống, ngọc triều lên, theo lẽ tiêu trưởng danh hư. Con hãy thuận theo, thì thời gian chính là thang thuốc bổ”- “Nhưng thang thuốc bổ ấy, cuối cùng tiêu diệt mất sinh mệnh con. Thì kể làm chi những phen nó tạm thời xoa dịu?” 

Tôi lẩm nhẩm cuộc đối thoại não nùng kia. Cuộc giải đáp không bao giờ có lời đáp viên mãn tự cổ chí kim. 

Tôi nghĩ tới Kiyoko Tĩnh Tử… Tôi nghĩ tới… 

I thought of Kiyoko magnanimous and high of spirit. She was also exceedingly good and profound in learning.Yet, judging from her eyes, she held rich promises of love, and was much to be feared. Even if I were a general of Yu or Yen (modern Peking) I could not bear to take up a sharp steel blade to drive this soft, attractive creature to the northern desert sands.

Tôi nghĩ tới Tĩnh Tử bao dung từ bi cao nhã, thông tuệ tuyệt vời. Nhiên dĩ nhãn ba quyết chi, tắc hưu nhi nữ tình trường, thù kham úy bố. Cho dẫu thân phận tôi lúc bấy giờ làm U, Yên lão tướng, cũng chẳng thể nào vung cương đao tuệ kiếm, xua nàng nhi nữ kiều diễm nọ về sa mạc Bắc phương. Hỡi ôi! Lời thơ nào nói về bình minh Bắc Húc một lần kia như thế? 

Bình minh nhất hiện phương mờ
Mai hồng Bắc Húc gieo hờ hững sương 
Hành hàng phụ nữ du dương 
Mở phơi phóng nhiệm môi hường phiêu phiêu 
Con người đãng khí vân tiêu 
Vào cung Tử Diệt đăng kiều Hóa sinh 
Người ôi tơ tưởng bên mình 
Mây trời Bắc Húc tơ tình tóc sương

(Appollinaire) 

Vốn trước kia, tôi về Nhật Bản cốt để tìm về viếng thăm từ mẫu. Thì như vậy là thuận cái đạo trời và cái lý đất. Một tình lý tôi phải tìm cho ra trên mặt đất hoang liêu. Vì lẽ chi từ đó, tôi vướng vào bao nhiêu thứ tình thứ nghĩa mà sức lực bình sinh không thể nào kham cho hết. Vì lẽ chi một phen giáp mặt nữ lang kiều diễm nọ, tức thời bao nhiêu liên miên tình hoài quyến luyến xô ùa nhau tới vây bọc tôi ngột thở không lối thoát thân? Phụ mình, phụ người, không còn đâu chỗ đất yên vui. Hỡi ôi! Lụy tình là cái chi như thế! Nan bình vưu oán, lịch cổ giai nhiên. Tôi nay há còn dám bỏ thân về với cái triều đình tan hoang u thảm nọ, tiêu diệt xuân xanh ở giữa cơn sầu trận oán? Phật bảo: “Phật tử ly Phật Tổ thiên lý, đương niệm Phật giới” (Phật tử xa cách Phật mấy ngàn dặm, vẫn phải ghi tạc lời giới huấn của Phật). Tôi nay về sau ắt phải trì giới vi cơ sở, kỳ thứ cơ hồ? Phải vậy chăng ru? 

Tôi miên man tư lự như thế, chợt cảm thấy đoạn hoặc chứng nhân, gạt bỏ hết mọi ý niệm hồ đồ do nhan sắc kiều diễm hấp dẫn, thì lòng bỗng thấy thư thái dị thường, quyết tâm quay về tìm sư phụ, để giãi bày mọi niềm ăn năn sám hối. Tôi cũng nghĩ rằng sự đó, quyết nhiên không thể nào bẩm bạch với mẫu thân. Mẹ tôi mà biết được, thì mọi sự hỏng bét hết cả. 

Hốt nhiên em gái tôi cầm một lọ hoa thêu bước vào : -A huynh! Đây là đóa hoa em tự tay dệt theo thế thái “Từ Khê”. A huynh coi xem có được chăng? 

Tôi không nói lời nào, lặng lẽ nhìn đứa em. Chợt thấy lòng đau như cắt; tôi muốn nói cho em tôi biết là mình đã quyết định rời gia đình ra đi, e sợ rằng nói ra thì công cuộc sẽ hỏng mất. 

Đến khi em tôi đi rồi, tôi nén lòng không được, gật đầu xuống bàn mà khóc tầm tã một trận. 

Đêm đó lòng tôi vấn vít ngổn ngang như ngàn vạn ánh mây ở trên trời ùa về một lúc. Tôi nghĩ tới gương mặt tiều tụy của Tĩnh Tử ngày hôm đó, Nàng sắp đau ốm rồi. Dường như nàng đã suy gẫm thấu linh hồn hoang liêu sa mạc của tôi, không còn đâu đất đai thôn làng để cư lưu được nữa. Ngày nay kể ra chúng tôi đã quen thân nhau ngần ấy, lễ giáo nghiêm ngặt chẳng có gì gì cản trở, tại sao tôi không thử đánh bạo tới phòng nàng một phen tối hậu, đem hết cuộc đời mình ra kể lại đầu đuôi ngành ngọn cho nàng nghe, hoạ chăng nàng sẽ tha thứ hết? Nàng cũng là một nhi nữ phi phàm, tình tố thăm thẳm, thì tôi câu nệ gì mà không thử bộc bạch? Chuyện gì phải vội vã hấp tấp bỏ đi, không có lời từ biệt? Không biệt mà ly? Có lẽ nào như thế? 

Nghĩ như vậy, tôi liền xốc áo, bước xuống thang gác. Trong lòng vẳng nghe như có âm thanh nào trỗi dậy: – “Ta hăm hở bước chân phù động, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng điêu linh thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàn tính mệnh…” 

Xuống tới hành lang, chợt nghe âm thanh đàn cầm. Tôi biết đó là tiếng cây “bát vân cẩm” của mẹ tôi, do Tĩnh Tử bấm dây huyền lúc đó. Nàng rất thích gảy khúc đàn lạc Mai Hoa. Gảy tới đoạn “Dạ thiều thiều, du du gió lạnh, đài gương bóng nhạt, một ngọn đèn chong… mắt dầm giọt lệ…” chợt dừng hẳn lại, cung điệu rã rời không ngân lên được nữa. Dường như nước mắt nhuốm ướt dây huyền không phát dư âm được nữa. 

Tới khung cửa sổ tôi đứng lại im lìm. Chợt nghe tiếng em gái tôi: 

-A tỷ, bức gấm thêu chị dệt sáng nay đã xong chưa? 

Tĩnh Tử than một tiếng đáp: 

-Chị muốn dệt cho anh Tam Lang một chiếc cà vát, thế mà ngày này qua ngày khác vẫn chưa xong, chị thật là đứa vụng tay lười lĩnh quá. 

Tôi biết em tôi còn thức, định quay gót. Chợt nghe Tĩnh Tử ảm đạm khóc lóc nói tiếp: 

-Em có rõ a huynh vì lẽ chi suốt ngày cứ u sầu ảm đạm như thế không? 

Em gái tôi đáp: 

-Em cũng chẳng rõ duyên do. Sáng nay lại thấy a huynh ngồi một mình gục đầu lên bàn mà khóc liên miên. Chẳng hiểu vì sao như thế. Em thật lấy làm lạ. Nhưng không dám đem chuyện ấy nói lại với a nương. A tỷ bày cho em một cách gì an ủi a huynh được không 

Tĩnh Tử đáp: 

-Chẳng có cách gì được cà. Chỉ còn biết chờ ngày chị trở về Sương Căn, em sẽ gắng sức giúp chị, yêu cầu a huynh cùng đi. Chị về nhà ắt sẽ tìm ra cách khiến a huynh hết phiền muộn. A huynh tới nhà chị, em và chị hãy thay phiên nhau trò chuyện suốt ngày giải muộn cho a huynh, chắc là có thể nên được lắm. Em có nhận thấy a huynh mấy ngày rày mặt mày gầy ốm! Thật khiến chị buồn khổ vô cùng. Chị có một điều muốn hỏi em. Em có biết a nương, a di, hoặc a tỷ, có nói lời nào với a huynh chăng? 

Em tôi đáp: 

-Em chẳng có nghe gì hết. 

Tĩnh Tử không nói thêm lời nào. Lâu lắm, than một tiếng: 

-Hay là chị có hành vi gì đắc tội với a huynh chăng? Chị tuy không thông minh, há chẳng rõ gì hết cả hay sao… 

Nói tới đó, lại thở dài một trận nữa. Rồi nói tiếp: 

-Chờ đến sáng mai, chị sẽ yêu cầu anh Tam Lang giải thích… 

Rồi thanh âm thổn thức tắt lịm dần, không còn nghe ra tiếng gì nữa… tôi xúc động vô cùng trước tình cảnh đó. Tình yêu của nàng quá sâu thẳm. Tôi thấy tê buốt khắp linh hồn, nước mắt lại trào ra. Quay về phòng gác, tôi ngã lăn vào giường.

 

 

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN 

Trời vừa chớm rạng đông, nỗi bối rối trong tôi chợt giảm nhẹ đi chút ít. Tôi tự nhủ: mình đã tìm ra chốn an tâm lập mệnh rồi. Rửa mặt xong xuôi, tôi lại bàn cầm bút, tư lự bồi hồi một chặp, rồi viết lá thư này: 

Gởi Tĩnh Tử cô nương.

Than ôi, tiểu đệ xin cùng chị vĩnh biệt. Tiểu đệ thật ra là một nhà sư “tam giới câu túc” suốt đời không được cùng phụ nữ chung sống một mái hiên. Thịnh tình của cô nương ân ốc, cao nghĩa can vân, tiểu đệ không phải là thân gỗ đá, há đâu không cảm kích vô cùng. Nhưng em vốn sinh ra đời dưới một ngôi sao bạc mệnh gặp bao nhiêu chuyện đau khổ trên đường đời không làm sao nói hết. Em đâu nỡ đem thân phận nguy khổ phiêu linh của mình làm rầy rà cuộc sống bình sinh của chị? Nay em lên đường, tay cầm gậy thiếc bước đi, làm một “viễn đầu đà” lang bạt. Trần trần sát sát, hội diện vô do. 

(Today this hand of mine takes the Buddhist staff and I become a far roaming monk. I will wander far and wide; there will be no opportunity for us to meet again…

Lìa nhà đi vội vã thế này, duy chỉ nhờ chị ở lại, đem lòng độ lượng từ bi tha thứ cho em, thay em mà bẩm báo lại với mẹ, với dì, giải thích tấm lòng em cho mọi người rõ. Chị khuyên ủy mọi người đừng vì em mà phiền muộn, chị sẽ khéo lựa lời khuyên nhủ cho mẹ già chịu gắng ăn uống cho no, đắp chăn cho ấm, như thế là thương con rồi. 

Chị rõ chăng? Em đi là phải. Dù sao cuộc sống cũng còn chỗ để đi. Bước tới bước lui. Bước lần tối hậu nào vì sao chị có biết mọi người yêu nhau đều ở trong tình cảnh “đã sinh cùng nước cùng thì, cùng nhau không biệt mà ly đó là…” mọi kẻ yêu nhau đều đã chết ngay từ thuở sơ sinh. Tuy nhiên dù sao, – Why one has to raise up your dead, who perhaps have not died after all…Dù sao mỗi người ta còn có bổn phận làm hồi sinh trở dậy những kẻ chết của mình (và chính cái linh hồn mình đã chết) vì những kẻ chết đó biết chừng đâu chẳng chết thật sự đâu… 

Ấu đệ Tam Lang hàm lệ đảnh lễ. 

Tam Lang 

Viết xong lá thư, tôi thay đổi y phục, vận vào áo quần đi đường. Tôi đem lá thư đặt vào chiếc giỏ bằng rạ khô, mà hôm trước Tĩnh Tử đã đem đựng trái cây tới tặng tôi. Tôi biết rằng sau khi đi thế nào Tĩnh Tử cũng lục soát căn gác và sẽ tìm thấy lá thư trong chiếc giỏ ấy. Gói ghém soạn sửa xong xuôi đâu vào đó, tôi ngẩng nhìn đồng hồ: bảy giờ sáng. Chuông đồng hồ gõ “bong bong” như giục giã tôi lên đường. Lúc bấy giờ a mẫu, a di chắc là ở phòng ngủ đang loay hoay xếp đặt y trang phục sức cho em tôi, Tĩnh Tử và người bếp nữ tỳ chắc là đang ở bếp, hẳn nhiên là không lưu ý tới tôi. 

Tôi lặng lẽ len lén ra mở cổng thoát đi. Bước đi mấy bước, ngoảnh đầu nhìn lại chợt thấy Tĩnh Tử xăm xăm theo gót… Mái tóc lòa xòa phủ xuống vai, rõ là nàng chưa kịp chải tóc. 

Chợt nghe nàng bàng hoàng hổn hển hỏi: 

-Tam Lang, đang tinh sương thế này anh đi đâu thế? Tuyết giá còn chưa tan, anh chớ xông pha bừa bãi như thế. Điểm tâm đã sẵn, sao anh không chờ tí chút? 

Tôi kinh hoàng, giở mũ chào nàng, kính cẩn đáp: 

-Mấy ngày gần đây, tôi uể oải trong người, lười biếng không tới hỏi han a tỷ mỗi sáng, mong a tỷ thứ cho. Bữa nay muốn đi ngắm cảnh Bạch Long Bất Động Tôn Thần cần phải đi trước lúc tuyết tan. Rất mong a tỷ đừng bận lòng vì tiểu đệ. 

Tĩnh Tử bước tới trước mặt tôi, ngạc nhiên hỏi: 

– Tam Lang vì lẽ chi bất thình lình mặt mày biến đổi tái mét ra như thế? Cảm mạo chăng? 

-Không. 

-Thế thì tại sao? 

-Tiểu đệ không rõ. A tỷ nhận thấy đúng như vậy sao? 

-Đúng như vậy. Tam Lang đừng giấu giếm em… 

Bỗng dưng lòng tôi trào lên một nỗi gì khôn tả. Trong một sát na thiểm động, linh hồn tôi bỗng chất chứa một tư niệm gì bất khả tư nghị. Tôi la to: 

-Những kẻ hoằng đại chết. Chết. Bọn họ chết. Cô nương nhìn lên? Và ấy ai tại đó? (The high ones die, die. They die. You look up and who’s there?

-Dễ dễ lắm. Ở tại bên anh. Em đánh hơi nghe niềm ai oán…(Easy ,easy…It is on your side. I smell your grief.) 

– Tiểu đệ đã xô ùa mối ai oán u sầu đi xa. Tiểu đệ chẳng thể nào còn bận tâm mãi mãi. Với bọn họ, mãi mãi trùng trùng, điệp điệp, mà em đâu có thể như thế. Em cần phải đi và phải sống. (I sent my grief away. I cannot care forever. With them all again and again I died and cried, and died and cried, and I have to live…

-Tam Lang nhầm rồi, Tam Lang phóng đại sự thật. Tam Lang phải ở lại yêu thương và chết. Yêu thương và chết – Love and die

-Nhưng tiểu đệ đã chết thừa thãi thái thậm rồi. Song trùng nhị điệp rồi. 

-Thế vẫn còn chưa đủ. Còn một lần tối hậu nguy nga… 

Chợt nàng mở to hai mắt nhìn tôi. Tôi kinh hoàng không thốt lời nào cả. 

Môt chặp… hai chặp… ba chặp… Chợt nàng dịu dàng lim dim hai con mắt lại, chậm rãi đưa hai bàn tay ôn tồn ấm áp đặt lên trán tôi, và bàn tay kia nắm lấy cánh tay tôi, ngậm ngùi nói tiếp: 

-Đừng nói gì nữa cả. Viễn vông biện luận chả nghĩa lý gì. Anh đang lên cơn sốt. Cuộc đi này phải đình chỉ. Yêu cầu anh lập tức quay trở vào nhà vào giường nằm yên nghỉ. Chờ em bẩm báo với a mẫu… 

Tiếng nói nàng run run thấp giọng, nhưng bao hàm một niềm kiên quyết dị thường. 

Tôi thốt lời ấp úng: 

-A tỷ thái quá tế tâm chiếu cố. Tiểu đệ chỉ thấy hơi chóng mặt qua loa. Chính vì thế nên có ý ra ngoài rảo rong một cuộc cho khuây tâm trí, hô hấp không khí ban mai. Xin a tỷ để cho tiểu đệ thong dong bách bộ một chặp. Vài giờ sau, tiểu đệ sẽ quay trở về được chăng? 

Tĩnh Tử thản nhiên nhìn tôi, đưa tay sửa lại mái tóc, thở ra một cái nhè nhẹ, một chặp cất tiếng liền bảo: 

-Được để em theo chân anh cùng đi. 

Tôi hốt hoảng vội vã nói: 

-Há dám phiền gót ngọc! Tiểu đệ đi một mình cho thư thái. Không có gì phải ngại, a tỷ ạ. 

Tĩnh Tử hơi nhíu hàng long mày, gắng chế ngự dòng nước mắt, ngậm cười mà rằng: 

-Không nên như thế. Dầu phải tan xương nát thịt, em cũng quyết đi theo bảo vệ Tam Lang. Huống chỉ một vài giờ đi bộ. Tam Lang đừng có ngoan cố như thế. 

Tôi đành bó tay, không tìm ra lời gì để khước từ. Cùng Tĩnh Tử chậm rãi bước đi. Trên đường tuyết rơi xán lạn, tôi ngẩng nhìn khuôn mặt phù dung. Trước ánh sáng tuyết pha vào, dung nhan càng diễm lệ tuyệt luân. Linh hồn tôi lại một phen bôn đằng dao động. Tĩnh Tử từ từ đưa bàn tay ngọc nắm chặt bàn tay tôi, hoặc sờ vào mặt mũi tôi coi xem nhiệt độ máu me xương xẩu tôi như thế nào. Nàng còn định nói gì? Nàng không nói gì nữa cả. (La vérité exprimée sans compromise à toujours des bords déchiquetés).

Có phải nàng đương nghĩ như thế không? Hay là chỉ riêng tôi nghĩ như thế. Sự lặng lẽ của nàng là thuận theo? Hay là tự nhẫn? Vì thuận tòng mà tự nhẫn, và tảng lờ như không rõ ý tôi? Hay thật tình nàng không ngờ ra gì hết? Nàng muốn tránh nói tới ý nghĩa cuộc đi kia? – “Chân lý thốt ra không thỏa hiệp, bao giờ cũng có mép rìa tả tơi…?” 

Không biết. Tôi không thể biết. 

Chẳng bao lâu, chúng tôi đã tới bên bãi biển, chỗ vùng cát lõm xuống. Lúc bấy giờ, đương lúc ngọn triều rút xuống. Tĩnh Tử sập hàng lông mi, dường như đang suy gẫm… Tôi thấy nàng mặt mày ảm đảm cùng cực. Tôi thương cảm đưa cánh tay vòng ôm thân nàng, khuyên nàng nên ngồi nghỉ ngơi một chặp. Tĩnh Tử mơ hồ nhìn ra biển rộng không nói lời nào, thuận theo lời tôi, ngồi xuống trên mô đất trắng khô ráo. Lúc bấy giờ tâm hồn tôi đã có phần tỉnh táo, trấn định. Mặt mày không còn nóng bỏng nữa, nhưng vẫn ngồi im lìm trầm mặc. Tĩnh Tử dường như cũng không còn bi thảm nữa, nhưng vẫn đưa mắt mơ hồ ảm đạm nhìn mặt biển lấp lánh sóng xanh. 

Lâu lắm, lâu lắm. Chợt nàng víu lấy vai tôi buồn bã hỏi: 

-Tam Lang, tư lự cái gì triền miên như thế? Tam Lang có vui lòng nghe tôi nói? đừng cho là đường đột sỗ sàng? 

-Chuyện gì thế hả a tỷ? 

-Bữa nọ anh tiếp nhận lá thư từ Hương Giang tới, một lá thư nho nhỏ màu hồng, li ti đầy những chữ Anh Cát Lợi và ký tên “Miss Roberts”. Lá thư đó của cô gái con nhà nào như thế? Em có thể được phép yêu cầu anh cho rõ sự thật hay không? Em nhận định nét chữ của nàng thật là khả ái khiến người nhìn sinh quyến luyến ngay. Rất mực là trân hoa cách thể…Sao nàng lại dùng cái nét chữ tân kỳ loăng quăng tế nhị từ tả sang hữu mà mê hoặc tâm thần Tam Lang? Khiến Tam Lang mơ mơ màng màng tơ tưởng đâu đâu không biết gì đến sự vật xung quanh mình nữa cả? Em trong lòng quyết nhiên đoán định rằng ý hẳn Tam Lang thương cảm cái con người đào hoa bạc mệnh lạ lùng kia. Tam Lang nay có thể vui lòng vì em mà nói rõ sự thật cho nghe chăng? 

Bỗng nhiên nghe nàng nói một việc bất ngờ như thế, với giọng nói vừa thong dong vừa sầu khổ, khiến tôi như từ trên trời rớt xuống, không chuẩn bị gì ra gì được cả để đáp, tôi ngồi lặng thinh như khúc gỗ đăm chiêu, như hòn đá đờ đẫn. 

Tĩnh Tử vẫn tiếp tục thanh vận chậm rãi kia: 

-Tam Lang, vì lẽ chi ngậm miệng ra như thế? Anh không muốn cho em rõ một chút nhỏ nào về câu chuyện ấy hay sao? 

Tới lúc bấy giờ, tôi mới thủng thẳng đáp: 

-Cô ấy người quê quán ở Madrid. Cha của cô ấy chính là ân sư của tiểu đệ. 

Tĩnh Tử nghe tôi nói như thế, thì mắt nàng rung động, thần hồn hoang mang, dường như cực cùng thê thảm tâm sự. Từ từ nói tiếp: 

-Thế thì chắc cô ấy là một người kiều diễm tuyệt luân, Tam Lang làm sao có thể quên cho được? Và từ đó… 

-Từ đó? A tỷ định nói gì? 

Alors vient le chant des fiancailles du Ciel… Và từ đó trở dậy bài ca hôn phối của Trời Xanh? 

Nàng nói một cách nghe như hoan lạc vui tươi mà thật ra chứa chất mối sầu gì khôn tả. 

-A tỷ lại rỡn tiểu đệ rồi. 

-Sao là rỡn? 

Nàng vừa hỏi vừa đưa mắt đăm đăm nhìn tôi, hai đôi anh đào còn khép mở dở chừng, như muốn dò hỏi đáy lòng tôi và xem xét cõi lòng tôi đang hướng tình yêu về phương nào như thế. Tôi nhìn nàng thấy dong nhan tiều tụy, chợt hai mắt nàng rớm hồng. Tôi biết rằng người con gái ấy thiên hoài hoạt bát, lúc bấy giờ sóng tình trùng điệp dâng lên trong mối phập phồng vô hạn. Tôi đứng trước một tình huống quẫn bách dị thường. Không biết ăn nói thế nào cho phải. 

Lát sau, lấy vẻ nghiêm trang tôi đáp: 

-A tỷ hãy nguyên lượng lòng tiểu đệ. Chất vấn nhiều như thế làm gì? Thật tình tiểu đệ chẳng có mối quyến luyến nào trong lòng cả. Còn như mấy ngày rày phiền muộn miên man, thì ấy chẳng là phải như a tỷ tưởng. Tiểu đệ đã đi mòn hai gối khắp những ngã đường dọc ngang khốn khổ, ngày nay đã như người ở cõi khác mà về đây, chẳng mơ mòng tơ tưởng gì với cuộc thế mơ hồ này nữa. Đó là điều a tỷ cố nhiên là chưa biết. 

Tôi nói xong, Tĩnh Tử phất tay áo, che mặt khóc 

-Nếu thật như vậy thì Tam Lang đã xem em như kẻ qua đường. Làm sao em có thể sớm biết được điều đó? 

Một lát sau nàng nói tiếp: 

-Ôi ! Tam Lang, ý anh thật ra hướng về nẻo nào? Anh hoàn toàn hướng về người đẹp ấy, nếu không thì làm sao anh nỡ nhẫn tâm coi nhẹ tâm nguyện của hai bậc già nua mẹ và dì? 

Nghe nàng nói thế, tôi bồi hồi mãi, càng không nỡ làm tổn thương mối tình của nàng. Ấy thật là: dẫu lìa ngó ý còn vương tơ tình…

Tôi bèn thu góp lại những tơ vướng víu cũ lên tiếng bảo: 

-Tiểu đệ đâu dám như thế. Mọi điều nói vừa rồi, chẳng qua cũng là rỡn chút ít đấy thôi. A tỷ hà tất phải bận lòng khiến sợ hãi không còn biết ăn nói ra sao? Sự thật là tâm sự tiểu đệ có phần bối rối, nên lời nói sơ suất đấy thôi. A tỷ yêu mến em sâu xa lắm, xin a tỷ hãy thứ cho, thì em đa tạ. A tỷ bằng lòng như thế chứ? 

Tĩnh Tử nghe tôi nói thế, nửa như vui nửa như sầu, nghiêng đầu tóc xuống vai tôi, rồi như giữ lại không thốt nữa cái điều đang định nói. Tôi an ủi: 

-Bi thương là điều chẳng nên. Tốt nhất là nên quay về vậy. 

Tĩnh Tử sầu oán chợt tiêu tan đi nhiều tươi cười đứng lên, cầm tay tôi hôn vào một trận. 

-Tam Lang, hãy nhớ thế này. Từ nay bất cứ muốn đi đâu, nên cho em đi cùng đi theo với, thì lòng em vui sướng ngay. Còn như sáng nay anh xăm xăm xông sương gió đi một mình như thế, há chẳng là khiến cho người ta lo ngại cho anh lắm hay sao? 

Tôi liền đáp: 

-Xin ghi nhớ điều ấy. 

Tĩnh Tử lúc bấy giờ cúi mặt xuống nhặt một chiếc vỏ nghêu màu hồng lục lóng lánh, cầm trong tay lăn qua lăn lại mấy lần, rồi đặt xuống trên mặt đất. Bề ngoài trông nàng có vẻ rất hân hoan. Chúng tôi sánh vai nhau chậm rãi bước về. Trời bỗng trở màu u ám, như muốn mưa tuyết, mà lại chẳng mưa, trên đường chẳng có người đi, chợt thở ra một tiếng. 

Tôi lo ngại hỏi: 

-Vì lẽ chi thở ra như thế? 

Tĩnh Tử đáp: 

-Tam Lang có điều không vừa ý trong lòng, thì em không thể vui được. 

Tôi nói: 

-Tiểu đệ chỉ mong a tỷ hân hoan thôi. Lúc bấy giờ về đã gần tới căn nhà chơ vơ bên chân núi. Còn cách nhà chỉ vài mươi bước thôi. Tôi dừng chân nói: 

-A tỷ về trước đi, an ủi mẹ già. Tiểu đệ lại đằng nhịp cầu gỗ đằng kia lượm nhặt một tý vỏ sò đem về tặng a tỷ. Cho phép em vài mươi phút vắng mặt nhé. Chỉ ngại a tỷ mong ngóng. A tỷ bằng lòng hay không? 

Tĩnh Tử nói: 

-Được lắm. Em bằng lòng về trước, lo cơm sáng cho anh. 

Nói xong, cầm lấy tay tôi, nghiêm thân nói: 

-Tam Lang, sớm về nhé. Em và em gái anh cùng chờ anh sớm về để cùng ăn điểm tâm. Tối nay chúng ta sẽ cùng ngắm trăng chiếu trên tuyết. 

Tôi đưa mắt nhìn bàn tay tuyết bạch băng thanh của nàng, có hiện màu gân xanh lợt lạt, không nỡ bỏ đi ngay, bồi hồi một lúc lâu: 

-Kính tạ a tỷ đối đãi ân cần. 

Nàng dời chân dáng đi yểu điệu. Nàng lặng lẽ. Nhưng vì lẽ gì trong vắng lặng đìu hiu không khí, rõ ràng tôi nghe tiếng ca ngâm… Giọng của ai? Cùa một nương tử nào trong huyền thuyết? Của Diotima hay là tiểu thư quê quán Tây Ban Nha Madrid? Hẳn là không phải? Nhưng lời ca phảng phất mối sầu nào từ Dante? Beatrice Portinari? Hay Cosima Liszt??? 

Gia suona mattutno, lento, lento.
Ritorno a casa e non veggo la via 
Gli occhi lasciai teco e il sentimento! 
E ne portai con me la gelosia…

(Đã nghe vang động chông mai
Lễ là kỳ tảo, hội là cưỡng câu 
Tôi về nhà cửa sương thâu 
Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường 
Bên chàng thiếp đặt tình thương 
Mắt my môi miệng máu hường bình sinh 
Còn riêng mang mãi bên mình 
Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi…
)

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI 

Tôi đưa mắt nhìn theo Tĩnh Tử. Ngậm ngùi than một tiếng: 

-Tơ tình ràng buộc lòng người chặt chẽ quá! 

Tôi gắng cưỡng chế sóng tâm tình, vội vã quay gót vòng quanh chân núi. Đang bước đi, chợt gặp người phu kéo xe tay, tôi gọi lại, leo lên xe ngồi, thẳng đường tới nhà ga. Mua vé tàu xong, tàu hỏa chuyển bánh, thôi thế thì thôi… 

Who ran to help me when I fell,
And would some pretty story tell, 
Or kiss the place to make to make it well?…
” 

(Ai người ai kẻ giúp tôi
Lúc tôi té giữa khung đời dở dang 
Ai đăm chiêu kể chuyện vàng 
Ai hôn chốn cũ cho dàn mộng xinh…?

Hai ngày rưỡi sau, tôi tới Trường Trĩ (Nagasaki) rồi xuống tàu thủy sang Trung Hoa. Bấy giờ nhìn lại cảnh mặt biển đã từng chứng giám ngày tôi về Nhật… 

Hai đoạn đời! Cách biệt nhau như trời cao và đất thẳm. Tôi đem hết bao nhiêu giấy mực và tặng vật Tĩnh Tử trao cho tôi, tôi đem quăng hết vào lòng biển. Tự nhủ: như thế là hết. Trút sạch làu tàu mọi kỷ niệm đau xót vào trong lòng nước ngàn năm nguôi lãnh… 

I told myself that the sorrows and trouble of my heart had also been swallowed into oblivion by the same waves…

In over a year and a half,
I’ve only sung it one, 
And I don’t suppose I shall sing it again 
For months and months and months
” 

Đó là thơ của ai tôi không còn nhớ rõ. Nhưng nó về bây giờ giữa lúc tôi quyết liệt quên quên, trên mặt đại dương ngày nọ đã từng nhìn thấy tôi cao hứng dịch thơ Byron. Còn lại gì đâu của ngày nô nức cũ? 

Hơn một năm rưỡi trời tôi đã hát
Chỉ một lần tôi lên giọng cao ca 
Và tôi tưởng không bao giờ còn hát 
Lại một lần suốt tuế nguyệt dôi da

Bên cành hồng thụ phôi pha
Càn khôn riêng một đời ta hư phù… 
Anh hoa phát tiết sa mù 
Mùa dâng nhị bội sương phù du tuôn…
” 

Còn lại gì đâu? Đâu còn gì lại (cại lòn) của ty hào hoang mao nương tử. Dù nương tử ôn tồn thùy mỵ nhe răng cười huyền bí một đêm kia. Dù nương tử ỡm ờ ôi cợt ghẹo! Cái tồn sinh tại hạ mép bên rìa… 

Tôi hối tiếc từng cơn yêu đắm đuối
Tôi bàng hoàng sống từng trận nam phương 
Hồ phương diện gió phương lan lầm lũi 
Biển phong lan triều nam diện lên đường. 
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch 
Những thay hình đổi dạng mở phơi 
Trong ly nước mộng tuyệt vời 
Với sầu giao động nỗi đời giao thoa 
Hồn trong định mệnh đọc ra 
Hỡi ôi dâu biển đầu hoa mơ hồ

Blame not my lute! For he must sound
Of this and that as liketh me.

Đừng lên án tỳ bà cung bậc
Vì nó ngân huyền mật nọ kia 
Như niềm hối tiếc bốc tia 
Như hồn hoài vọng mép rìa tồn liên 
Tỳ bà hỡi! Triền miên trở giấc 
Lần lao công tối hậu một lần 
Rồi ra lãng phí vô ngần 
Sơ đầu chung cực đây lần sơ khai 
Bởi chưng cung bậc ngân dài 
Chớm qua dứt tuyệt an bài đã xong… 
Cung tỳ bà hỡi song song 
Về sương nhị bội bên dòng tịch nhiên 

(My lute, awake! Perform the lasts
Labour that thou and I shall waste, 
The end that I have now begun; 
For when this song is sung and past, 
My lute, be still, for I have done.

Hỡi giấc ngủ làm tiêu tan phiền não
Đứa con yêu của hắc dạ u nùng 
Bồ bịch với tử thần từ muôn thuở 
Nảy sanh trong vùng tĩnh tịch thân uyên 
Xin giải khứ cho ta niềm uể oải 
Và liên tồn thiết lập ánh dương quang 
Phục hồi lại lãng quên sầu suốt xứ 
Để triều ngày về kịp lúc than van 
Những bão tố từng đánh chìm xuân xanh mộng 
Giúp nhãn quan đủ sức khỏe muôn vàn 
Niềm khinh thị cuồng kiêu dâng trống rỗng 
Chẳng cần chi đêm phi lý điêu tàn 

(Care-charmer Sleep, son of the sable Night, Brother to Death, in silent darkness born;
Relieve my languish, and restore the light 
With dark forgetting of my care return, 
And let the day be time enough to mourn 
The shipwreck of my ill adventured youth; 
Let walking eyes suffice to wail their scorn, 
Without the torment of the night’s untruth
.) 

(Daniel) 

Giấc Hy Lạp anh hùng Ulysse hỡi
Hãy về nhanh về gấp ở bên ta 
Cùng sở hữu những bờ xanh bến lục 
Gây não phiền là giông gió đại dương 
Và tại đây ta giải phóng phiêu bồng. 
Ngồi chứng kiến những lao công hỳ hục 
Suốt bốn mùa trong thăm thẳm trùng dương 
Ngày hoan lạc sát na tươi thắm nhuộm 
Suốt đêm trường nằm ngủ mộng tinh sương 

(Come worthy Greek, Ulysses, come,
Possess these shores with me; 
The winds and seas are troublesome, 
And here we may be free. 
Here may we sit and view their toil 
That travail in the deep, 
And joy the day in mirth the while, 
And spend the night in sleep.

Sau hai ngày trên tàu triền miên cơn cớ phiêu bồng ra như thế, chúng tôi đã cập bờ Thượng Hải. Tôi lên bờ, lập tức dấn bước vào đô thành. Sắm vội một bộ y phục tăng lữ, tịch nhiên hướng về Vũ Lâm. Tôi vốn xưa nay hâm mộ cảnh đẹp Thánh Hồ, bấy giờ thuận đường ghé viếng một trận cho thỏa tâm nguyện bình sinh. Lúc đến bên bờ Tây Tử Hồ, cảnh vắng lặng bao la khiến tôi mở rộng mắt nhìn suốt buổi, phiêu nhiên hẳn ngoài vòng lao lung khổ nhọc trần hoàn. 

Phải rồi. Phải rồi. Thiên nhiên là cõi rộng từ bi, ban cấp cho con người cái kho tàng vô tận. Tôi nghe rõ giọng Thiên Nhiên man mác vỗ về. 

-“Lúc ngươi yêu ta, ta cho người toàn thể vừng dương vừng nguyệt và ngàn sao trên trời, để đùa chơi cho thỏa mộng. Ta cho ngươi toàn thể thời gian vĩnh viễn của Thời Thể trong một thiểm động sát na. Ta cho ngươi toàn khối hùng cường núi non giáp trĩ, cổ thụ lâm tuyền trong một vòng tay ghì siết. Ta cho ngươi toàn khối đại hải sông hồ trong một nhịp phập phồng của hồn ngươi náo nức…” 

When you love me. I gave you the whole sun and stars to play with. I gave you eternity in a single moment, strength of the mountains in one clasp of yours arms, and the volume of all the seas in one impulse of your soul”. 

Tôi bước lên một chiếc ghe con hình hài giống như quả dưa gang. Hướng về phía Mao Gia Phụ (bến tàu Mao Gia). Tôi khoác áo, kiểm điểm hành trang, tìm tới chùa Linh Ẩn. Tức là nơi chốn mà Tống Chi Vấn từng vịnh: 

Lâu quan thương hải nhật
Môn đối Chiết Giang Triều
” 

(Lầu gác ngóng về phía mặt trời trên biển xanh. Cửa ngõ đối diện với triều trước Chiết Giang). 

Chiết Giang triều nước xuôi dài
Vừng dương ngóng mộng lâu đài biển xanh 
Hồng môn đối diện đô thành 
Thành đô diện đối trì hành lữ cung

Tiền môn lù hiện liên tùng
Khách đường phục chí tao phùng chỉn e 
Buông rơi hành lý trên hè 
Sa di chất vấn ai dè khách xa 
Từ đâu đất trích tại nhà 
Đừng chờ đợi tịch nhiên là ngỗng xưa 
Hồn linh giải tỏa không ngừa 
Tằng kinh thương hải xin chừa vũ vân…

(I went to the monastery door and then onto the visitors’ reception hall. After I had put my baggage outside the hall to the left side. I went to the right sight and stood as immovable as the proverbial swan – Liberavi animan meam” – I have freed my soul). 

Một chặp lâu sau một nhà sư ra hỏi: 

-Đại sư từ đâu lại? 

Tôi đáp: 

-Từ Quảng Châu lại. 

Nhà sư nghe nói thì hân hoan mà rằng: 

-Quảng Châu là nơi chốn phú dụ lắm. 

Tôi không đáp, mò trong túi rút ra xuất thẻ tăng lữ đưa ông ta xem. Nhà sư xem xét xong, liền hân hoan dẫn tôi lên lầu gác phía Nam nghỉ ngơi. Phòng ấy khá rộng, có tới mấy trượng vuông, trong lầu chẳng có đồ vật chi hết cả chỉ có một ít gạch xám chất lại mà thôi. 

Đến chiều hôm, bữa ăn chay dùng xong, tôi vội đi nghỉ, dùng những tấm gạch xám làm gối gối đầu, làm nệm gác chân. Giữa đêm thình lình thức giấc, không sao trở ngủ lại được, nghe có những âm thanh gì léo nhéo trong phòng. Lòng tôi kinh nghi, tưởng rằng phòng có ma quỷ cư trú. Lòng tôi sợ mãi không thôi. Tôi run sợ vội quấn tấm chăn trùm kín dầu, không dám mở mắt rục rịch gì hết cả. Mình mẩy mồ hôi ra như tắm. Đêm thâu chầy chầy, lòng tôi khổ sở buồn sợ khôn xiết. Trời vừa chớm tinh sương, tôi nghe tiếng chuông ngân, liền vùng dậy. Hỏi thăm nhà sư gác đêm, mới hay rằng trên lầu có nhiều chuột, đêm chúng kêu nhau nheo nhéo, chứ chẳng phải ma quỷ thần tiên thiên tần gì hết cả. Những khách tiến hương lai vãng, nghỉ lại chùa, vốn thường kinh hoảng ra như thế. 

Ăn sáng xong, trụ trì tới chào hỏi tôi mà rằng: 

-Sư từ xa đến đây, sớm hôm chả phải lên điện làm gì, chỉ ra bên ngoài chùa quét lá khô rụng, chất dồn lại rồi đốt. 

Tôi đáp: 

-Xin trân trọng thụ giáo. 

Quá ngọ, tôi được sai đi cắt cỏ và rửa cỏ tại chân đá Lãnh Tuyền Đình. Sống thong dong như thế năm ngày. Tôi cảm thấy thư thái trong lòng, chẳng còn biết chi tới những ưu hoạn nhân gian, những kinh hãi trần thế. Nghe gió, ngóng trăng, nhìn hoa, gọi lá, vạn niệm gột sạch làu làu. Tuy nhiên đôi lúc vâng, dường như…-“Zwei Seelen wohnen ach! In meiner Brust.” (Goethe) Hai linh hồn hỡi ôi! Cùng cư lưu trong hung trung tôi vậy. 

Làm thế nào? Làm thế nào! Phải tự mình chối bỏ mất mình đi. Đó là lời ca ngâm trăm năm vĩnh viễn. 

Entbren sollst! Du! Sollst entbehren!
Das ist der ewige Gesang

(Goethe) 

Meine Ruh’ist hin,
Mein Herz ist schwer

Miền thanh tĩnh trong tâm linh tôi đã mất
Trái tim tôi mang nặng những đau thương 
Hồn vĩnh viễn ngậm ngùi như viễn khách 
Lạc trong sương hoài niệm một thiên đường 
Tình nghĩa cũ giữa đêm trường thống thiết 
Lời than van sao mãi mãi như dường 
Thanh xuân phơi phới mộng hường 
Trong linh hồn dậy mùi hương năm nào 
Hỡi ôi dâu biển dậy trào 
Tầm sưu túy điệu ty hào rỗng tuênh…

Ich singe, weider Vogel singt,
Der in den Zweigen wohnet…

Ca lừng như mộng thênh thênh
Như chim hót giữa buồn tênh nhánh cành 
Em biết chăng cõi miền hoa chanh nở 
Lá um tùm lồ lộ trái vàng cam 
Vòm phơ phất tự trời xanh bỡ ngỡ 
Rừng sim ôi bóng lục trúc đào lam 
Miền cõi ấy nơi kia là chốn ấy 
Cùng em đi tới viếng buổi khôn hàn 
Song trùng đôi núi quan san 
Người em yêu dấu còn hoang mang gì.

Kennst du das Land, wo die Zitronen blühn, Im dunkeln Laub die Gold – Orangen glühn, Ein sanfter Wind vom blauen Himmel weht, Die Myrte still und hoch der Lorbeer steht? Kennst du es wohl?

Dahin! Dahin!

Moech ich mit dir, omein Geliebter, ziehn!

(Know you the land where the lemon-trees bloom? In the dark foliage the gold oranges glow; a soft wind hovers from the sky, the myrtle is still and the laurel stands tall – do you know it well? There, there, I would go, O my be loved with thee!

Song trùng đôi núi quan san
Người em yêu dấu còn hoang mang gì 
Cùng em ước nguyện xin đi 
Ngôi nhà cổ một lầm lỳ nín thinh 
Trụ lăng cẩm thạch biên đình 
Cảo thơm lần giở sao Tình Yêu phai 
Lối mòn sơn đạo lẻ loi 
Trong sa mù lạnh bóng lừa tịch liêu 
Động Xưa Rồng Cũ Cựu Triều 
Lâm tuyền Nham Thạch sương chiều dửng dưng 
Miền kia mộng ước không cùng 
Vùng Thanh Cấm Nguyệt ta cùng nhau đi…

(Goethe) 

Ich grolle nicht, and wenn das Herz auch bricht

(I do not murmur, even if my heart breaks) 

Thở than nào có ích gì 
Dẫu rằng tim máu vạn nghì tan hoang 
Bởi đâu sầu khổ muôn vàn 
Nghĩa gì như thế? Khôn hàn lao lung 
Bởi đâu tim máu khôn cùng 
Còn nghe vang dội song trùng sử xanh

Thần Tiên Chuyện Cũ chia ngành
Biển dâu phù động sịch mành sương sa… 

-Ich weiss nicht, was sol les bedeuten 
Dass ich so trauirig bin; 
Ein Maerchen aus alten Zeiten, 
Das kommt mir nicth aus dem Sinn. 

(I know not why I am so sad 
I cannot get out of my head 
A fairy-tale of olden times…

(Heinrich Heine) 

Những câu chuyện thần tiên huyền ảo! Ôi những ngày tôi cư lưu tại gia đình vị mục sư Tây Ban Nha năm ấy. Mục sư giảng dạy Âu ngữ cho tôi. Tiểu thư đọc Dante, Unamuno cho tôi. Ngày ấy xa xuôi lắm, kể như một thế kỷ trôi qua. Tôi chưa bao nhiêu tuổi, nhưng hình như đã mang hết mọi tuổi tác trần hoàn. Tiểu thư của Tây phương về Châu Á. Kỳ ngộ ngẫu nhiên rằng từ ngẫu nhĩ. Tới bây giờ tại hạ còn tỉ mỉ hoài niệm mỗi lời mỗi tiếng gieo vàng ném ngọc của cô nương. 

Nel mezzo del cammin di nostra vita

(In the middle of the road of our life…)

Đứng ở giữa con đường bình sinh cuộc sống. Tại hạ quay đầu về hướng vọng mãi ân tình vô hạn của cô nương. Cô nương bình yên một bình sinh nơi lầu cao gác rộng. Tại hạ xin suốt đời phiêu dạt chân trời mặt biển để cầu nguyện sương tuyết cho cô nương… 

Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Dư vang hạnh phúc một thì đã qua 
Niềm riêng tại hạ chan hòa 
Người ôi ấy kẻ tôi là tại đây… 
Trút niềm giũ nỗi sơ khai 
Tâm tình hoài vọng bỏ ngoài xa kia…

Lasciate ogni speranza voi ch’entrate!

(All hope abandon, ye who enter here) 

Nessun maggior dolore, 
Che ricordarsi del tempo felice 
Nella miseria 

(There is no greater sorrow 
Than to recall a time 
Of happiness in misery)

Hỡi ôi tại hạ là là
Hỡi ôi ôi hỡi lọ là hỡi ôi 
Niềm đau nỗi khổ không lời 
Liên miên tuế nguyệt muôn đời dây dưa 
Không thay không đổi không chừa 
Không hy vọng hão không thừa thãi dâng 
Mà riêng tấc cỏ vô ngần 
Dấu bèo cam chịu tử phần chịu cam…

(-“Ah me!
Pain, pain ever, for ever! 
No change, no pause, no hope! 
Yet I endure…”) 

Cô nương phấn diện hội đàm 
Biệt khai sinh diện ngậm hàm sương thu 
Ni cô nuồng thúy lục phù 
Chân kinh dưỡng dục thân tù tội thân 
Lời đi lệch mất một phần 
Hoàng mao a tỷ yên hàn lung sa 
Trời mai trời mốt trời qua 
Phỉ phong cốt cách mà ra phụ lòng 
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng 
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan 
Lời xưa đã lỗi muôn vàn 
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây 
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây 
Đỉnh chung sao nỡ kiếp này cho an 
Hùng cơ hiêu cảo đa tàm 
Hương giao hùng nhụy hoa đàm lục sim 
Ly căn gia tốc diện tiền 
Bào hoa bán đỗ ba hiền bốn nhân 
Điên tam đảo tứ chuyên cần 
Mẫn mai hoàng vũ thị gần thị xa 
Mù khơi ma mộc giang há 
Mòn con mắt một người ta nhu mì 
Nhị bù thập đắp thiên ty 
Thần hoang vu dậy tiên quỳ hai chân 

La Treizième revient… 
C’est encore là première 
Et c’est toujours la seule-ou c’est le seul moment 
Car es-tu reine ô toi la première 
Ou la denière? 
Ou le dernier amant?… 
Es tu roi? Toil le seul 
Aimez qui vous aima du berceau dans la bière 
Celle que j’aimais seul m’aime encore tendrement 
C’est la mort 
Ou la morte 
Ô délice! Ô tourment! 
La rose qu’elle tient 
C’est la Rose Trémière 

Em Mười Ba trở lại 
Vẫn em thuở ban đầu 
Vẫn em người duy nhất 
Hoặc duy nhất phút giây 
Phải em là Hoàng hậu 
Thứ nhất hay cuối cùng 
Phải em là Vua Chúa 
Người duy nhất 
Hay tình nhân chung cục? 
Hãy yêu đi kẻ từng yêu người lắm đó 
Từ trong nôi trong đáy chiếc quan tài 
Kẻ ta yêu một mình 
Còn yêu mãi 
Em ồ em 
Em mãi mãi đó mà 
Ấy Tử Thần hoặc Người Em Tử Diệt 
Ôi não nùng ồ hoan lạc sương rơi 
Đóa tường vi nàng nắm giữa tay ngời 
Là hồng lục Đường Quỳ rừng tử trúc 
Thánh nữ thành đô 
Thiên thu trời Ý 
Hai bàn tay đầy lửa rực lập lòe 
Về Á Đông là lựu đỏ ven khe 
Hồng phong nhụy là hoa tâm màu tía 
Đóa hồng vàng của Thánh Nữ Gudule 
Có tìm ra trong sa mạc đầu nguồn 
Chiếc Thập Đá giữa thanh thiên vòi cõi 
Hồng tuyết bạch hãy rụng rơi vội vã 
Vì lẽ chi người lăng nhục Chư Tiên 
Rụng rơi đi ma trắng giữa trời ghiền 
Thánh hố thẳm, thánh hơn người lắm đó 

Rose blanche, tombe! Vous insultez nos dieux Tombez, fantômes blancs, de votre ciel qui brule: 

-La Sainte de l’abime est plus sainte à mes yeux! 

-The Thirteenth returns… 
She is still the first 
And always the only one 
Or the only moment: 
For are you Queen, ô you! 
The First or the Last? 
Are you King 
You the only or last Lover? 
Love who loved you 
From the Cradle to the Grave: 
She whom I loved alone 
Still loves me tenderly: 
She is Death – or the Dead Woman 
O delight! O torment! 
The Rose she is holding 
Is the Hollyhock Flower. 
Napolitain saint with your hands 
Full of fires, 
Rose with the violet heart, 
Flower of saint Gudula: 
Did you find your cross 
In the Desert of the Skies? 
White Roses fall! 
You insult our Gods: 
Fall, white Phantoms, from 
Your burning sky: 
The Saint of the Abyss 
Is more saintly in my eyes! 

Hỡi nương tử tiểu ái nữ của mục sư Robert ngày cũ! Nương tử chính là một nòi Nữ Thánh Hố Thẳm của tự như phiêu nhiên nhi lai, phiêu nhiên nhi thứ của Tử Trúc Lâm nào vô sở tòng lai diệc vô sở khứ. Ngày xưa, đuổi ra khỏi gia đình, tại hạ đã may mắn được chưởng môn phương trượng Tử Trúc Lâm nuôi nấng, giáo hóa mấy năm. Khi phương trượng bất ngờ viên tịch, tại hạ bơ vơ được gia đình cô nương đem về dạy dỗ, bày vẽ học tập sách vở Tây phương ân sâu nghĩa nặng thế nào. Mà riêng dong nhan và tâm hồn nương tử càng âm thầm giáo hóa ôm ấp tuổi thơ của tại hạ. Kể làm sao xiết muôn vàn… Ôi nữ lang! Một lần trong liên tồn vạn đạo. Tại hạ không còn lời không còn tiếng để nói ra huyền nhiệm của hoàng mao lục diện nga my những sát na khôn hàn thuở đó. Những thi ca Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha từ đó, đã phát tiết anh hoa ra ngoài, là chỉ duy tứ Tinh Thể của thiên hương quốc sắc nọ mà thôi. Nhưng vì lẽ cho cô nương thùy mị hồn nhiên đoạn trường là thế, cô nương lại giảng giải cho tại hạ quá nhiều về tâm sự Emily Bronte? 

Ngày nay. Ngày nay mà bao nhiêu mộng tồn sinh của bình sinh tại hạ đã theo nhau tan rã xuôi chiều, nằm tĩnh mịch nơi cổ tự hoang liêu, hoài niệm cô nương, tại hạ chỉ còn biết ôn lại lời thơ ngày cũ, phiên dịch nó vào trong ngôn ngữ Á Đông này, riêng gửi cho gió vàng về ngọn cỏ lá cây… 

Tù Nhân 

Tuy nhiên bạo ngược nhà ngươi
Hãy xin rõ nhẽ con người của ta 
Cả tua mệnh vận há là 
Liên tồn chịu trận năm qua năm về 
Há ru trầm nịch não nề 
Nể lòng há lẽ ba bề rụng lông 
Bốn bề rung lộng vời trông 
Rộng lưng tuyệt vọng bụi chồng chất than 
Chẳng nhe ưu uất khôn hàn 
Há rằng sứ giả muôn vàn biệt tăm 
Niềm hy vọng nguyệt đêm rằm 
Hằng hằng tĩnh dạ hội đàm đáo lai 
Hiến dâng tặng vật khôn tày 
(Khay tồn) Tự do vĩnh viễn cho ngày phù du 
Đến từ trận trận gió tây 
Với luồng thiên khí cuối ngày lang thang 
Với hoàng hôn bảng lảng vàng 
Trời thanh như lục lam dàn nghìn sao 
Gió se từng sợi thì thào 
Tư lường với lửa ngàn sao lập lòe 
Vô ngần tượng triệu vàng hoe 
Phất phơ phù động lệ kiều sát nhân 
Niềm vui hứng? Nỗi tần ngần 
Liên tồn chết lịm tiên lần tồn lo 
Tằng kinh thương hải xuống đò 
Đáo lai bỉ ngạn khôn dò bỉ biên 
Phiêu bồng dục vọng mãn thiên 
Vô duyên lộng xõa với niên kỷ chầy 
Cơn vui cuồng dại cuộc này 
Giữa niềm khiếp đảm lệ đầy tương lai 
Triều dự cảm, sông ngân dài 
Đẫm trang hồng hạnh mỏng dày mấy phân 
Trời bất tuyệt mộng thanh tân 
Trời linh thể ngập bôn đằng sát na 
Từ đâu tới những dư ba 
Từ vầng nhật sáng hay là bão giông 
Từ cơn chiếu diệu lục hồng 
Hay từ sấm chớp vân mồng truy hoan 
Tuy nhiên sơ khởi một làn 
Phiêu nhiên tĩnh tịch lại dàn cồn hoa 
Vô thanh vô tức khuynh tà 
Xuống chênh chếch bóng như là đà gieo 
Cuộc tranh chấp vốn hiểm nghèo 
Của nô nức với hút heo đoạn trường 
Bỗng dưng chấm dứt như dường 
Rằng từ ngẫu nhĩ vô thường ra hoa 
Thần tiên thuyết thoại hay là 
Tiên thần hiền thánh hanh hà thông hang 
Thang hồng lồng lộng hai làn 
Thanh lan rũ bức một hàng cỏ thơm 
Vân niên cốc khẩu khe rờn 
Đào tâm sự túy tiếu cuồng ca ngâm 
(Sịch mành huyền hỏa cựu lâm 
Đăng nhai đáo lĩnh sầm sầm uất sương 
Hành ca thị thượng thế thường 
Ông trời rớt hột vì thương bà trời 
Tấm quần bà ướt chơi vơi 
Đầu tiên xiêm trút mồ hôi con tườu 
Bất cần xảo toán cơ mưu 
Diêm sinh điếm đạm giấc trừu tượng mơ 
Phi tiên? tức đạo lững lờ 
Phi hiền? tức thánh tiên thờ phượng tiên 
Diện tiền bất viễn tồn liên 
Tiên đồn thánh lũy phi tuyền tuôn ra) 
Âm thầm xoang điệu hòa ca 
Máu trong me phổi da ngà máu me 
Mé mau kỳ ảo lập lòe 
Liên tồn nứt rạn lại lè xè ngân 
Há rằng duệ địa toi đâm 
Đi đời đất tiếu ngâm ngâm tuyệt trù 
Tới bao giờ đến bây giờ 
Tan hoang hào lũy mới ngờ cho ra 
Bấy giờ bất chợt lập lò 
Lóe ra một tí tia vô dạng hình 
Cõi Vô Thức, miền U Minh 
Huyền vi tịch hạp ôn hinh hai vành 
Xòe ra xoạc tới chớp nhanh 
Cù cưa đúm đẩy tam bành nhà ma 
Ngất ngây chết lịm ngoài da 
Thì trong tinh thể lại hòa chan cơn 
Vèo bay đôi cánh xanh rờn 
Cập bờ cố ý làm dồn rộng thêm 
Dám toan khêu dược vang trền 
Mép rìa tối hậu truông ghềnh thậm chung 
Hỡi ôi nhịp điệu song trùng 
Cuộc đừng cơn phập phồng hùng tâm se 
Huyền môn tâm pháp khôn dè 
Liên tồn khởi sự nhìn nghe liên tồn 
Máu tim ráo riết dập dồn 
Não cân ngong ngóng một dòng tư suy 
Hồn cảm phách? Phách cảm ghi 
Máu me khiêm thuận sầu bi xích xiềng 
Dẫu sao hảo hợp là miền 
Của tương xung của uy quyền âm dương 
Thế sao là sổ đoạn trường 
Bài ra thế ấy vịnh dường thế kia 
Càng khắc khoải càng bốc tia 
Liên tồn càng dập, mép rìa càng dâng 
Triều ngây ngất, sóng lâng lâng 
Ỷ liên thanh ngạn bên lầm than hang 
Ban sơ cỏ mọc hai hàng 
Ngần sương chiếu diệu huy hoàng tượng hoa 
Dẫu rằng hoành đoạt thậm đa 
Lửa đen hỏa ngục hay là dương quang 
Dẫu như bất tuyệt khôn hàn 
Dẫu rằng cơ sự muôn vàn nhà ma… 
(Bạch hồng loạn trụy thiên hoa 
Kim liên địa dòng mù sa đêm nào 
Tinh vi vạn pháp ty hào 
Mạn dao chủ vỹ em Tào Tháo ôi 
Cửa thiên chấn động liên hồi 
Lôi đình hội đạo ly bôi hội thiền 
Tam tòa phối hợp như nhiên 
Bronte thiết nhứt Nuồng Tiên thiết nhì 
Ở truồng lắm lúc lắm khi 
Lắm là rất mực ù lỳ lắm nghe) 

THE PRISONNER 

Still, let my tyrants know, I am not doomed to wear
Year after year in gloom, and desolate despair; 
A messenger of Hope comes every night to me, 
And offers for short life, eternal liberty. 
He comes with western winds, with evening’s wandering airs, 
With that clear dusk of heaven that brings the thickest stars. 
Winds take a pensive tone, and stars a tender fire, 
And visions rise, and change, that kill me with desire. 
Desire for nothing known in my maturer years, 
When Joy grew mad with awe, at counting future tears. 
When, if my spirit’s sky was full of flashes warm, 
I knew not whence they came, from sun or thunder-storm. 
But, first, a hush of peace–a soundless calm descends; 
The struggle of distress, and fierce impatience ends; 
Mute music soothes my breast–unuttered harmony, 
That I could never dream, till Earth was lost to me. 
Then dawns the Invisible; the Unseen its truth reveals; 
My outward sense is gone, my inward essence feels: 
Its wings are almost free–its home, its harbour found, 
Measuring the gulph, it stoops and dares the final bound, 
Oh I dreadful is the check–intense the agony– 
When the ear begins to hear, and the eye begins to see; 
When the pulse begins to throb, the brain to think again; 
The soul to feel the flesh, and the flesh to feel the chain. 
Yet I would lose no sting, would wish no torture less; 
The more that anguish racks, the earlier it will bless; 
And robed in fires of hell, or bright with heavenly shine, 
If it but herald death, the vision is divine!” 

(Emily Bronte) 

Bộ sách quý giá cô nương đưa tặng tại hạ ngày tại hạ đáp tàu sang Nhật, ngày nay tại hạ nằm bên phương trượng chùa chiền, vẫn đem gối đầu năm canh, và bao phen lần giở… Một mùi hương huyền ảo từ đó cứ đi về vây bọc một cung thành mơ mộng suốt bờ cõi chiêm bao. 

Thưa Gái ạ! Nếu gái về xứ sở –
Của dư vang về sử lịch khuynh thành 
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ 
Sẽ bao trùm hồn sông Lõa sông Xên

Si vous alliez, Madame, au vrai pays de gloire,
Sur les bords de la Seine ou de la verte Loire, 
Belle digne d’orner les antiques manoirs, 
Vous feriez, à l’abri des ombreuses retraites 
Germer mille sonnets dans le coeur des poètes, 
Que vos grands yeux rendraient plus soumis que vos noirs

(Bauldelaire)

 

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT 

Một ngày kia nhàn rỗi, tôi lẩn thẩn ra ngoài Xuân Tông Đình ngắm cảnh, chợt thấy trên tường vách có bài thơ ai mới viết lên, nét chữ đen còn ướt. Tôi tỉ mỉ đọc xem thì ra đó là bài “Tổn quan trúc chi từ”. 

Nhị phẩm gia hàm tứ phẩm giai
Hoàng nhiên lục kiệu tứ nhân đài 
Hoàng đường bán quỵ xưng ty phủ 
Bạch giản thông tường thự hiến đài 
Miết phủ thỉnh đàm đương tọa trấp 
Trác phiên tiếp kiến đại môn khai 
Tiện nghi thử nhựt xưng quan sát 
Ngũ bách quan đương mại đắc lai…

(Bài thơ ngụ ý châm biếm bọn hãnh tiến đút lót tiền nong lên chức quan chễm chệ làm tàng) 

Tôi đang trầm ngâm ngán ngẩm, định bỏ đi nơi khác, chợt thấy một tỳ kheo thiếu niên mang một cái giỏ bước tới, khoảng chừng mười sáu mười bảy tuổi. Gương mặt có vẻ u ám đau buồn. Vừa thấy tôi, thì liền chắp tay đảnh lễ mà rằng: 

-Kính a sư, nơi này có chốn nào cho tôi tạm trú chăng? 

Tôi đáp: 

-Có. Tôi đưa dẫn chú tới khách đường. 

Tỳ kheo nói: 

-A Di Đà Phật. 

Tôi nói: 

– Chú từ đâu lại? Xét hình dong chú, lao khổ lắm lắm, để tôi xách giùm cái giỏ kia cho chú. 

Tỳ Kheo nhíu mày đáp: 

-Đa tạ hậu ý a sư. Tôi mỏi mệt lắm, đúng như sư vừa nói. Tôi từ Hồ Nam tới đây, phát nguyện tham lễ thập phương. Mặc dù tôi ốm yếu mỏi mệt, nhưng mối hận trong lòng đã tiêu tan, và hơn nữa, cũng quên bẵng, chẳng còn nhớ nỗi cay đắng như thế nào. 

Tối đến, tỳ kheo cùng tôi lên gác ngủ. Tôi xét thấy áo quần vật dụng của chú, đều không có vẻ cũ kỹ lắm, thì đoán rằng chú ta chỉ mới cạo tóc đi tu thôi. Và chỉ nhìn thoáng qua cũng rõ là trong lòng chú chất chứa ngàn mối uất hận. 

Bèn hỏi: 

-Chú xuất gia bao lâu rồi? 

Tỳ kheo nghe tôi nói, trầm tư một lúc lâu, rầu rĩ đáp: 

-Tôi cạo đầu chỉ mới hơn tháng nay. A sư đối đãi với tôi thật nhiều đức độ lễ nghĩa. Lòng tôi thật cảm kích. Tôi xin cho a sư rõ vì lẽ chi cho tôi xuất gia – Tôi hận người đời! Từ bé mồ côi cha mẹ, chú tôi tham tiền tham lợi đem tôi bán cho một gia đình giàu có để họ làm con nuôi. 

Một ngày kia, mưa gió tầm tã, tôi ngồi bên cửa sổ, đọc thi ca đời Đường, chợt thấy nhà láng giềng có một cô con gái. Lúc bấy giờ bên khung cửa thêu thùa. Tôi đưa mắt nhìn cô ấy. Thì rõ ra là một hồng nhan sắc nước hương trời, quả có là như thiên tiên xuống trần gian giỡn cợt. 

Ban sơ tôi chẳng dám có ý dòm dỏ lếu láo gì cả. Chợt một ngày nọ, cô gái kia viết cho tôi một tờ thư cũn cỡn, đem dây chỉ hồng cột vào đuôi một con chuồn chuồn tý hon, cho veo bay tà tà qua song cửa tôi. Nó bay chậm rãi vào phòng, uể oải đậu xuống cách tôi ba thước rưỡi bốn ly. Phía bên dưới là một dòng khe rất mực tiểu khê liên tồn ngăn cách ngôi nhà cô con gái xinh đẹp và nhà tôi. Tôi nắm được tờ thư, thong dong hồi hộp tụng niệm thiết tha, như các vị thầy tu tụng kinh gõ mõ, hầu mong sớm về Niết Bàn Cực Lạc, hoặc trời Đậu Suất, hoặc trời Phạm Hạnh La Treizième, La Quatozième. Lòng thơ ngây của tôi say lúy túy trong kiều diễm quốc sắc, say sưa bàng hoàng giữa cuộc tình tự thiên hương, máu me bột bột như Tề Thiên Đại Thánh ăn trộm được đào tiên điên tào đào túy. Nhân than thở một tiếng mà rằng: 

-Ta há chăng tu hành đắc quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề từ bao nhiêu kiếp trước, mà kiếp nay sinh bình lạc được lọt vào vòng con mắt xanh tươi mát của giai nhân? 

Do đó, mộng hồn ước phách thảy thảy hai mặt ba bề, bốn xung quanh đều bị gái láng giềng liên tồn nhiếp dẫn vào vòng ảo huyễn phiêu nhiên chẳng còn biết đâu là trời thái hư, đâu là đất tịch mịch, mây phiêu hốt, trăng hoang liêu, nguyệt nguyên tiêu, tuyết trùng dương, mưa sóc vọng… 

Hỡi ôi linh hồn đãng khí vân tiêu
Vào trong sóc vọng đến điều trùng dương 
Bình minh Bắc Húc một phương 
Mở phơi phóng nhiệm lục hường hây hây 
Hồng nhan em có mọc đầy 
Liên tồn em khép mở đầy ngổn ngang 
Bấm dây trên phím tơ đàn 
Mờ bay trắng xóa suốt ngàn mai xuân 
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung 
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng 
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến 
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng 
Một ngành diễm tuyệt tơ chung 
Vu sơn vân vũ yên lung lục hàn 
Hè xuân nhị nguyệt bước sang 
Màu nguyên thủy giục một nàng bước ra 
Phượng khô từ tiết tháng ba 
Mùa đông sắp tới đo ra một hàng 
Anh đi gió trút đổ ngàn 
Rồi tung râu tóc áo vàng thước gươm 
Rằng từ mây liễu hoa tâm 
Mộng về hàm tiếu ngâm ngâm bên người

Kính thưa đại sư! 

Nói ra thì nghe chướng thật, nhưng làm sao có thể chẳng nói ra. Cầm tờ thư bé bỏng trong tay, tại hạ bỗng nhiên tưởng mình là tuyệt trù hào kiệt cái thế anh hùng hiên ngang hiệp sĩ lăng tằng sư tử hống động vũ lâm xuân. 

Từ đó về sau, sớm hôm liên miên lại bên song cửa, dở chiều tựa án, dở chiều thiu thiu, nhưng mà làn nhãn quan thì liên miên phóng xạ phát tiết anh hoa ra ngoài sang mù sương láng giềng trắng nuột. Rồi từ đó nương tử nọ não nùng kia còn ban cấp cho tại hạ những họa thêu ngọc gấm, những bút mực giấy nghiên. Tôi biết gia đình nàng nghèo lắm và ông cha của nàng già rồi thì tôi bèn đem vàng bạc hậu báo ân đức hồng huệ của hồng nhan. Mấy lần như thế. Nhưng thử hỏi; tôi đào đâu ra vàng bạc mà hậu báo như thế mấy lần? Tất nhiên đó là của ăn cắp vậy. Hỡi ôi, đại sư hãy nguyên lượng cho giùm. Một kẻ luống tuổi hoặc già nua, hoặc một trung niên thi sỹ thì chẳng bao giờ nên ăn cắp sỗ sàng, nhưng tôi chỉ là một thằng bé thơ ngây sống toàn nhiên trong mộng cảnh. Thì sự thị phi thiện ác của nhân hoàn há đâu có thể ước thúc được tôi? Một ngày nọ cô gái tặng tôi một chiếc túi gấm tự tay nàng thêu trong đựng một hộp bút mực nõn nà. Cầm hộp bút mà tôi mơ tưởng tới những vỏ sò, vỏ hến suốt mười phương quốc độ bờ bến bên hải ngạn phiêu du: – “em đi bên ấy chân tròn khép. Hai ống mơ hồ mỏi một hang…” Hỡi ôi cái túi gấm gì mà đèo bòng lẽo đẽo đa mang đìu hiu cỏ tơ vàng hoe ra như thế bao phủ những hố những hang những hầm sâu rộng động biếc rất mực từ bi bồ liễu ra đời? Yên tử cốc? Thu hải đường? Môi chước tuyết? Dã hoa sương? Nữu phường noãn? Thủy sơ ba? San san bộ? Trì trì lai? Niết tróc thủ? Kiết cư ước? Củng mộc lan? An diện huệ? Đà diên cúc? Ức dương tỏa? Phanh âm mao? Tấu hạp liệm? Chấn phấn liễu? Thiền vu nguyệt? Thanh cấm băng? Quận não khí? Tróc ảnh phù đồ? Đào ắc điệu na? Đa tàm hậu tứ? Bồi liễm yên lung? Tịch khai sa thạch? Niệm tuyến nân hương? Môn từng soạn quế? Tiệp báo vân mồng? Ban thiên đạo hạnh? Bá chủng thập phương? Thương hải lam điền? Thiền duyên lục điệp…??? làm sao? Làm sao kể xiết đó là cái chi? 

Chỉ biết rằng một phen đón tặng vật, thì chợt nghĩ rằng sẽ không còn đào đâu ra bạc vàng đá quý để đền đáp ân huệ của tiên cô. Không còn cơ duyên xảo hợp để ăn cắp ăn trộm được nữa. Tôi bèn mở môi hỏi mượn tiền của một người tỳ tử ở trong nhà. Tôi chẳng ngờ đâu rằng tỳ tử nọ chấp thuận cho mượn tiền, nhưng âm thầm đem sự vụ nọ ra mà nói với nghĩa phụ tôi. 

Sáng ngày hôm sau, nghĩa phụ tôi gọi tôi tới, nghiêm giọng trách mắng: 

-Ta vốn xưa nay yêu quý mày. Ngờ đâu mày là đứa bé con hư thân mất nết, hành động đảo tứ điên tam phóng đãng hình hài nhà ma rất mực ra như thế. Nhà ta đây không thể nào chứa chấp cái loại hư hỏng đốn mạt như mày. Mày hãy sớm liệu cút đi xa, để lão phu khỏi tóm lấy thân thể mày mà bóp dập mảnh xương vai trong mình mẩy xương xẩu của cái thằng người ngợm luộm thuộm đích thị là mày. Nếu lão phu không sớm đối phó theo thể thái quyết liệt như thế, chịu ẩn nhẫn dung thứ cho mày ở tại đây, rồi ra nay mày mê con này, mày đem tiền của cho nó, mai kia mày mê con nọ, rồi cuối cùng mày lớn lên, mày sẽ quen thói si mê, trong khi gia sản của tao tàn lụi hết, thì mày chỉ còn có một cánh là nhảy chồm tới nắm lấy hình hài lão phu mà đem bán sấp bán ngửa cho mọi kẻ lưu manh nào lão phu đâu có biết họ biết tên? Rõ thật là: 

Ngươi đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? Tên họ là chi? 
Đã sinh cùng nước cùng thì 
Cùng ta không biệt mà ly là mày…

Phải. Không biệt mà ly. Ly khai từ giữa tâm dạ ruột rà. Ly khai từ thuở ban sơ ta lưu tâm chiếu cố. Giữa mày và tao từ nay thế là dứt tuyệt ân nghĩa bình sinh. Mày đau lòng, tao biết. Nhưng tao há chẳng còn não dạ gấp bội điệp song trùng mày đó chăng nhe? Kể ra, tao cũng chẳng oán hận chi mày. Dù sao mày kể ra cũng còn nhỏ tuổi mà cằn nhằn gây gổ mãi với mày. 

Nhưng mà sự tình éo le đã eo óc xảy ra oái oăm đến thế, đôi ta đành ân đoạn nghĩa tuyệt mà thôi. Mày đi đường mày, Tao đi đường tao. Tình nghĩa đôi ta đến thế nào? Đã ra như thế lối vào chông gai. Chỉ xin Thượng Đế an bài. Cho chân mày bước dặm dài riêng thôi… 

Dù sao, trước khi để mày ra đi, lòng tao cũng có âm thầm quyến luyến. Thôi để tao tặng mày một bài thơ tiễn chân bình sinh ly biệt. Thơ rằng: 

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng.
Đường chia hai ngã muôn vàn muối sương 
Sớm hôm sầu dựng lạ dường 
Tâm linh lão hủ còn mường tượng con. 
Dẫu rằng biển cạn sông mòn 
Ban sơ tri ngộ mộng còn trùng lai
” 

All’ ou man en g’ emoi ·
Prosthêsei tasd’ aras. 

Dẫu sao ta cũng hết lòng 
Tìm phương ngừa giúp long đong cho mày 
Những nguyền rủa nặng hại thay 
Mày đi quá lậm trong ngày phù du 
Màu xanh thung lũng hư phù 
Há đâu lếu láo lù lù hiện thân 
Ấy nơi tấc cỏ mộng ngần 
Trong lu hũ nọ nửa gần nửa xa 
Nửa như mật tụ là hoa 
Nửa như cay đắng ấy là giấm chua 
Mai sau ví chẳng chịu chừa 
Còn toan rờ rẫm thì thừa tai ương 
Tiến lui giữa ngã ba đường 
Từ đây cách biệt khe mương khôn tày 
Giữa ta đây với thân mày 
Một vùng khoảng rộng chia hai con đường 
Nghe chăng, hỡi bé bỏng dường 
Lưu ly khốn đốn còn thường hằng điên 
Nếu mày chịu bớt quàng xiên 
Nghe ta bày tỏ một miền chân như 
Thì xin mày hãy rằng từ 
Mai đừng vi phạm đất lừ đừ kia 
Cõi thiêng liêng đó mép ria 
Phải nên kinh sợ mà chia xa lời 
Chỉ riêng trong địa hạt ngồi 
Chung cho thiên hạ thì lời mày được thốt ra 
Còn riêng góc nọ kia là 
Tuyệt nhiên chớ có nại hà ứng ngôn… 

(Polla keleuthos eratuei 
Klueis, Ô pollumokth’alata; 
Logonn ei tin’iskheis 
Pros éman leskhan, abtôn apobas, 
Ina pasi nomos, 
Phonei Prosthén d’aperoukou)

Ông cụ hổn hển ngậm ngùi nói xong như tạc hình một bồ tát ẩn hiện mô dạng ở bên miền lập ngôn tịch hạp thái thậm hoang liêu. Tôi đờ đẫn tê dại lắng nghe, nửa hiểu, nửa không. Duy có cảm tưởng dị thường rằng mình đã vô duyên đánh rơi mất một cơ hội phi phàm trong bình sinh miên bạc. Bất thình lình, tôi giác ngộ: Ông cụ già nọ mang một linh hồn nào từ lịch kiếp lang thang vô sở tòng lai diệc vô sở khứ… và đã nén lòng mình trong một thứ liên tồn hạ học lập ngôn. 

Ông cụ còn viết một lá thư bảo tôi đem về giao cho người thúc phụ của tôi… Nghĩa phụ thảo nhứt hàm, chúc dư khiệt quy, chí ngô thúc phụ. Dư thụ hàm nhập phòng, nữ do ỷ song nghênh dư hàm tiếu… Tôi nhận lấy tờ thư quay về phòng, cô gái láng giềng còn tựa cửa đón tôi, ngậm cười ôi một cách…!!! 

Tôi thẳng thắn đem sự vụ đầu đuôi ra nói cho cô bé biết: 

-Hôm nay bị nghĩa phụ đuổi đi. Chẳng biết ngày sau còn có dịp nào cùng cô nương gặp gỡ tại chốn nào chăng? 

Cô gái nghe tôi nói thế, thì có vẻ không vui, ủ rũ đưa một ngón tay uể oải, ngập ngừng mà rằng: 

-Đêm nay trời không có trăng. Anh chờ tới mười một giờ khuya, thì chèo ghe nan ra chờ em ở phía sau nhà hẻo lánh nhé. Anh sẽ cắm sào đợi em ở chốn tịch mịch đó. Sớm chầy gì em cũng sẽ len lỏi lách lau ra hội diện. Anh chịu như vậy chăng? Được chăng? 

Tôi vội vã líu lưỡi đáp: 

-Được. Được. Chịu lắm. 

Nhận được lời phân phô của hồng nhan hương phấn ra như thế, cõi lòng tôi thấy thơm ngát như cờ reo chiêng trống dậy tưng bừng. Cảm thấy như được hồng ân từ thiên thượng chan rưới xuống hình hài. Bèn nô nức lui vào phòng ôn tồn gẫm lại cái lời kia của nương tử như hân hoan nhậu nhẹt một yến tiệc siêu phàm. 

Thúc phụ cật vấn mà rằng: 

-Mày hãy nói cho tao rõ, mày lấy tiền tiêu vào việc chi? Tiêu pha vào vụ chi? Đánh cờ bạc hả? Rủ rê bọn vô lại chơi bời hả? Đàng điếm phiêu bồng hả? 
Tôi chỉ biết cúi đầu cung kính làm thinh nín im thin thít. Vì sợ nói sự thật ra, ắt là tiêu ma thanh danh của láng giềng tiên nga thiên nữ. Thì sao có thể được cho đành? Với cái cuộc rụng rơi tàn xiêu ngõa giãi kia? 

(Dư tuy cung mặc, bất cảm đáp nhứt từ; khủng trực ngôn chi, tắc lân nữ tiên nga thanh danh ngõa giải, thị hà khả giả? – The only thing I could do was to maintain a respectful silence. I did not dare to answer one word, fearing that if I told the truth, the girl’s reputation would be ruined and shattered like clay tiles). 

Một chặp sau, thúc phụ lại hỏi tiếp: 

-Nào, nào! Nói cho cùng mày cùng đứa nào rủ rê cờ bạc lêu lổng chơi bời ra như thế? 

Tôi vẫn ngồi nín im thin thít, như thế càng khiến thúc phụ nổi dóa thêm. Ông cầm cái ống điếu giơ ra đập tơi bời xuống trên vai tôi từng cơn tua tủa. 

Tôi cắn răng chịu đau đớn, không dám rục rịch, mà cũng chẳng dám khóc lóc một giọt nước mắt bé bỏng nào. 

Chờ tới lúc nhá nhem thao láo, cầm lòng chẳng được, tôi len lỏi men xuống bờ sông tháo chiếc ghe chài cá của nhà láng giềng. Vai tôi đau ê ẩm nhức nhối không thể tả. Quờ quạng chèo đi, hai tay hì hục, mà môi miệng thì liên tồn tụng niệm mà rằng: 

-Đêm nay không cố gắng cùng cực để giáp mặt giai nhân, thì lỡ làng lời ước nguyện. Kể chi đau đớn thịt da? Kể chi xót xa xương cốt? Hai vai rời rạc đã đến nỗi nào? Cho dầu toàn thể hình hài có tan rã ra nhà ma chăng nữa, há dễ mà lui? Há đâu mà dừng cuộc? Há chẳng hồ dễ mà bỏ cơn? Mà chấm dứt ân tình chiến trận đêm nay? Thế là tôi dồn tụ hết bình sinh miên bạc lại để trì chèo chống ghe nan trong một phen liên tồn rục rịch rất mực thong dong cõi lòng hơ hớ. 

Tới lúc chạm vào miền mép căn nhà bí ẩn của giai nhân hồng môn le lói, thì chuông đồng hồ đổ tám giờ rưỡi. 

Lòng tôi thư thái, cờ reo trống giục liên hồi, quên bẵng hết đau đớn gân xương và máu me da thịt. Tôi đặt mái chèo nơi một mép rìa căn nhà lá cỏ của giai nhân. Chờ đợi rất lâu. chằng thấy bóng hồng thì lo âu éo le khôn tả. 

Chợt trời nổi một trận mưa như trút. Tôi bèn chèo ghe nan tới dưới lục ba tiêu, nơi một góc tường để ẩn núp (úp nẩng an cần). Chống chỏi gió mưa, đêm dài chờ đợi. Cho tới canh tư, vẫn mang mang bặt tăm, chẳng thấy một bóng ma nào thấp thoáng, đừng nói chi là hình ảnh yểu điệu tiên nga! 

Tôi trong lòng biết rõ là sự vụ có nham nhở gì trở ngại biến cố lôi thôi. Lòng đau xót khôn cùng, tôi co giò nhảy tòm xuống nước lạnh. Chẳng còn biết trời tròn hay đất méo, sơn hà đảo tứ hoặc điên tam! Bao nhiêu trận khờ thương dại nhớ, cuồng mộng si mơ, của thanh xuân sàm diên dục trích thảy thảy cùng chan hòa trong một sát na giá buốt mà tiêu tán theo ngọn nước xuôi dòng. Hỡi ôi ! Ôi hỡi! Hỡi ôi ôi! “Tôi còn gì nữa là tôi! Thuyền quyên nàng vẫn là người thuyền quyên”. 

I lost all sense of my surroundings and knew nothing until I gradually regained consciousness. Tôi mất trụi hết mọi thức giác về sự vật bốn bề ba ngõ bảy ngõ xung quanh, chẳng còn biết gì gì nữa cả mô mô tê tê coi tề chi ráo ráo! Cho tới lúc dần dà tiềm tiệm hồi tỉnh lại hỡi ôi! 

Nhìn bốn phía, chỉ thấy phên trúc, vách rạ, nhà tranh. Té ra là nằm giữa một gian nhà cỏ một ngư ông. Một ông một bà già nua, ngồi bên tôi ân cần đăm đăm nhìn ngó, vốn đưa tay sờ ngực phổi tôi mấy phen. 

Tôi đột nhiên cất tiếng hỏi: 

-Có phải ông bà đã ra tay cứu vớt sinh mệnh của cháu đó chăng? Nhiên dư thành vô diện mục cánh sinh nhân thế! I really feel too ashamed of my self to return to the world of living! Quả thật cháu xấu hổ quá, không còn mặt mũi mắt môi nào mà sống nữa ở nhân gian! 

Bà lão mà rằng: 

-Tội quá! Tội quá! Cháu bé ôi! Cháu đừng nói chi nhiều. Nằm im tĩnh dưỡng! Trời và Phật và Như Lai Bồ Tát Linh Mục Thượng Thừa sẽ cộng tác che chở cho cháu đặng bình an tai qua nạn khỏi. 

Nghe giọng bà lão ôn tồn thâm hậu thì bỗng nhiên tôi vùng sa nước mắt, và đem hết sự tình ra kể lại một phen. 

Bà lão lắc đầu tóc bạc phơ mấy bận, than dài một tiếng mà rằng: 

-Thiên hạ phụ tâm nhân nhi, tỉ tỉ nhiên nhiên dã. Khánh kim hậu tu tri tự trọng. (Thiên hạ thiếu chi kẻ phụ lòng, như đó rứa mà thôi! Cháu từ rày về sau hãy nên liệu mà giữ mình, coi trọng cái thân thể). 

Ông lão nói tiếp: 

-Chịu khó cho ru! Gắng ẩn nhẫn chăng chớ! Cháu nay đã nếm qua cái mùi tục lụy lạc bước một lần, bể khổ vô biên, hồi đầu thị ngạn. Chợt một phen tỉnh ngộ, quay đầu, thì cập bờ Như Lai bỉ ngạn vậy. Tốt thay! Lành thay! Phúc đức thay! 

Tôi cầm nước mắt tại đầy đủ hai hàng, quỳ xuống bái tạ ông bà, rồi cáo biệt. Chẳng biết hướng gót chân tới đâu. Đâu chốn đâu nơi, đâu trời đâu đất, đâu lật đật đâu thong dong. 

Cõi lòng đầy bi thương, thống hận, tôi dấn gót chân vào trong núi Nhạc Lộc, cạo trọc đầu làm một tỳ kheo. Rồi đem chôn hết bao kỷ vật phấn mốc hương thừa (vốn hằng đeo giắt ở bên hông) đem chôn hết vào sâu trong thớ đất sét ở bên sơn thụ lâm tuyền tại chốn Phi Lai Chung mù sương man mác. 

Rồi sau đó tôi theo chân một bọn người lái buôn mà tới chốn non nước này. Ngày nay, đứng trước trời đất mang mang, vũ trụ hắt hiu, càn khôn hiu hắt há chăng chẳng nhẽ nhận ra sao gọi là tình? Sao gọi là hận? (Kim tự mang mang vũ trụ, hựu ô đổ sở vị tình, sở vị hận da?) Diện tiền hiu hắt mù sương? Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu? Liên tồn miệng mọc chòm râu. Đầu tôi tóc bạc khê đầu in rêu? 

Nghe chuyện Tương Tăng kể xong, thì lòng tôi bồi hồi nhớ lại sự cũ của mình, lồng lộn tung hoành hàng hai ở trước con mắt. Kỷ niệm dâng trào ở bốn phía rập rình dâu biển giáp công. Tôi không còn làm sao ngủ được nữa. Y hy văn từ mẫu trách dư chi thanh, thần vi tủng nhiên nhi động… Bỗng nhiên nghe vẳng dậy giọng từ mẫu trách mắng mình, thần hồn tôi hốt nhiên tê giá. Hốt hoảng bồi hồi. Nước mắt trào ra suốt năm canh thiêm thiếp ri rỉ liên tồn mờ hoen hương sắc cố hương… 

Sáng hôm sau, tôi mệt mỏi rụi cả máu me, không dậy được. Tương Tăng sớm hôm lo thang thuốc, cơm cháo cho tôi. Nửa đêm thao thức, nhìn Tương Tăng lọ mọ cặm cụi, lòng tôi bất chợt cảm thương dữ dội quá, tôi âm ỷ khóc một mình. Từ đó về sau, hai đứa tôi trở thành hoạn nạn chi giao. Rồi sau đó Tương Tăng cũng rõ hết những mối đau ngầm vui gượng của tôi. Chúng tôi quyến luyến nhau, không rời nhau được nữa. 

Tôi đau trận đó tới hai mươi hôm mới bình phục, chống gậy bước ra cửa dòm cảnh vật xa xa. Bầu trời sắc nước long lanh thăm thẳm. Tiếng chuông ngân dài. Phong cảnh như gột rửa trăm não ngàn phiền ra khỏi xương máu ri rỉ của con người ta. Tôi lẩm nhẩm thơ Virgil…-“In fretadum fluvii current, dum montibus umbrae… Lustrabunt convexa… polus dum sidera pascet… While the rivers shall run to ocean, while the shadows shall move in the mountain valleys, while the sky shall feed the stars, always shall thy happiness, and the felicity, and the rapture, and thy name, and thy glory abide… 

Khi trường giang còn dọc xuôi về tỳ hải
Lúc bóng xanh thung lũng vẫn liên tồn 
Và động đậu suốt vùng sương suối liễu 
Và thanh thiên còn bồi dưỡng sao rờn 
Ngàn tinh tú còn lắt lay phiêu diễu 
Thì thiên thu còn vĩnh phúc cho người 
Và hoan lạc cuồng cơn điên trận đảo 
Và vinh quang và tên tuổi xa vời 
Còn ở lại cư lưu trong mộng ảo 
Với tà xiêm duệ địa bóng trường quần 
Với đồn lãng nhũ ba hương phức úc 
Suốt bình sinh với miên bạc luống từng… 

Then endure for a while 
And live for a happier day… 

Thì ẩn nhẫn một thời gian khiêm thuận 
Vì một ngày nào đó sẽ đẹp hơn 
Vì một tháng liên tồn lôn bôi động 
Lòng chan hòa hồn vĩnh thể đâm bông 
Quần sẽ đỏ vì bàn chân nàng bước 
Nữ Thần ôi đã hiển lộ huy hoàng 
Trong gót ngọc ngậm ngùi xuân buổi trước 
Ngày bữa sau lửa lựu lập lòe bông…

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI 

Od ekeinos ego. Phônê gar oro, to phat dzomenôn…
(Chẳng cần chi kiếm ta nhiều. Ta ngồi đây ngóng tiêu điều hai tai)

HOMER

Chợt một ngày kia, vị giám viện tới bên tôi bảo: 

-Mai là ngày Trung Nguyên tiết, tại thành nội, gia đình họ Mạch có tế lễ, vị thủ tòa đã phái lão nạp ứng phó cuộc kia. Ngài cũng có hỏi “trong số trụ tăng, ai là kẻ khả dĩ chọn làm đồng bạn”. Thì lão nạp đáp rằng chính đại sư là người thích hợp nhất. Thủ tòa rất lấy làm mừng rỡ mà rằng: “Sư trầm tĩnh quả ngôn, tác trang sơn môn phong phạm, năng khởi thập phương tông ngưỡng”. Hơn nữa, gia đình họ Mạch vốn là người ở Lĩnh Nam, thì đại sư cùng đi với lão nạp là phải lắm, tiện lợi lắm lắm. Hơn bất cứ kẻ nào khác. Vì vậy nên lão nạp chẳng thể nào chẳng đặng tá trọng ư đại sư… 

Tôi bèn đáp mà rằng: 

-Từ ngày tôi xuất gia tới giờ, vốn chẳng có dịp quen với công cuộc thể lệ đó. Ngoài việc thằp hương niệm tụng tâm kinh đại bi ra, thì tôi chẳng còn khả năng gì nữa cả. E rằng sẽ không ứng phó được chu đáo niềm kỳ vọng của đại sư? 

Vị giám viện đáp mà rằng; 

-Pháp quy cúng dường, chừng đó đã đủ rồi. Lại có thêm ba người phụng thị, rất mực thông thạo sự việc. Tiểu sư phụ chỉ cần giúp chúng tôi đốt nhang, gõ chuông mõ, thắp đèn lai rai là đủ. Rất mong tiểu sư phụ đừng từ nan, chịu khó giúp cho một chút để thêm phần xán lạn cho cuộc này. 

Nghe vị giám viện phân trần rõ ra như thế, tôi bèn nhận lời. Vị giám viện hân hoan cáo biệt. 

Tôi bảo Tương Tăng rằng: 

-Những sự vụ luộm thuộm kia chẳng ích gì cho chính giáo cả. Trái lại chỉ làm cho thiên hạ nhìn chúng ta càng nham nhở thêm mà thôi. Những cuộc ứng phó lai rai thế nọ, ngày xưa vốn chẳng hề có nghe. Xưa kia, thuở Bạch Khởi làm tướng nhà Tần, ông ta đã hãm giết bốn mươi vạn sĩ tốt đầu hàng tại Trường Bình. Đến thời Lương Vũ Đế, nhà sư Chí Công đại hiền đức, nêu ra sự vụ bi thảm kia, cốt để cảnh giác những kẻ khát máu khao me, và đưa ra những phương sách ôn tồn chế độ. Vũ Đế bèn chiêu tập thiên hạ san trường giang đại hải, suốt bảy ngày bảy đêm liên tồn cỏ tơ nối tiếp. Lúc bấy giờ những cao tăng danh tiếng, cùng đồng thời đề huề nghe lời yêu thỉnh mà đề huề phó ước nhi lai. “Đề huề lưng túi gió trăng. Sau lưng theo một vài thằng lai rai. Họ gì như thể bẻ bai? Trung niên thi sỹ ấy ai đó là?…Cầm bằng cũng thể mà ra? Theo chân Bồ tát mặn mà Như Lai…” 

All the famous monks answered his invitation at one time. The accepting of invitations commenced from that time… Ứng phó chi pháp tự tử thỉ… phép tắc ứng phó, khởi đầu từ đó mà ra vậy. 

Tôi từng có đọc trong kinh điển, thấy ký chú thuở xưa rằng Đức Phật tại thế, vi pháp thi sinh, dùng pháp mà giáo hóa tứ sinh, nhân gian thiên thượng không có gì mà Ngài chẳng đem ra áp dụng điều đình mà thành thục tự như. Chư đệ tử thì đề huề phân hóa thập phương, khôi hoằng đạo giáo, kịp đến khi Phật diệt độ về sau, ông A Nan cùng chư vị Bồ Tát kết tập tam tàng, lưu thông từ bảo. Cho đến thời Hán Minh Đế, Phật pháp mới nhập chấn đản. Từ đời Đường Tống về sau, thì dần dà rời rã, tiệm nhập kiêu ly. Tiền bạc liên tồn được sử dụng làm miếng ăn thức mặc, và Phật giáo trở thành một món đồ có thể đem bán mua. Hỡi ôi! Kỳ dị thay ôi hỡi! Ta phù! Dị tai! Tự ký vị độ, yên năng độ nhân? Tỷ như hạ tĩnh cứu nhân, nhị câu hãm nịch. (Tự mình mà còn chưa độ được, há đâu có thể độ người? Cũng tỷ như lao xuống giếng cứu người, rốt cuộc cả hai cùng chết đuối – Alas, how were these who had not found the Path themselves able to show others the Path! For instance, it is like going down into a well to rescue another and both drown). 

Huống nữa, ban bố cho, ấy là: dự với cùng, mà không có tùm lum cướp giật. May tôi đem Phật pháp ban dự cho người, nếu người đem tiền của ban dự lại cho tôi, thì ấy gọi là buôn đi bán lại, há đâu còn cái nghĩa “ban cho mà chẳng thu về”? Huống nữa, thật ra lại chẳng hề có cho đáng gọi là “dĩ Pháp dự nhân” chút tẻo teo nào cả. Mà chỉ lai rai lếu láo mồi mép kinh kệ mấy lời, để thu hồi tài lợi. Cho dẫu thật có chút công kiến thành chăng nữa, cũng chẳng đủ đền bồi cái lỗi tham lam cầu lợi. Còn như tương sự cẩu thả nham nhở, chỉ mong ngóng bo bo kiếm chác, thì ấy là cướp bóc tài vật của thí chủ. Vậy thì món nợ tinh thần và vật chất đối với các thí chủ, chúng ta làm sao trả được!…Tội lỗi kia làm sao gột rửa được…! 

Tương tăng mà rằng: 

-Lời sư thật là thâm sâu chí lý, không bắt bẻ vào đâu được. Tôi không hiểu vì sao Chí Công lại đặt ra phép tắc sám hối, khiến cho cái tệ hại càng tệ hại thêm, vì xui người ta tưởng rằng tội lỗi có thể gột sạch bằng những lời vớ vẩn ăn năn… 

Tôi đáp: 

-Chí Công vốn là Bồ tát hóa thân, vốn có thể đem lời vàng mà làm cho xinh tươi vật thể. Trái lại các nhà tu hành đời Đường bo bo thọ trì tụng niệm Phạn kinh, thật là chẳng chút chi ty hào bổ ích cả. Ngày nay còn dùng được sự tích gì đâu đối với bọn phàm tăng lố nhố? Vân Thê xiển dương sám pháp, dây dưa tới ngày nay, chỉ tổ làm tai hại cho kẻ chân tu chính dưỡng, lưu độc sa môn, cái họa thật là cùng cực kịch liệt. Còn như môn phái Thiền tông vốn chẳng có sám pháp, nhưng ngày nay lại cũng đua đòi bắt chước giở trò, há đó chẳng là một điều cảnh giới lớn đó chăng? Nhưng anh và tôi đều là những kẻ chính tín chân nguyện, đã quy y Phật, là chỉ cốt xiển dương quảng thiết tứ đế và bát chính đạo mà thôi. Há đâu có thứ nêu ra cùng với những trò nham nhở kia ru? 

Tương Tăng nói: 

-Tốt thay! Phải thay! Mã Minh Bồ tát bảo: “Chư Bồ tát xá vọng nhất thiết hiển chân thực; chư phàm phu phúc chân nhất thiết hiển hư vọng… (Chư Bồ tát gột bỏ hư, vọng, nhất thiết hiển lộ chân thực; trái lại bọn phàm phu làm điên đảo cái chân thực, và nhất thiết hiển hư vọng). 

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI BA 

Ngày hôm sau, tôi theo chân vị giám viện tới nhà họ Mạch. Nhưng tôi chưa hỏi rõ tên ông họ Mạch kia là gì và ông ta từ đâu lại. Chỉ biết rằng ông ấy là một vị tể quan mà thôi. Tối đến, pháp sư khai trường. Đó là lần đầu tiên tôi kinh nghiệm cuộc tế đàn như thế. 

Lúc bấy giờ đàn ông đàn bà đông đúc xúm xít sát vai nhau ở bốn phía xem lễ. Giám viện lim dim khép hai hàng lông nheo thấp xuống, liên tồn chắp tay, cất cao giọng niệm sang sảng lời “chân ngôn” trong kinh điển, tới câu – “Tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đổ âm dung nhu hà tại?” ( Tưởng tới kẻ thân yêu đã chia lìa, nhìn ngó đâu cho thấy lại âm dong?) thanh âm thật là ảm đạm. Kịp tới câu – “Ô hô! Đỗ quyên kiến lạc đào hoa nguyệt, huyết nhiễm chi đầu hận chính trường”;(Hỡi ôi! Con chim đỗ quyên đau lòng kêu thảm thiết hoa đào rơi trăng rụng, máu me ướt nhiễm đầu cành,mối hận miên man dằng dặc) – Kịp tới câu: 

-“Tích nhựt phong lưu đô bất kiến, lục dương vân thảo độc lâu hàn” (Vẻ phong lưu ngày xưa chẳng hề còn thấy chút gì cả, mà chỉ còn liễu xanh, cỏ thơm và lầu trơ lạnh) – Lại đến câu: “Tướng quân chiến mã kim hà tại? dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu!” Đâu là chiến mã tướng quân? Cỏ hoa hoang dại sầu lan đất dày…) – “Tis d’esth’ o khôros; tou théôn momidzetai? Athiktos oud’oikêtos. Ai gar émp hoboi théai sph’ékhoussi, Gês te kai Skotou korai…” Bỗng dưng mà cái giọng vàng hiu hắt của nương tử con vị mục sư Robert nọ chợt len lỏi về nơi mọi kỷ niệm lòa xòa thuở xưa nàng ngâm thơ Hy Lạp: 

-“Đất nào như thế hỡi người? Hiến cho thần thánh nào vui hay buồn?- Đất này bất khả xâm lăng. Con người không thể về ăn ở đời. Cư lưu hồ dễ được chơi? Riêng là địa hạt của chơi vơi thần. Uy linh khủng khiếp vô ngần. Ấy con của Đất và thần U Âm…” 

Hỡi ôi! 

Nương tử tươi xinh ngâm thơ Hy Lạp và giám viện già nua đọc kinh tế điện vong hồn… Gẫm ra cho kỹ thì đôi bên cũng buồn rầu ủ rũ như nhau. Niềm riêng tại hạ u sầu. Gẫm câu kỳ ngộ ban đầu đã xa. Cô nương ký ức đậm đà. Tiểu tăng sầu dựng căn nhà nhớ nhung… 

Hỡi ôi! 

Đang khi tôi triền miên âm thầm mông lung tư lự ra như thế giữa cảnh trạng trang nghiêm im lặng như tờ bốn phía ba xung quanh, thì hốt nhiên nghe thấy trong đám người ngồi xúm xít tựa lưng tường vách trước mặt có nảy ra một âm thanh ri rỉ yểu điệu mà rằng: 

-Quả thật đúng là người ấy đó, không còn nghi ngờ gì nữa! Gẫm lại cái thuở bé bỏng thơ dại nô đùa với nhau tưởng như cách biệt hai cõi! Ôi bao xiết, thê nhiên vô ngần ra như thế! 

Một lát sau, lại nghe giọng một người đàn ông nói tiếp mà rằng: 

-Tội thay! Thương thay! Quả thật Tam Lang nhất định đi rồi! 

Tôi giật mình đánh thót một cái! Kẻ nào vừa nói tên tôi ra như thế? 

Lúc bấy giờ thần hồn tôi hoảng nhiên biến động, tôi chẳng dám đưa mắt nhìn thẳng coi thử là ai. 

Lại nghe âm thanh nữ lang ri rỉ mà rằng: 

-Trông anh ấy dường như vừa mới khỏi một trận đau ốm nặng! Em biết rõ rằng Tam Lang vốn xưa kia có một tâm sự ẩn mật không nói được ra lời! 

Tôi lim dim con mắt, lặng lẽ suy đoán cái giọng nói kia xem đó là ai mà thanh âm uyển chuyển tròn xoe ra như thế. Đó là em Hoàng? Em Lục? Em Xích Bích? Em Thanh Nga? Em Cấm Nguyệt? Em Thiền Vu? Hay là em Thâm U Chi Xứ? 

Dư mặc sát kỳ thanh âm cửa chí, thỉ đại ngộ kỳ tức Mạch gia huynh muội, vi ngộ lân lý, hựu vi tổng giác đồng song…

Tôi suy gẫm về cái thanh âm kia lâu lắm, sau đó mới sực rõ rằng ấy chính là hai anh em nhà họ Mạch, vốn xưa kia là bạn láng giềng của tôi(ngày tôi ở nhà nghĩa phụ) hai anh em nhà họ Mạch cũng là bạn học ngày còn bé còn bỏng của tôi vậy. Bé ôi! Ôi bé! Bé ôi ôi! Cũng thể mà ra thể lệ rồi. Cung bậc trầm luân thu Xích Bích. Linh hồn Tào Tháo mím hai môi ! Bé ôi! Mạch thị ra đời. Mịch thiên nhiên bạc mạt đời kiếp than. Ta về giũ áo quan san. Mùi hương đất trích cung đàn nhật tâu. 

Look! I am living. On what? Neither Childhood nor future are growing less… Super- numerous existence wells up in my heart…

-Hãy nhìn xem! Ta đang là sống đó. Hà tòng xuất? Hà tòng do? Hà to dòng? Tòng đâu thế? Tế nị từ? Từ nị tề? Bởi vì đâu mà ba bề sống thế bốn cho vì? Bì cốt một Bột phát ma? Ta thập dạng? Tàng ẩn mô? Tô tỷ sam? Tàm thơ ấu? Tẩu hỏa nhập ma là? Cũng cùng không cũng cũng? Há hao mòn hòn hột rộng ra ru? Hằng sa số hằng sinh bình tồn hoạt? – Nảy tuông dồn trong tim máu tôi dâng… 

Chẩm ma na cá cung tong.
Há rằng khiêm thuận khơi dòng dịch kinh 
Tuổi thơ ấu động biên đình 
Đã ra như thể quỷ tình tự ma 
Thi thư thoái nhượng yên hà 
Ngã trừu sưu cú bách là vô công…

I had pondered over these voices for a long time before I made the great discovery that these were the Mei brother and sister, who had been my village neighbors. We were also schoolmates during our tender years. By count, we had been apart for five years…

Té ra lân lý ra vào 
Vốn xưa kia đã cắm sào đồng song 
Đây sông phức úc phiêu dòng 
Phòng văn hơi giá tấm lòng rã hai 
Trùng quan đồi núi dặm dài 
Năm năm ly biệt dịp may trùng phùng 

Kế tương biệt ngũ tải, tưởng kỳ phụ kim vi hoạn ư thử… Hồi thủ tiền trần đồ tăng hạo thán nhĩ! 

Gẫm ra ly biệt đã năm năm, tưởng tới phụ thân của anh em bạn cũ nay làm quan bổ nhiệm tại chốn này, quay đầu ngóng vọng bụi đường mù sương thuở trước, càng thêm ngậm ngùi lồng lộn lai láng lưu ly lất lây một cách! 

Ức dư ky Hương Giang thời… 

Nhớ lại thân mình thuở trú ngụ nơi Thừa Thiên Hương Giang đất khách, dư Mạch thị huynh muội kết lân ư Mãi Hoa Nhai (cùng anh em nhà họ Mạch kết bạn láng giềng tại Mai Hoa Nhai- Đường phố bán hoa) phụ thân hai bạn vốn là người đôn hậu tính tình (không hề có chi mô giống như cái nòi tầm phào thi sỹ) ý cực khả thân, đối xứ với tôi rất mực chân tình chính ái, nay bỗng dưng không hẹn mà gặp gỡ tại chốn man mác cõi miền này, thật là quả thật do tiền duyên túc ái… tái úc vân yên viên bô vô hạn vạn niệm viêm lương vương thịnh vinh thông cầu vồng bảy sắc… bắc nam xuôi ngược triền phược một niềm [1]… 

Thì mai đây, tôi ắt hẳn có thể nhân đó mà hỏi thăm dò ra tin tức cố hương cựu sự. Thì như thế cũng đủ an ủi một phần nào cái thân thể phiêu linh của một tình tự bồ tát vướng tục lụy hơi nhiều. Há chẳng chăng ru? Dư kim hậu hoặc năng tạ thử nhứt tấn cựu hương chi sự, tư diệc túc dĩ sảo ủy phiêu linh phủ da? – Perhaps later I could use this opportunity to ask news about my old home village. This would be sufficient to comfort a lone derelict like me). 

Tôi trong lòng như thế thì hân hoan trấn định như thường. 

Tới lúc rạng đông phơ phất thì pháp sư tế điện đã xong xuôi mọi mọi. 

A servant boy came before me and bowed, saying:

-“My master has ordered me to request Your Holiness to come to the study for rice”.

Một chú bé tỳ bộc tới trước mặt tôi, chắp tay xá một cái mà rằng: – Chủ nhân ra lệnh cho tiểu tử. Kính mời đại sư rời gót sang thư trai dùng cơm”. 

I followed him immediately. Tức thì tôi theo gót chú bé đi ngay (đay nghi rất mực rạo rực mà rằng). 

Thử thời đồng lai chư tăng, hàm hãi dị, dĩ bỉ bối vị thường tri dư thân thế; bỉ ý vị dư nhứt nhân kiến chiêu, tức hữu thù vinh cực sủng…

Lúc bấy giờ chư tăng vốn cùng đồng đi trong cuộc lễ, thảy thảy đều lấy làm kinh hãi kỳ dị, ấy bởi vì họ vốn không rõ thân thế quá khứ tôi, thấy tôi bỗng nhiên được mời đi ăn cơm như thế, thì trong ý họ tưởng rằng đó là một vinh dự đặc biệt của kẻ được chuộng đãi tài năng. Nhưng chư tăng kia mặc dù vào cửa Phật, mà tâm hồn tình tự thì lại rạo rực xu hướng hết về phía vinh hạnh phồn hoa! Thế mới nên ra như thế vậy! (All the other monks who had come with me were starled by this statement because they did not know my past. They must have thought to themselves that is was a marked honor and great favour for me to be invited alone in this fashion. Althought these men were in monkhood, their natures were still eager for mundane glory. That is why they acted thus) [2]… 

Lúc tôi bước vào trai phòng, thấy cơm nước dọn ra thật là lai láng ngon lành ngành ngọn yến diện. Có đủ đầy nào là rau cải rải rác tròn xoe, những là cá ướp dấm chua hom hem ri rỉ, nào là thịt riêm ngũ hương, quế hoa lật tử, hồng lăng ngẫu phấn, ngấn phẩu béo ngùi, ngậm ngùi hột giỏ giẻ, tam bạch tây qua, Long Tĩnh Hổ Bào trà, ba la mật kim cương mường tượng, mượn cớ mớ thượng tương hồng tự thối; tối ngọt thậm ngon thon thon măng búp, múp băng ngà, tuyết ngọc long lanh xanh um chùm cụm mũm mĩm bất ngờ mép bờ mềm dịu a na tam miệu tứ bồ đề, lục bồ tát mát mẻ miêu cương đâu mường đâu mán đó mọi miền mọi mại mọi lô lô… 

(When I had reached the study, I saw that a lavish spread had been laid out. The courses were as follows: vegetable, sour fish, “five-fragrant spiced” dried bean curds; cassia blooms fried with chestnuts, red lily-root powder,”san-pak” watermelons, “Hu P’ao” Dragon-Well tea, and “rainbow-brand” ham. All this had been prepared especially on my account). 

Mọi thứ ngon ngọt mặn mà đó dọn ra là vì tôi hết cả [3]. Hỡi ôi! 

Trong lòng tôi lặng lẽ cảm tạ ông bà họ Mạch. Quả thật ông bà ôn tồn quyến luyến cố nhân. Thật quả bà ông là người y y hữu cố nhân chi ý. Đủ chứng thực cái cõi lòng đôn hậu rất mực tày trời động đất, tại khoảng viêm lương thế thái kiêu ly này, ông bà đúng thực là những tâm hồn thơ ngây như con chim loan, chim phụng, con kỳ lân, con sư tử đậm đà mắt xanh mày thắm liễu my nhi vậy. (Nên nhớ rằng con sư tử mặc dù uy nghiêm khả phạ, nhưng không hề dữ dằn trật búa như con kim báo con beo, hoặc bê bối như con đười ươi, con khỉ đột). 

Chốc lát sau, ông bà họ Mạch nắm tay đứa con đứa cái bước vào, cùng tôi chào hỏi ôn tồn niềm nở kẻ ở người đi. Tôi chăm chú nhìn kỹ hai anh em con nhà ông bà họ Mạch, thì thấy rằng hai anh em kia mặt mũi cũng hồn nhiên thơ mộng như xưa, đề huề yên vui với cha mẹ, thì tôi càng ngậm ngùi vô hạn cho cái thân thế cô độc của mình là một nhà sư chẳng có chi phiêu nhiên như lai chút nào cả. Tứ cố tiêu điều, phụ ngã phụ nhân, hà dĩ kham thử? (Phụ mình phụ người há sao chịu nổi như thế?) Thì tôi đưa hai bàn tay vướng tục lụy lên bưng lấy bộ mặt bồ tát dở dang của mình mà ri rỉ khóc một phen khôn hàn dấm dớ. 

Ông bà họ Mạch và hai đứa con cũng u sầu buồn bã thấy tôi đau khổ như thế. Cô con gái bỗng nhiên xúc động khôn cầm, cũng bắt chước tôi khóc òa một trận. 

Không ai nói được lời nào. 

Chợt ông nhà Mạch đưa bàn tay vỗ vào xoa cái đầu trọc của tôi, trang nhiên cất giọng mà rằng: 

-Cháu bé đừng nên ưu sầu quá xá như thế. Hãy nên đổi sầu làm vui. Đã lâu ngày, tôi không gặp cháu. Ban đầu ta có nghe người làng nói, mới hay rằng cháu đã rũ trút bụi trần mà quy y cửa Phật. Thì lòng ta đã ngậm ngùi suy gẫm. Thiên tư tuấn sảng như cháu, mà bước đường đời sao lại lận đận nhà ma? Mà Như Lai thì há đâu chẳng lại man mác mù sương quá ư phiêu hốt. Chắc gì cháu đã đáo bỉ ngạn mà nêu câu ba la mật kim cương? Thì lòng ta cũng mang nhiên mà âu lo cho cháu lắm. Đã một năm nay, ta dắt dìu gia đình ra ngoại nhậm nơi đây kiều cư ư thử. Đêm vừa qua chợt hai đứa cháu nhà nói cho ta biết rằng cháu có tới đây cùng chư tăng lo việc pháp sự. Khiến lòng lão phu rất mực kinh ngạc bàng hoàng lại thêm vô cùng hoan hỷ chất chen xen lẫn tràn ngập xâm lăng chim chuyền líu lo bụi ớt. Lão phu nay tuổi tác đã ra người già nua! Chẳng thể liệu được rằng có phen gặp cháu. Há đâu có thể dám nghĩ rằng? Mà ra cơ sự lăng tằng chiêm bao? Thiên duyên bố thiệt hội nào? Mà nay tái ngộ âm hao bây giờ? 

(-Do not grieve, my boy, said he. I have not seen you for a long time. When I first heard what the villagers said, I knew that you have separated yourself from all mundane affairs to become a monk. I felt very grieved that a heaven-given and extraordinary mentality like yours should have had such a sorrowful path in this life. A year ago I brought my family to live here. My Children told me last evening that you had come to our home to take part in the ceremony. This filled my old body with a mixture of fear and gladness. I am old indeed. I had not thought that I should be able to meet you again. How can it be said that this meeting was not arranged by Heaven?

Bà vợ của nghĩa phụ cháu vốn mùa xuân năm trước đã thiên cư Hương Giang, vướng bịnh hầu dịch mà qua đời. Nay lão phu mong rằng cháu chẳng quay về Quảng Đông làm gì nữa. Lão phu cũng rõ là cháu chẳng có cốt phàm, lão phu mời cháu ở lại đây làm khách thơ mộng, để cùng bầu bạn với hai con “heo” (cha nói về con) của lão phu, vì như thế, cháu cũng thật là giúp ích cho lão phu rất nhiều vậy. Ý cháu nghĩ như thế nào? 

Nghe ông nhà Mạch nói rằng bà vợ nghĩa phụ tôi đã chết năm ngoái, thì lòng tôi mang nhiên thêm nữa. Té ra nhân sự biển dâu bách biến khôn lường. Chẳng biết đâu là nên hư phải quấy ở trong cái miền cõi lơ đễnh sương phù du tuôn hớ hênh. 

_____________________ 

[1] Ngôn ngữ Tô Tử Cốc tại đây rõ ràng là khởi phát từ thủy mạch Như Lai lãng đãng nơi những bộ kinh. 

[2] Bản dịch Ang ngữ có di biến linh động chút ít. Cấp cho ta một trường hợp đơn sơ rất mực tố vọng sinh bình sinh ra suy gẫm sâm si đen sì… 

[3] Hỡi ôi! Đãi tiệc nhà sư mà sao lắm của ngon vật lạ như thế? Phải chi mà đem cho hết ông Tản Đà nhậu nhẹt một trận! 

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN 

Tôi lau nước mắt đáp ông Mạch mà rằng: 

-Cháu cảm tạ tấm lòng bác chiếu cố. Lòng cháu bàng hoàng còn biết lấy chi báo đáp. Nhiên nhi, trong chùa còn chú Tương Tăng, pháp danh là Pháp Nhẫn, vốn là bạn chí thiết của cháu, cùng nhau sống đã lâu ngày, cháu chẳng nỡ nào chia tay với người bạn ấy. Sau này, cháu sẽ mong được nhiều dịp tới viếng bác để nghe bày vẽ được nhiều, xin bác vui lòng cho như thế. 

Ông Mạch suy nghĩ chút ít, rồi hòa ái bảo rằng: 

-Như vậy cũng tốt lắm! Bác chỉ lo sợ rằng đời sống khắc khổ trong chùa cháu chịu đựng không kham. 

Tôi đáp mà rằng : 

-Dạ không có chi như thế. Chư tăng trong chùa đối đãi với cháu rất tốt. Ngoài Pháp Nhẫn ra, lại còn Chơn Pháp, Tuệ Sỹ Pháp, Chí Hải ni cô, Phùng Pháp ni cô, Khánh Pháp ni cô, toàn nhiên là những vị từ bi độ lượng khả dĩ mai sau dắt dẫn cháu cập bờ đáo bỉ ngạn ba la mật kim cương. Ngoài ra lại còn Minh Châu phương trượng vốn xưa kia là… 

-Là sao? 

-Là thường hằng có làm thơ ngâm vịnh với song hồn thiên hạ thi sỹ trung niên. 

-À, té ra là như thế. Vạn hạnh, ức phúc vậy thay! 

Gladness shone upon Mr. Mei’s face. He led me to my seat at the table, I noticed that there was a complete spread of Chekiang delicacies on the table. Yet my heart carried so many sorrows that, for the moment all dishes tasted alike; it seemed as if I were merely chewing wax.

Ông Mạch hân hoan, hỷ hình ư sắc. Nắm lấy tay tôi dẫn vào nhập tiệc. Trên bàn có đầy đủ đông đảo tràn lan những món ăn Chiết Giang Hà Nam Hà Bắc. Nhưng lòng tôi đầy rẫy những ưu lự khôn hàn, gắp món nào cũng như món nấy, cũng thể như ăn sáp nhạt mà thôi. 

Ăn xong, tôi sơ lược kể lại chuyến đi Nhật Bản tìm mẹ. Gia đình ông Mạch thảy đều cảm động vô cùng. 

Con gái ông Mạch và Mạch phu nhơn đều đồng than bảo rằng té ra như thế thì lòng trời cũng đã sẵn sàng có an bài ôn tồn thỏa đáng cho liên tồn thế sự nhân gian, và hết lời khuyên tôi hãy gắng mà nguôi quên những cái cơn sầu muộn ủ ê đi. Trời nắng rồi trời mưa rồi trời tạnh cũng như dâu biển chiến tranh hòa bình rất mực vậy đó mà. Tôi lại cảm động một cơn và vùng khóc thêm một phen nữa. 

Tới lúc cáo biệt lâm hành, Mạch phu nhân đem ra cho tôi một trăm đồng vàng dặn bảo mà rằng: 

-Cháu đừng từ chối, hãy nhận lấy mà tiêu dùng lúc cần cấp. 

Tôi khước từ mà rằng: 

-Cháu tự lúc khởi hành từ Đậu Tử, đã có dành dụm hai trăm, tới nay vẫn còn giữ được phân nửa, nằm vuông tròn ở trong túi áo cà sa phơ phất ôn tồn. Ân đức kia của hai bác, cháu xin tâm lĩnh vậy. Và kính tạ phu nhân nửa phần thơ mộng nửa phần đăm chiêu: 

Phu Nhân cả cười mà rằng: 

-Thơ mộng cái chi? Đăm chiêu cái chi? 

Tôi cũng cười theo một tiếng. 

Về tới chùa. Vài ngày sau, hai anh em Mạch cùng tới viếng chùa Linh Ẩn (Secluded Soul Monastery). Gặp tôi trò chuyện tại Lãnh Tuyền Đình (Chilly Spring Pavilion). Tôi nhân lúc hàn huyên vui vẻ, mà xen lời ngẫu nhĩ hỏi thăm về tin tức Tuyết Mai: 

-Chẳng biết cảnh huống gần đây của Tuyết Mai ra như thế nào? 

Ban đầu anh em Mạch thị có vẻ ấp úng che giấu, ngôn ngữ mơ hồ. 

Tôi không nghe ra đầu dây mối nhợ rõ. Liền nêu trở lại câu hỏi lần nữa… Rồi hỏi tới lần thứ ba… 

Thì cô gái hơi nhíu hàng lông mày là rằng: 

-Nếu như sự tình là ngọc nát hương tan thì anh nghĩ sao? 

Nghe nàng nói thế như sét đánh ngang tai. Cơ hồ tôi suýt ngã gục chết ngất. Trấn định thần hồn không được, tôi run lên từ đầu tóc tới ngón chân, thu tay đấm vào ngực mình mà hét. 

-Có thật như thế chăng? 

Người anh cô Mạch liền nắm lấy cánh tay tôi mà rằng: 

-Em nó nói bậy bạ bừa bãi! Đâu có hề xảy ra chuyện đó… Sự thật là… là… 

Nói tới đó, ngập ngừng, chuyển sang điệu an ủi: 

-Anh Tam Lang thân mến ạ, anh hãy bảo trọng thân thể. Em gái nó nói câu ấy chẳng có chi xác thực hết cả. Sự thật là chúng tôi có nghe người ta đồn rằng cô Tuyết Mai vướng bệnh tơ tưởng gì đó, rồi đau ốm có phần kịch liệt thế thôi. Dù sao, thì Trời Xanh cũng che chở những người hiền hậu đàng hoàng như cô ấy. Cô cũng như Kim Cương nương tử. Có lẽ nào mệnh vận hẩm hiu cho được. Anh Tam Lang chớ nên lo sợ mà tổn hại thân thể máu me. 

Tôi cố gắng trấn tĩnh. Ngày đó, anh em Mạch lại mời tôi cùng về nhà anh chơi. 

Qua ngày hôm sau, buổi sáng tôi thơ thẩn ra dạo vườn phía sau nhà, chợt thấy cô em Mạch đang đứng đăm chiêu trên chiếc cầu gỗ, tay vịn nhịp cầu mà hai con mắt ngó xa xôi. 

Thấy tôi đi tới, thì hai má lúm đồng tiền của nàng bỗng nhiên ửng đỏ phất phơ. Ý dường như là không nỡ đem tin tức giai nhân kia mà nói ra cho rõ. Tôi sắp quày thân đi nơi khác, cô gái bỗng đưa mắt nhìn qua một cái, cất giọng mà rằng; 

-Tam Lang có vui lòng cho phép em dẫn anh đi dạo vườn một chặp? 

Tôi nghiêng thân cung kính ôn tồn, trang nhiên cảm tạ mà rằng: 

-Há dám làm phiền gót ngọc? Kính hỏi hiền muội một lời: Tuyết Mai thật ra có còn sống tại nhân gian chăng? Hiền muội có thể nói rõ hết đầu đuôi cho nghe? 

Cô gái riu ríu giọng vàng thở dài một cái, lắc đầu mà rằng: 

-Ngạn ngữ có câu: “Tâm can mẹ ghẻ, một mẻ tam bành…” Há chẳng là sự thường tình? Ngày trước ở quê nhà, em có nghe người ta nói rằng người mẹ ghẻ kia bức bách chị Tuyết Mai phải làm dâu một nhà giàu có nào đó. Trong cái đêm trước ngày về nhà chồng, chị Mai đã lìa đời, sau bao nhiêu ngày ốm đau hao mòn nhịn đói. Chẳng biết ông Trời Xanh, ông Phật đỏ ở đâu, mà chẳng thấy thấp thoáng về cứu giúp. Người trong làng ai ai cũng thương tiếc chị Tuyết Mai, mà chẳng có ai chịu phục ông Trời Xanh tài hoa gì hết cả. Còn em nghĩ tới mà ngán ngẩm chán phèo cho trời tròn đất méo, nhân gian đen đủi hoen hoen, rốt cuộc xô bồ ra như thế. 

Nghe rõ tin tức đau đớn ấy, tôi than khóc thất thanh lạc thể ly hồn. Cấp tốc quay về chùa, cùng Pháp Nhẫn bàn bạc, cùng nhau khăn gói vội vã quay về Lĩnh Nam Lam Hải, mong tìm tới mộ Tuyết Mai mà phúng điếu an ủi cái vong hồn. 

Chiều xế ngày hôm sau, gia đình ông Mạch cùng tiễn chân tôi tới Củng Thần Kiều. Gạt lệ chia tay. 

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM 

Trên dặm đường dằng dặc, tôi lẩn quẩn linh hồn như con kim báo lạc rừng hiu hắt giữa mù sương thôn ổ. Gẫm lại những cái lời những con người đời xưa mà nhấm gậm lại gan mật đau đớn ở trong mình: “Ta hăm hở chí trai hồ thỷ, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng lưu ly thân gái liễu bồ, vì giận phận, hóa ngang tàng tính mệnh… Nhưng mà? Mà nhé! Nhé mà? Mà chẳng nhé? 

Don’t think that I am wooing, Tathagatha! Even if I were, you’d never come. For my call is always full of “A way!” Against such a powerful current you cannot advance. Like an outstretched arm is my call…

-Xin chớ nghĩ rằng tôi đang cầu khẩn hỡi Như Lai! 
Vì cho dẫu khẩn cầu, người cũng sẽ chẳng bao giờ chịu đến 
Vì tiếng kêu của tại hạ khôn hàn 
Vẫn mãi mãi chan hòa niềm ly khứ 
Về hư vô là viễn xứ hư không 
Và đối nghịch lại dòng tuôn xiết nọ 
Người không sao tiến tới được bên lòng 
Và tiếng gọi vẫn như dường như thế 
Một vòng tay duỗi rộng giữa sương hồng 
Và sương lục mông lung hồn lữ thứ 
Và sương lam vô hạn mất vân mồng 
Và vâng một vâng hai vâng ba vâng bốn 
Cũng vô ngần vâng ạ ạ vân vân… 
Chiêm bao đậu khấu si đần 
Cơn điên cuồng dại cơn dần dần se 
Ông trời bà đất so le 
Thị thành tâm sự còn nhe răng cười

Tôi và Pháp Nhẫn tới Thượng Hải, mới hay rằng tiền bạc ở trong túi áo thảy thảy đều không cánh mà bay. Không còn cách gì mướn thuyền, đành cùng Pháp Nhẫn quyết định đi bộ. Dọc đường khất thực le lói, niếm mùi cay đắng. 

Sau đó, chúng tôi tới Hoành Bồ Quan, bước vào biên giới Nam Hùng. Quá trạm Hồng Mai Dịch, nghe thổ dân bảo rằng đường đi vốn bằng phẳng bình an, duy có điều những đoạn đường thủy hơi nhiều, mà việc thuyền bè chểnh mảng. 

Phải trải cơn chờ trận đợi, nhiều phen lắm, mới mong tới được Thủy Hưng. Chúng tôi hai đứa dốc hết tiền bạc thưa thớt còn lại trong túi áo ra, thì cũng tạm gọi là có đủ để mướn ghe và mua thực dụng. 

Xong xuôi, ghe giương buồm đi. Gặp gió xuôi buồm thuận, mấy ngày sau vượt qua Trinh Thủy. Tới huyện Thủy Hưng, thì hai đứa tôi mới bớt lo âu được một phen. Đêm đó, thuyền buộc tại một bến đò xơ xác dưới gốc cây tàn dương bại liễu. Bấy giờ vào tiết Trung thu tháng chín, khí trời lạnh lẽo, sơn xuyên tịch liêu. Ngẩng mặt nhìn phong cảnh tiêu điều, chợt một trận gió tây bắc heo hút thổi qua vi vút bên mép tai. Tôi lật nhiên hãi hùng nghe ra như có một giống vật kỳ lạ đồ sộ khò khè tới tập kích chiếc ghe. Dưới ánh đèn leo lắt, tôi đưa mắt dòm thấy một đống ngổn ngang, ước có hơn trăm rưỡi con cua to bự cuộn tròn cuống rốn ù lỳ ngọ nguậy nhà ma. Té ra kể cũng là cà lũng một cảnh tượng cưỡng cơn kỳ thú tôi được nhìn ngó nhăn nhó nhất mực một lần đầu.

Pháp Nhẫn bảo tôi mà rằng: 

-Tôi nghe nói Chu Phụng Sơn (núi Chu Phụng) cách đây không bao xa có toà nhà xưa của Trương Cửu Linh (thi nhân đời Đường) sáng mai chúng ta hãy len lỏi theo đường mòn tới viếng một phen chơi. Chịu bỏ chút ít thì giờ đi quanh co một trận cũng là phải lẽ vậy: 

Tôi bảo: 

-Chỉ tiếc là chúng ta không có cơ hội thống ẩm cuồng ca một trận. Nếu được thì chúng ta có thể mở một cuộc nướng mấy con cua kia. Rồi vào trong làng thôn, thôn làng thang lan mơ mộng mà mua một mớ rượu vàng ăm ắp đầy lu ra đây ngồi giữa cảnh trời thu mà tha hồ nhậu nhẹt thù tạc tơi bời cho nguôi cái cơn u sầu ở trong thớ dạ. Nào, nào đêm nay trăm sầu nghìn muộn, ắt có còn đày đọa máu me tim phổi chúng ta ru ? 

Ông lái ghe đưa tay chỉ cho chúng tôi nhìn một ngôi chùa giữa một rừng phong, bảo với chúng tôi rằng: 

-Đó là Hoài An Cổ Lan Nhược vậy. Những tường vàng vách ngọc ngày nay đã rã rời rụng rơi toe toét hết cả. Phụ lão tương truyền rằng tháng ba Giáp Thân thời xưa các bậc di lão của hàng ngũ lãnh đạo dân tộc chúng ta đã từng chiêu tướng mộ binh tại chốn này. Các ông có nhận thấy rằng vong hồn thu thảo còn phảng phất vong linh cựu thời, trong ngọn gió hiu hiu? Hỡi ôi! Phong cảnh y nhiên mà giang sơn đã đổi chủ há chẳng khiến lòng người hoài cảm ưu nhiên ru? 

Chúng tôi sắp ngủ, chợt trời nổi trận gió dông mù mịt mưa tuôn. Tôi bảo Pháp Nhẫn: 

-Đêm nay không thể ngủ tại ghe được. Chẳng bằng cùng vào trong am miếu kia đụt mưa, sáng mai lại lên đường. 

-Như thế phải vậy. 

Chúng tôi bèn từ biệt ông lái ghe, nhắm thẳng hướng Rừng Phong mà tiến gót. Tới cửa chùa nhìn thấy bốn bề tường vách rã rời sập đổ, các cánh cửa cũng tan tành. Vào trong chùa, vắng ngắt. Chỉ leo lắt thấy Phật đăng bốn phía vách. Bên cạnh điện có một con đường thông ra phía sau, dẫn tới một căn phòng nhỏ. Tôi đoán chắc đó là chốn cư trú của vị tăng trụ trì, nên dừng gót không tiến vào làm chi. Pháp Nhẫn đưa tay mò mẫn tấm bia có đề thơ, lẩm nhẩm mà đọc rằng: 

-“Thập quận danh hiền thỉnh tự tư
Tòa trung nhược cá thị nam nhi 
Đỉnh Hồ nan vãn long tu nhựt 
Uyển Thủy tranh trì ngưu nhĩ thời 
Khốc tận đông thanh đồ hữu lệ 
Ca tàn Ngưng Bích cánh vô thi 
Cố lăng mạch phạn thùy kiêu thủ 
Doanh đắc không đường tửu mãn ba
” 

-Đó là bài thơ của Đạm Quy hòa thượng (triều Minh Gia Tĩnh) tặng cho Ngũ Mai Thôn vậy. Thuở bấy giờ bọn gọi là danh lưu nhân sỹ, đã cam lòng đem đất đai tổ tiên hiến dâng cho rợ Hồ. Tàn bạo sát hại vũ nhục đủ rõ. Đạm Quy hòa thượng vốn là kẻ đội trời đạp đất, quen thói vẫy vùng, anh hào đường đường một đấng. Hỡi ôi! Đơn Hà nhứt cự, di lão ư quang, chí kim do quật nhi bất thân, hà thiên tâm chi hội hôi giả (Alas! When his abode, “red dew”, was burned down, the glorious traditions of the faithful remnant of this country were buried in obscurity, never to come to life again. Why is Heaven so stupid as to let such conditions exist?

Trời bỗng tạnh mưa. Tôi và Pháp Nhẫn, Chơn Pháp, Tuệ Pháp không nói năng gì nữa, cởi áo nằm xuống một góc điện (ghiện đóc). Tôi ngẫu nhiên từ cõi mộng kinh động tỉnh ra, lúc bấy giờ bốn bề tĩnh mịch, vạn lại trầm trầm, bách ban duệ địa thảy thảy cùng là đã quét đất mang nhiên miên nhan mậu sắc mắc sậu phiêu bồng cưỡng cơn sè sẹ. Chợt nghe Tây phong thổi táp táp, phần phật đạp vào cành tre bẹ trúc, côn trùng lạnh lẽo sầu đong tiếp nối vơi đầy. Bỗng nhiên có tiếng niệm Thi kinh (kinh thi ky thinh) mờ hoen phai nhạt cái câu lục nga sầu não vô ngần, cay đắng tuyệt lâu “Ai ai phụ mẫu! Sinh ngã cù lao!” Thì cõi lòng tôi bỗng trào cơn sôi cuộc như tan rã mất rồi… 

Sáng ra, trời trong xanh. Tôi gặp nhà sư đêm hôm niệm kinh Thi… Hỡi ôi! Mặt nhìn mặt! Té ra đó là người con trai của vú nuôi tôi. Chính là Triều Nhi đó vậy. Tôi kinh ngạc ngậm ngùi. Còn Triều Nhi thì cơ hồ như tưởng tôi là vong hồn ma quỷ. Hai đứa đăm đăm ngó nhau thật lâu như bị thâu hồn nhiếp phách. 

Bi yếu vạn trạng mà rằng: 

-A huynh trở về bao ngày như thế? 

Tôi đáp: 

-Đêm hôm qua tới đây, mưa gió đầy trời, đành vào trong điện này tránh mưa. Hiền đệ vì lẽ chi mà trông tiều tụy hình dong ra như thế? A mẫu bình an khỏe mạnh chứ. 

Triều Nhi chưa kịp mở môi, đã thấy ròng ròng hai hàng nước mắt. Bảo tôi rằng: 

-Từ mẫu em đã qua đời, em đau lòng quá, bèn rũ áo cạo đầu đi tu. Em lưu trú chốn này gần bên nấm mộ đã ba con trăng rồi (ba tháng). 

Tôi nghe nói, thì bủn rủn cả tay chân bước tới ôm Triều Nhi mà khóc. 

-Ý anh là về Nam Hải thì trước tiên là tìm thăm vú nuôi. Tự ngày anh còn bé bỏng, chỉ một mình vú nuôi nấng thương yêu ngờ đâu ngày nay đã là người thiên cổ. Trời Xanh ôi! Vú nuôi ân đức dưỡng dục, tôi chưa đền đáp được chút gì! Phật từ bi ôi! Lòng tôi tan nát còn ra cái cái dạng gì gì! Tim phổi cũng theo nhau rã rời đi mất hết. 

Triều Nhi dẫn chúng tôi ra ngoài cửa phía tây, tới nắm mộ. Chỉ thấy đất vàng le lói một vùng, – Hoàng thổ nhất khâu lưu chỉ đảo. Tam kinh huyền vọng kiểu lư tê… 

Hàng bạch dương hiu hiu hắt hắt. Đàn chim rừng đậu ở trên đó, ca hót cái lời gì? Tôi và Pháp Nhẫn, phủ phục khóc than. 

Triều Nhi lau nước mắt mà rằng: 

-Vong mẫu cảm lòng cổ trang phu nhân vô cùng. Trừ cổ trang phu nhân ra, muốn tìm cho một người nhân đức lân mẫn, thật là không có. Em tháng trước đây gửi đi lá thư, chẳng biết rằng a huynh đã trở về. Hôm nay gặp a huynh tại đây, thì thật là mộng hồn em cũng không liệu được tới, há chẳng phải là Trời Xanh Phật Vàng Thượng Đế Đỏ cũng rủ lòng thương xót chúng ta chăng? Mẹ em ắt cũng ngậm cười nơi chín suối. 

Tôi lẩm nhẩm lời thơ nương tử con gái mục sư Robert: – “Kô ros d’od’ieros ôs apaikassai, bruônn daphnes, class, ampelou. Puknopteroi d’eisô kat’autôn eustomouss ared ones… and where we are is clearly consecreted groud: luxuriant in laurel, olive, vine – and deep in song of nightingales…

Và nơi chốn chúng tôi tao ngộ ấy
Là đất đai của Thơ Mộng Thiêng Liêng 
Cành Nguyệt Quế và Ô Liu Nho Thắm 
Và Yến Oanh thăm thẳm dậy bên miền…

CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU 

The last act is bloody, however charming the rest of the play may be (Màn cuối đẫm máu lệ, cho dẫu toàn khối thừa dư của vở tuồng có thơ mộng kiều diễm bao nhiêu chăng nữa)” 

Chúng tôi tạm cùng Triều Nhi chia tay, rồi cùng hướng về phía cố hương của Tuyết Mai mà đi. Đường đất dặm dài ngun ngút, chúng tôi vừa đi vừa xin ăn dọc đường. Bảy ngày đêm sau mới tới Diệp Thôn (Yellow Leaf village). Độc giả còn nhớ ấy chăng. Thôn nọ là cái nơi cư lư của vú nuôi tôi ngày trước. Ngày đó tôi đã có lần làm một kẻ bán hoa. Căn nhà vú nuôi đã bán cho chủ khác. Nhìn bên ngoài cũng không còn giống như ngày trước. Càng thấy sầu muộn thêm ra. 

Tôi cùng Pháp Nhẫn vào một mép thôn làng hẻo lánh, nghỉ đêm tại một ngôi nhà cũ nát. Chớm tờ mờ sáng, tôi cùng Pháp Nhẫn khoác áo ăn xin mà lên đường mé tây, mà ngâm câu hàn gia cơ xá 

Lúc bấy giờ, lòng tôi đã trải qua vạn thiên bách chuyển, chẳng còn biết nghĩ chi là địa ngục nghĩ chi là thiên đường. Nghĩ chi là em Tuyết Mai ngậm cười chín suối, hoặc chi nghĩ là Mai Tuyết cười ngậm chốn hoàng tuyền. 

Tới chốn cũ nhà của Tuyết Mai, tôi dừng chân đứng im một lúc. Hồi tưởng lại các ngày tôi đi bán hoa, lây lất cất tiếng rao “Ông bà cô bác chị em có mua hoa tươi lá biết đủ đầy…” Mọi sự còn rành rành thị hiện như câu chuyện sáng hôm qua mù sương sa trên tóc rối. Nào ai đâu có liệu nổi sự đời nó xoay vần vấn vít? Thùy liệu vân mấn hoa nhan kim cánh hóa nhiên nhi khứ? Ai có liệu trước được rằng tóc mây mặt ngọc, nay bỗng nhiên đã biến thành khói sương trôi biệt? Ai có liệu được rằng cái niềm vui quen biết, cái ân nghĩa chia đường, rốt cuộc đã ra ma mặn mà cơn cớ quỷ! Ôi tình ôi nghĩa ôi nghiệp ôi duyên ôi tiền oan túc chướng hỡi ôi ôi! Ta hăm hở một phen đi phen ở. Em ngang tàng tính mệnh cuộc trong cơn. Cợt đùa truông lá cồn xế xanh rờn. Hoa cồn thắm cũng đành như thể úa, Thủa âm ế âm u phen nguyền rủa. Trận coi tề ủa lạ ả a nam. A Nan ôi là ứ y khôn hàn A Bồ Tát ấy Tu Bồ Đề tụ đủ. Tù ngục với phù sinh đe ủ rũ. Đủi ủ ê còn biết nói răng mầng Câu thơ tù tội xoay vần. Niềm riêng tỳ tử há cần mẫn soi. 

How could there come an end to my agony? Snow Mei herself, would surely have pitied me without end. I was exceedingly weary of being insnared in this mundane net and wished only for the end. Ta hồ! Tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt. Tuyết Mai diệc tất lân ngã ư vĩnh vô cùng. Dư ky my thế võng, diệc yêm yêm dục tận hỹ. 

Duy tưởng tới tự ngày tôi từ biệt Nhật Bản về đây, mẹ tôi ở lại bên ấy, tựa cửa mong chờ ngày tôi trở lại. Thì cũng như đem con trâu đất sét mà quẳng vào giữa biển rộng miên man. Còn tăm dạng đâu mà dò la tin tức. Tôi quả thật là đứa trẻ lăng nhăng, đã điên rồ đem bao kỳ vọng của mẹ già của dì lại, của em khờ, mà quẳng tuốt hết xuống lòng biển nước mặn sóng chua. Thế thì? Thế thì tôi còn làm thơ than thi sỹ cái gì gì? Mà cạo đầu đi tu cái gì gì cho được? Gẫm ra, tội lỗi tày trời. Còn đâu tìm ra một vị Bồ Tát Như Lai nào rủ lòng thương mà dẫn dắt lên đường kim cương ba la mật? 

Lúc bấy giờ lòng tôi tê giá rã riêng khôn hàn, gắng gượng lò dò bước tới bên cửa căn nhà lẩy bẩy cất giọng gọi: 

-Thí chủ! Thí chủ! 

Một lát sau, một cô bé bước ra. Tôi nhìn rõ, đúng là cô gái tỳ tử ngày xưa đã đón hỏi tôi, đưa thư từ và trao tiền bạc của Tuyết Mai cho tôi. Tỳ tử giương hai mắt đăm đăm nhìn, bỗng nhiên lùi ra sau mấy bước, mặt mày thảnh thốt hãi hùng. Lại trố mắt nhìn hai đứa chúng tôi, dở chiều như quen biết, dở chiều như xa lạ. 

Tôi chưa mở lời nói, lòng đau như cắt. Vừa khóc vừa than mà rằng: 

-Cô còn nhớ cái kẻ bán hoa ngày trước chăng? Cô Tuyết Mai ngày nay chôn ở nơi nào ? Mong cô dẫn tôi đi viếng mộ Tuyết Mai một phen. Thì tôi xin cảm tạ ân đức của cô nương lắm. Tôi nay gấp gáp nóng lòng như sôi, không chọn ra lời để diễn tả tâm sự, mong cô thương cảm mà thứ cho. 

Cô tỳ nữ nghe tôi nói, vẻ mặt nàng bỗng nhiên lạnh như đồng. Rồi chợt nổi cơn giận dữ. Nàng quay mặt nhìn nơi khác một lúc lâu, chợt cất giọng dữ dội mà rằng: 

-Kỳ dị thay là cái lời ăn tiếng nói của tiên sinh! Người ta đã đau đớn chết đi rồi, tiên sinh còn khóc còn than có ích gì đến ai cho được chứ! Có từng nghe ai nói rằng cô Tuyết Mai đã có phụ lòng tiên sinh một phen nào đâu cho đáng! Xin thử hỏi chàng bán hoa một câu nhé: Tiểu thư nhà tôi đã vì ai mà đứt ruột nát cả gan vàng? 

Nói đến đó, nàng lại trố mắt nhìn tôi, hai má đỏ rực. Thảng thốt bẽn lẽn mà rằng: 

-Hòa thượng hãy đi đi! Hãy thứ lỗi vô lễ của nô tỳ đối với hòa thượng! 

Nói xong, quay lưng trở vào, đóng rầm cánh cửa lại. 

Tôi đứng trơ cúi gầm cái đầu xuống, không còn lý do gì biện giải được nữa. Đâu có ngờ bị một trận cự tuyệt lạnh giá như thế nơi cô nữ tỳ. Lòng như dao cắt. Tôi đờ đẫn ù lỳ đứng trồng như cột. Chẳng còn thiết chi sống nữa ở trong nhân gian. Lâu lắm, Pháp Nhẫn lựa lời khuyên giải, tôi bồi hồi nửa tỉnh nửa mê, cũng cảm thấy vơi bớt một phần chua xót. 

Quày thân đi, Pháp Nhẫn bước theo. Hai đứa lang thang đi khắp các bãi tha ma nơi thôn làng, dừng chân trước từng nấm mộ. Cho tới nhá nhem vẫn tìm không thấy đâu bia mộ Tuyết Mai. Trời sập tối, bốn bề sương khói mịt mùng. Khắp nơi dằng dặc im lặng căm căm. Chỉ nghe hơi thở hổn hển của hai đứa ngơ ngẩn nhìn nhau thôi. 

Tôi thấp giọng bảo: 

-Bạn thân thiết ôi, thôi thế là rồi rồi. Tôi chẳng còn chịu đựng nỗi đau đớn, chỉ còn nên chấm dứt cái kiếp sống thừa thãi này đi thôi. 

Pháp Nhẫn ngẩng đầu ngó trời. Rồi ngậm ngùi lựa lời an ủi, khuyên tôi hãy nên quay về chùa, rồi ngày mai sẽ lên đường về cõi bắc. Tôi đứng ù lỳ ra đó như thây ma. Pháp Nhẫn dìu tôi bước đi, hì hục lây lất trên con đường khúc khuỷu. Hỡi ôi! 

-Đạp biến bắc khâu tam thập lý. Bất tri hà xứ táng khanh khanh? (Đi khắp gò hoang ba mươi dặm. Tìm đâu ra nấm mộ khanh khanh?) 

Mây ôi làn gió u nùng
Dửng dưng như thể một vùng như lai 
Miêu cương bồ tát an bài 
Dấu bèo phôi dựng nét mày ngài phơi 
Cành hoa mai tuyết gãy rồi 
Đoạn hồng linh nhạn sao lồi lõm cơn 
Gò hoang mấy dặm cát rờn 
Lưỡi tê tục lụy cung đờn nhà ma… 
Cầm bằng cũng thể mà ra 
Bình minh bắc húc cũng là nam phương 
Đất nào vùi lấp cô nương 
Niềm riêng lão nạp lộn đường bữa nay 

Think, gentle reader, how bitterly grieved I was at this time. Was there another tragedy in all the word, which could be compared to mine? My tears had ceased flowing. I perceived that my heart was as numb as wood or stone.

Độc giả tư tri, dư thử thời sầu khổ, nhân gian ninh phục ngô thất giả? – Độc giả nghĩ xem, lão nạp thuở bấy giờ đau khổ như thế, nhân gian còn ai đau khổ bằng? Nước mắt đã ngừng chảy? Cảm thấy cõi lòng mình đã biến thành gỗ đá. Quyết ý lên đường về viếng sư phụ ở chùa. Cùng Pháp Nhẫn khăn gói lên đường. 

Nhi bất tri dư nhĩ thiên u hận, chính vị hữu ngãi giả. Yet, I did not know when all my sorrows that filled all the wide heavens, would come to an end. I now put aside my brush, finding it unbearable to say more.

TO THE HAPPY FEW

(Cuốn truyện của Đại sư Tô Mạn Thù có nhiều trang quá thảm khốc. Lúc dịch, tại hạ thỉnh thoảng có thêm vài lời vui vẻ vào, cốt để nhẹ bớt tính cách quá khốc liệt… Độc giả nguyên lượng).

nguon : vnthuquan.net

NHÀ SƯ VƯỚN LỤY – TÔ MẠN THÙ

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 15:10

NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY

hay là TRUYỆN CON HỒNG NHẠN LƯU LY

THE LONE SWAN

(Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký  斷 鴻 零 雁 記 ) 
Tác giả: TÔ MẠN THÙ (Su Manshu)
Bản dịch: BÙI GIÁNG

—o0o— 
Phần 1
VÀI LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC PHẨM VÀ TÁC GIẢ

Đoạn hồng linh nhạn ký- Truyện một con hồng nhạn lênh đênh? Truyện một nhà sư vướng tục lụy? Nhà sư ấy, cha vốn là người Trung Hoa, mẹ là người Nhật Bản. Cha mất sớm, mẹ về cố quận… Đứa con bơ vơ trôi nổi, quy y cửa Phật, rồi giũ áo tu, ra đời, vướng vào Lụy Tình Yêu. Ngòi bút của Tô Tử Cốc, vừa trang nhã, thâm trầm, vừa linh hoạt tân kỳ như bút pháp những văn hào hiện đại Tây phương – ngòi bút Tô Tử Cốc sẽ đưa chúng ta vào sâu trong cõi tình và lụy, đạo giáo và ước mơ, những mâu thuẫn muôn đời vạn kiếp của con người ở một thời đại, và riêng biệt của con người đứng chênh vênh ở đầu thế kỷ hai mươi là thế kỷ của những dông bão dị thường. Đọc Tô Mạn Thù, chúng ta có cảm tưởng kỳ dị: chẳng những không một tâm tình tư tưởng nào của cõi Đạo Đông phương Chân Như lọt ra ngoài nhãn quan ông, mà ngay cả cõi Tây phương hoằng đại, từ sơ thủy Hy Lạp Sophocle Parménide tới hiện đại Âu châu văn thể siêu thực Appollinaire, Nerval, Camus, Morgan, không một “bút pháp” nào ông không thành thục quán xuyến.
Toàn thể câu chuyện, cũng như mỗi tình tiết nhỏ nêu ra đều được nung nấu trong mối tư lường của một thánh tính đạt tới cõi lô hỏa thuần thanh, siêu thần nhập hóa. Không thể nào nói đó là bút pháp tài tình, kỹ thuật điêu luyện, chỉ có thể nói rằng đó là một cuộc kết tinh huyền nhiệm của lịch sử Đông phương giữa một triều sóng rộng dâng lên cùng với bao nhiêu ngọn gió ở bốn chân trời lổ đổ thổi lại. Đọc cuốn sách của Tô Mạn Thù cũng như đọc Sophocle, Nguyễn Du, Nerval, Apolinaire, Faulkner, Morgan, luôn luôn chúng ta bàng hoàng trước huyền nhiệm anh hoa phát tiết. 
Đại sư Mạn Thù, tên thật là Tô Huyền Anh biệt hiệu là Tô Tử Cốc, sinh năm 1883, mất năm 1918 (xấp xỉ đồng thời với Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Apollinaire, lênh đênh giữa hai thế kỷ 19 và 20). 
Thân phụ ông vốn là người Trung Hoa, tỉnh Quảng Đông, vì cuộc sinh nhai mà lưu lạc sang Nhật Bản, cưới một thiếu nữ Nhật, sinh hạ Tô Huyền Anh. 
Tô Huyền Anh chưa được mấy tuổi, thì thân phụ chàng đưa gia quyến về lại Trung Hoa. 
Chẳng bao lâu thân phụ chàng lìa đời. Thân mẫu đành quay về Nhật Bản, gửi đứa con ở lại Trung Hoa, nhờ thân thích bên nội nuôi dưỡng. 
Đứa bé bị họ hàng quê cha ghét bỏ, vì nó mang một nửa phần máu mẹ Nhật Bản ở trong thân thể nó. 
Đứa bé cô đơn quá, bèn cạo đầu quy y cửa Phật, vào chùa Lôi Phong tại Quảng Châu. 
Phương trượng Tuệ Long, nhận thấy thằng bé thông minh xuất sắc, mới dốc lòng dạy dỗ. Sau mấy năm dùi mài cần mẫn, chú bé đã thông thạo văn học tư tưởng Ấn Độ, Trung Hoa, và dăm bảy ngôn ngữ Tây phương… 
Sau  khi Phương trượng viên tịch, Tô Mạn Thù cảm thấy bơ vơ, bèn trút giũ áo tu, ra sống ngoài cõi tục. Tâm trạng tình cảm từ đó quả thật là éo le: tu thì tu không trót, mà chen lấn chìm nổi với đời, thì cũng thiếu hẳn khả năng chen lấn nổi chìm. 
Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu. Cũng nhiều phen qua Nhật Bản viếng thăm thân mẫu. 
Chính tại Nhật Bản, Tô Mạn Thù gặp Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và nhiều đồng chí của Tôn Dật Tiên sang Nhật lánh nạn. Những anh hùng cách mạng kia chơi thân thiết với Tô Mạn Thù. Nhưng họ Tô vốn là nhà sư thi sĩ, chẳng thể nào nhập cuộc thật sự với các lãnh tụ chánh trị chịu chơi gay cấn kia. 
Cái anh chàng thanh niên “lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh” kia từ đó càng lang thang trầm luân khắp châu quận, trường giang đại hải. Tiếng gọi sơ đầu của Như Lai không đủ cứu vớt chàng, dìu dắt chàng trở lại với cõi tịch mịch thanh tu. Càng ngày chàng càng đâm ra trầm túy, nửa trong hồ rượu nửa trong biển tình. Chàng đúng là một loại Nerval Baudelaire Dylan Thomas Verlaine Apolinaire. Nếu chàng mù được hai mắt như Homère, ắt chàng đã khám phá ra một cõi sống dị thường trong u tối. Nhưng cái rủi ro lại là ở chỗ: chàng không mù. Cũng không cận thị. Đó là điều tai hại. Hiểm họa hoành sinh. 
Kể từ mười mấy tuổi đầu, chàng đã sống trọn cái thảm kịch trần gian, sinh mệnh chàng ngược xuôi lảo đảo, mười sáu tuổi đầu, chàng đã thể hội hết nỗi đoạn trường thế sự mà Nguyễn Du đã viết lúc đầu bạc bình sinh, chàng đã nhìn quá sáng suốt mọi thảm kịch biển dâu, mà chẳng đủ khả năng thoát tục, cũng không đủ sức sống xô bồ bạt mạng trắng trợn tới cùng. Thì đó là hiểm họa. Thi văn chàng từ đó mang một tố chất đìu hiu bất khả tư nghị ở tại cái “ngã ba” siêu lệch chênh vênh gây cấn: “dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Chiêm bao kỳ mộng dường gần. Sịch mành sực tỉnh lại dần dần xa. Há rằng ngẫu nhĩ mà ra. Đoạn hồng linh nhạn mù sa thế nào…” 
Đọc đoạn hồng linh nhạn của Đại sư Tô Mạn Thù, từ đó, chúng ta chứng kiến mọi tan vỡ trong xã hội Đông phương giữa những xung đột kỳ thị, những mộng và tình và tiền oan túc trái… 
(Tiện đây, người dịch xin đưa ý kiến riêng là: những sách tiểu thuyết tôi được đọc trên vài mươi năm nay, không có cuốn nào gây chấn động cho tôi nhiều như cuốn sách này của Tô Mạn Thù – trừ cuốn truyện của Nguyễn Du (cố nhiên) và cuốn Sylvie của Nerval và có lẽ Fountian Sparkenbroke của Morgan – kể về mọi phương diện – nội dung văn thể, bố cục…) 
Tô Mạn Thù vốn mê thơ Lord Byron (thi hào lãng mạn Anh Quốc). Nhưng Tô Mạn Thù không thể sống trọn cái nghiệp Byron, ấy có vì từ thuở sơ sinh, chàng đã quá lạc loài rũ rượi, rồi chàng lại bị cái tiếng gọi âm thầm của Như Lai chi phối, khiến chàng suốt kiếp luẩn quẩn, tìm không ra lối bước, đường tiến, nẻo lui. Hai dòng máu ở trong mình, hai thời đại của lịch sử, xô con người vào một cõi cô độc dị thường- đó là chỗ cốt yếu trong cuốn truyện của Tô Tử Cốc. Cuốn truyện hẳn nhiên không tất nhiên phải là tiểu sử, nhưng nó phản ánh cuộc sống nội tâm của tác giả và của một lớp người trong buổi giao thời riêng biệt.

Bùi Giáng

 

 

NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY
Hay là chuyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly

Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu?Tên họ là gì? 
Đã sinh cùng nước cùng thì 
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ…

TẢN ĐÀ 

Gia suona mattutino, lento, lento,
Ritorno a casa e non veggo la via 
Gli occhi lasciai teco e il sentimento! 
E ne portai conme la gelosia.

(Đã nghe vang động chuông mai
Lễ là kỳ đảo, hội là cưỡng câu 
Tôi về nhà cửa sương thâu 
Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường 
Bên chàng, thiếp đặt tình thương 
Mắt mi môi miệng máu hường bình sinh 
Còn riêng mang mãi bên mình 
Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi
…) 

FRANCESCO PETRARCA- Canzoniere 

CHƯƠNG MỘT
Tại Bách Việt, về phía Nam bờ biển, có dãy Kim Nhân Sơn nguy nga dựng sững. Những lúc trời quang mây tạnh, ta có thể nhận thấy phía bên dưới sườn núi xanh um (tại chân núi) ẩn ẩn hiện hiện một mái ngói hồng lóng lánh, lập lòe như lớp vảy con kình ngư. Đó là ngôi chùa Hải Vân, vẫn còn nguyên như thuở xưa, cái ngày nhà Tống sụp đổ, Lục Tú Phù cõng vị ấu chúa chạy tỵ nạn, tới bước đường cùng, tiên sinh đã cùng ấu chúa tự sát tuẫn quốc tại Nhai Sơn, để trọn đạo hiếu trung, hơn là lọt vào tay cường địch hung bạo. Một số di thần triều Tống cũng đã tới đó ẩn thân độn tích, cạo đầu đi tu. Ngày đêm hướng lên trời xanh cầu nguyện, mong mỏi Thương hiệu phò trì vong linh của Đại Hành Hoàng đế. 
Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa. Và thỉnh thoảng tiếng sóng vỗ bi thống còn khiến lữ khách ngậm ngùi, cúi đầu lặng lẽ, không dám gợi lại những bóng ma não nùng của quá khứ. 
Ngày nay, tôi ghi chép lại những “bảo võng kim tàng” của ngôi chùa cổ. Thảy thảy còn là những cựu vật chứng giám một thời. Đây một mặt hồ tĩnh lặng, kia một dòng suối quanh co… dưới bóng tùng bách xanh um. Mấy chục nhà sư trụ trì tại đó, còn giữ gìn những phong thái nghi lễ ngày xưa. Năm về, năm lại, qua mỗi một mùa đông truyền giới, y bát vô thanh, khách viễn phương về thụ giới mỗi mùa trong cảnh tịch mịch. Khách về thưa thớt lắm, ấy bởi vì đường núi hiểm trở, đèo dốc khi khu. 
Một buổi mai, tiếng chuông chùa từ từ ngân, tôi tựa lưng bên góc chùa tĩnh mịch, nhìn những đàn hải âu bay lượn thấp thoáng ở chân trời. Thời tiết lạnh lẽo giữa mùa đông. Ngọn gió biển như bức bách con người ta, tự bên ngoài ngàn dặm (hải phong bức nhân ư thiên lý chi ngoại). Độc giả hiểu cho: đó là ngày tam giới hoàn tất của tôi. Tính ra, cuộc cư lưu của tôi tại chùa, hốt nhiên đã ba tuần viên mãn, hôm nay ngày tôi có thể xuống núi trình diện với phương trượng. Sau đó, ngày ngày quét lá, đêm đêm đốt hương, độ quá lưu niên, có gì đâu mà ân hận! 
Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ “Ai cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa bé không mẹ?” 
– Không. Không thể như vậy được. 
Kể từ ngày dưỡng phụ từ trần, tôi một thân một mình không còn họ hàng nhìn mặt. Nhưng mỗi lần gió lay đầu cây ngọn cỏ, hoặc mỗi phen mưa trút liên miên, hoặc trong cảnh cuồng phong bạo vũ, hoặc trong cảnh vạn vật im lìm, tôi vẫn dường như nghe thoang thoảng bên tai tiếng kêu gọi của từ mẫu. Nhưng âm thanh đó khởi từ đâu lại? Ấy là điều tôi không rõ. Nhưng lòng tôi vẫn hằng hằng ôm ấp cái ý tưởng ấy. 
Tôi lại thở dài tự nhủ “Mẹ sinh con ra đời, sao chẳng cho con được gặp mặt một lần? Mẹ có biết đứa con tôi thân thế phiêu linh cùng cực thế này chăng?” 
Lúc bấy giờ sóng biển rì rào từng đợt lấp lánh ngoài khơi, quang cảnh đẹp dị thường. Tôi khoác áo cà sa lên thân thể, cùng ba mươi sáu vị đồng giới, tay cầm nén hương, lũ lượt nối gót nhau bước đi. Lúc lên tới đại điện, bọn chúng tôi phân tán ra hai bên tả hữu, đứng im phăng phắc như những con nhạn ngày xưa trong cổ lục phương môn. Các vị trưởng lão ở bốn phía núi non lân cận, cũng đã tề tựu đông đủ. Đốt hương tụng niệm xong, tứ bề im phăng phắc. 
Một lát sau, vị sư cao đạo cất giọng bi khẩn tụng rằng: 
Cầu giới hành nhân
Hướng thiên tam bái 
Dĩ báo phụ mẫu dưỡng dục chi ân.

Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi. 
Buổi lễ hoàn tất, các vị trưởng lão lần lượt tới bên chúng tôi, mở lời khuyên miễn an ủi mà rằng: 
Thiện tai đại đức!
Tuệ căn thâm hậu, 
Nguyện lực trang nghiêm 
Thử khứ cẩn thị thân sư, 
Dị nhựt Linh Sơn hội thượng. 
Niêm hoa tương tiếu

(Đức lớn tốt thay!
Lành thay đức lớn! 
Tuệ căn sâu dày, 
Nguyện lực trang nghiêm 
Lần này đi phụng bồi sư trưởng 
Tới ngày sau tụ hội linh Sơn 
Sẽ cầm nhánh hoa 
Nhìn nhau mỉm cười một nụ)

Tôi lặng nghe âm thanh tụng niệm ấy chan chứa lòng từ bi ai mẫn, tôi đảnh lễ thụ điệp (đón nhận Phật kinh) gạt lệ mà bái từ các vị trưởng lão, rồi chậm rãi xuống núi. 
Hai bên đường cây cối trơ trụi xác xơ, lá cành rụng hết. Cảnh tượng thật là tiêu điều. Chỉ thấy vài ông tiều phu hiện ra rồi mất dạng. Ai có rõ rằng kẻ xa lánh bụi đời, quy y cửa Phật, vẫn còn mang những đau xót không lời! 

 

 

CHƯƠNG HAI
Tôi đã từ giã Hải Vân tự, và bây giờ cư lưu tại một căn nhà ở chốn hoang thôn tịnh mịch. Ngoài việc chăm lo phụng thừa nhu cầu sư trưởng, hằng ngày tôi lãng phí thời gian trong những trận nhớ nhung xa vắng, nửa tỉnh nửa mê, thần hồn theo nước mắt mà tràn ra không ngớt. Sư trưởng của tôi, nhận thấy tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian. 
Một ngày nọ, tôi tuân mệnh sư trưởng, xuống thôn làng khất mễ (xin gạo), được hơn mười cân, lẽo đẽo mang đi dọc đường. Đang suy nghĩ tìm chốn trọ lại ban đêm, chợt có kẻ trộm cướp từ xa tới, chộp cái túi vải đựng gạo và chạy mất, Tôi chỉ đành than dài một tiếng. 
Lúc bấy giờ trời nhá nhem tối. Tôi một mình bước đi vất vơ vất vưởng. Lại lạc lối thế nào ra tận bãi biển, và không tìm được đường về. Tôi bồi hồi quanh quẩn khá lâu, tới một cồn cát nọ, ngồi nghỉ chân giây lát. Sóng biển bỗng nổi dậy thật hãi hùng, nhìn bốn bề chỉ thấy âm u dằng dặc. 
Đương giữa lúc hoang mang như thế, chợt thấy một đốm lửa li ti ở ngoài khơi lập lòe như một hạt đậu. Biết rằng đó là ngọn đèn của một chiếc thuyền đánh cá, bèn cất tiếng gọi: 
– Xin ông chài ghé vào đây, cho tôi sang bờ bên kia với. 
Sau tiếng gọi, thấy đốm lửa lớn ra dần dần,tôi biết rằng ông chài cá đã đáp ứng, và đang tiến lại gần. Lòng tôi cũng cảm thấy an ủi đặc biệt. Chẳng bao lâu, chiếc ghe đã cập bến. Ông chài cất tiếng hỏi: 
– Muốn đi tới đâu? 
Tôi đáp: 
– Tôi chỉ là một nhà sư tại Ba La thôn đi khất thực suốt ngày, lạc lối ra đây. Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy. 
Ông chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng: 
– Úi chà! Ăn nói gì như thế! Thật là bất thông! Ghe của người ta là cốt đi đánh cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói! 
Nói xong quay quả chèo ghe đi tuốt. Tôi chẳng còn biết nghĩ gì ra gì được nữa, phiền muộn ngồi khóc một mình. Chợt vẳng nghe một tiếng chó sủa ở xa xa. Tôi biết thế là quanh quất vùng này còn có thôn làng thang lan đâu đó. Bèn đứng dậy, men lối theo đường cỏ mọc mà đi. Dần dà thấy hiện ra ở tiền diện một ngôi cổ miếu. Tôi vội vã tiến lên. Giữa ngôi cổ miếu, có treo một chiếc đèn leo lét. Tôi bước vào. Luẩn quẩn một lúc, nằm xuống bên bậc đá, khoanh thân lại nghỉ. Chợt nghe tiếng chân đi bên ngoài cửa miếu. Tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, đứng lên, thì thấy một đứa bé lăng xăng vội vã bước vào. 
Tôi hỏi: 
– Em bé đi đâu đó? 
Chú bé hai tay cầm mấy cái giỏ tre đưa ra mà rằng: 
– Công việc của cháu nhọc nhằn lắm. Đêm đã khuya thế này, cháu vẫn phải len lỏi bên những tường xiêu vách nát, hoặc lọ mọ giữa những hang đá âm u, hoa cỏ um tùm, trông cháu giống một tên ăn trộm vậy, cốt để bắt lấy những con dế kêu ri rỉ này đây. Thật là khổ nhọc lắm. 
– Trông em bé mặt mày tuấn tú sao phải đi làm cái việc hèn mọn thế? 
Đứa bé than một tiếng đáp rằng: 
– Gia đình cháu vốn có một vườn hoa. Ban ngày cháu gánh hoa đem bán cho nhà giàu có. Người giàu keo kiệt quá, nên chẳng kiếm được bao lăm tiền; chẳng đủ để nuôi dưỡng mẹ. Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già. Công việc bắt dế này thật là cực nhọc, nhưng phải gắng làm phụ thêm, kiếm thêm được đồng nào, hay đồng ấy. Nhưng mẹ cháu quả thật chẳng có ngờ rằng cháu làm việc này. Nếu biết, ắt bà không cho làm. Bà sẽ ngăn trở. Hôm trước, cháu có thấy bên góc miếu này một con dế bự, cỡi trên lưng một con rết ngất ngưởng bò đi. Cháu tới đây rình mò đã hai đêm, mà chưa chộp được nó. Nếu ông trời xanh run rủi cho nó lọt vào được trong tay cháu, thì thật là vạn hạnh! Vạn phúc! Chờ tới ngày chợ phiên, cháu đem ra bán, ắt được giá cao lắm. Thì cháu sẽ mua cho mẹ một tấm áo da cừu, mùa đông mặc vào thì ấm áp cũng như ở giữa mùa xuân vậy. Còn gì thích cho bằng. Cháu đâu phải như những kẻ ham kiếm tiền, bất kể tính mệnh xông pha đêm hôm thế này đâu! 
Nghe đứa bé nói thế, tôi lại bồi hồi xúc động, nước mắt lại tuôn ra. 
Đứa bé nhìn tôi, thấy đầu tôi cạo trọc, thì nó chậm rãi hỏi tiếp: 
– Dạ dám xin hỏi đại sư vì lẽ chi mà ngủ đêm tại chốn hoang liêu trống trải này? 
Nhìn thấy đứa bé mặt mày chân thành trang trọng, tôi bèn đem hết đầu đuôi cơ sự kể cho nó nghe. 
Đứa bé cảm động nói: 
– Thầy chịu khổ nhiều thật! Nhà cháu ở gần đây còn phòng bỏ không. Cháu xin mời thầy theo cháu về nhà. Nếu thầy cứ ở đây, thì biết đâu bọn người hung ác trong thôn vắng lại chẳng vu cáo cho thầy cái tội trộm cắp, thì thầy chịu đựng sao nổi! 
Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi tới một căn nhà lá. Đứa bé đẩy cửa bước vào, rồi khép ngay lại, để tôi đứng chờ ở dưới hiên. Vườn hoa bốn bề đưa hương thơm. Chợt nghe tiếng bà lão thốt: 
– Triều Nhi! Hôm nay sao con về khuya thế? 
Tôi lắng nghe chăm chú. Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Giọng nói của bà lão ấy. 
Lúc tôi bước vào nhà trong, thì bỗng dưng thấy trước mặt mình đích thị là người vú nuôi tôi ngày trước. 

 

 

CHƯƠNG BA
Tôi chào hỏi người vú nuôi, lòng đầy bi thương và hoan hỉ. Bao nhiêu ân tình mừng mừng tủi tủi. Bà vú bảo tôi ngồi xuống, bắt tôi đem hết sự tình kể lại đầu đuôi. Tôi đã làm gì, tôi đã trải qua những gì, nhất nhất đem gót đầu ra thuật lại tỉ mỉ. Bà đăm đăm nhìn tôi. Bà chống tay vào gò má nhăn nheo, suy nghĩ lâu lắm, rồi ảo não thở dài nói: 
– Tội quá! Tam Lang! Nếu ngày nay tôi còn ở với gia đình cậu, thì đâu đến nỗi cậu phải cạo đầu đi tu như thế! Tôi đã hầu hạ phu nhân không quá ba năm trời. Thời gian ấy kể cũng không dài chi lắm, nhưng phu nhân đã đối đãi với tôi hết lòng hiền từ thân ái. Một phen từ biệt phu nhân, đến nay đã ròng rã mười năm trời, nhưng cứ mỗi lần cầm đũa, bưng cơm, tôi chẳng thể nào quên được tấm lòng phu nhân đối với tôi. Lúc phu nhân rời gót ra đi, tôi liền bị người trong gia đình cậu ghét bỏ, đối xử tàn ác, nhưng tôi vẫn ẩn nhẫn chịu đựng. Ấy bởi vì tôi cảm ân đức của phu nhân, nên tôi chẳng thể nào bỏ cậu mà ra đi. Cho tới lúc nghĩa phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ: “Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa”. Tôi muốn viết thư cho phu nhân, báo bạch hết mọi sự cho phu nhân rõ, để phu nhân sớm liệu xếp đặt cho cậu về gấp bên quê mẹ (bên Nhật Bản) rời hẳn cái con mẹ ghẻ chèng đét hung dữ kia! Dè đâu con mẹ đàn bà đa đoan ác độc nọ lại dò la manh mối, đánh hơi thế nào mà đoán đước cái nguyện vọng của tôi, mụ ta nộ khí xung thiên, lôi cổ tôi ra, lấy roi tre đánh tôi một trận bầm mình dập mẩy. Lúc bấy giờ tôi cũng chẳng thiết chi cái chuyện phân giải thị phi, lời hơn lẽ thiệt gì về nhân đạo với mụ ấy! Mụ tha hồ đánh tôi sướng tay thỏa dạ xong, thì đuổi tôi đi về quê, không cho tôi nấn ná một ngày nào nữa. 
Bà vú kể tới đó, thì nước mắt giàn giụa, không tiếp được lời nào nữa. Lòng tôi đau đớn cùng cực, chẳng còn biết lựa lời gì để an ủi bà. Chỉ biết để nước mắt trào ra như suối, nhìn bà không nói được một lời nào cả. Rồi tôi chợt nghĩ rằng cái ngày phải chịu đựng trận bạc đãi bạo ngược kia, bà vú nuôi tôi đã quá bốn mươi tuổi, thì làm sao kham! Tôi cố gắng hết sức làm ra vẻ trấn định, an ủi bà ta: “Vú đừng đau xót nữa! Vú đã nuôi nấng tôi, ngày nay tôi đã thành lập, ân ấy đức ấy, làm sao tìm ra lời mà bày giãi. Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân. Nếu không ắt là đi khắp bích lạc hoàng tuyền cũng không mong được một ngày gặp gỡ. Gẫm ra trời xanh dường cũng linh thiêng lắm. Từ ngày còn nhỏ dại, tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng mẹ tôi còn sống. Nhưng suy gẫm trăm lần, vẫn không biết hiện giờ thân mẫu sống tại đâu, mà cũng chẳng biết tên họ của mẹ là gì! Bữa nay, nghe vú nuôi nói về “phu nhân”, thì đó có thật là bà mẹ đã sinh tôi ra đời hay không? Thì vì lẽ gì thân mẫu lại bỏ tôi bơ vơ khốn khổ, chẳng tìm kiếm hỏi han gì hết? Xin vú nuôi hãy đem thân thế tôi nói cho tôi rõ một lần. 
Bà vú nuôi gạt lệ, nhìn tôi mà rằng: 
– Tam Lang hãy yên dạ! Tôi đem mọi sự kể hết cho Tam Lang nghe. Tôi vốn ngày xưa là con gái người nông dân cư lưu tại vùng này, năm năm tháng tháng chỉ biết chăn nuôi súc vật. Sau  khi lấy chồng, tôi theo chồng làm ăn, ban ngày ra làm ngoài đồng, tối đến thì về nhà nghỉ ngơi. Vợ chồng sống hạnh phúc hết sức. Tôi đâu biết rằng trong nhân gian có đủ thứ đen trắng thị phi, rủi may may rủi. Vợ chồng nông dân, sống hồn nhiên như nước chảy, năm qua. Tới lúc tôi ba mươi tuổi, chồng tôi chẳng may đoản mệnh chết mất. Chẳng để lại chút gia sản nào, ngoài đứa bé con là Triều Nhi. Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn tình nghĩa gì hết. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu nỗi đời éo le, trong lòng buồn rầu khôn tả. Nhìn bốn bề chẳng còn ai thân thích, tình cảnh khốn cùng chẳng biết nói với ai. 
Một ngày kia, tôi mang giỏ đi mót những bông lúa rơi ngoài ruộng, bỗng thấy một phu nhân y phục theo lối cổ kính, thong dong bước tới bên tôi cất tiếng hỏi: 
– Trông thím có vẻ ưu khổ lắm phải không? 
Rồi bà ấy hỏi thăm cảnh huống tôi. Tôi đem hết gót đầu ra kể cho bà ấy nghe, thì phu nhân lân cảm tình cảnh tôi. Tôi đội ơn phu nhân. Phu nhân cho tôi về làm vú nuôi săn sóc Tam Lang đó. Phu nhân y phục cắt theo lối cổ đại Trung Hoa chúng ta. Những sự này, tôi được nghe ra là từ lúc về ở với phu nhân. “Tam Lang” tức là tên gọi cậu do phu nhân đặt cho đấy. 
Được nghe phu nhân nói rằng lúc sinh cậu ra chưa được mấy tháng thì thân phụ cậu qua đời. Thân phụ cậu là Tông Lang, vốn thuộc danh tộc ở Giang Hộ. Bình sinh thân phụ cậu can đảm cương trực lắm, nên mọi người mến chuộng. Thân phụ cậu qua đời, mẹ cậu càng ngày càng nhận thấy phong hóa Nhật Bản suy đồi, dần dà phong tục càng trở nên kiêu ly bạc bẽo, trong lòng bà suy gẫm muốn đưa cậu về cội gốc thượng quốc Trung Hoa, bèn dắt cậu về quê nội, đem ủy thác cậu cho một người bạn thân thiết nhất của cha cậu. Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con nuôi của người ấy. Ý của phu nhân là làm sao cho cậu dứt tuyệt hết mọi liên hệ với căn tính cư dân hải đảo (người Nhật) hy vọng rằng sự giáo hóa ở quê cha sẽ rèn luyện cậu mai sau trở thành một con rồng ở trong nhân gian. Phu nhân vốn biết rằng hành động đó là  đắc tội với quốc luật Nhật Bản, quê cha đất tổ của bà, nhưng tình mẹ thương con, có sự gì mà chẳng dám làm được! 
Phu nhân thân hành ẵm cậu đi, lén trốn sang Trung Hoa chúng ta, cư ngụ ba năm trời. Chợt một hôm phu nhân gọi tôi tới bên bà và bảo tôi như thế này: 
– Ngày nay tôi sắp quay trỏ về Nhật Bản! Thím ở lại mạnh giỏi nhé! 
Rồi phu nhân đưa tay chỉ Tam Lang, nuốt lệ nghẹn ngào bảo tôi: “Đứa con tôi sinh ra đời không may mắn! Thím hãy chịu khó săn sóc nuôi dưỡng nó, tôi sẽ chẳng quên công lao khó nhọc của thím đâu!” 
Nói xong, phu nhân viết địa chỉ mình ra giấy giao cho tôi, căn dặn tôi đừng có để thất lạc. Tới ngày nay, tôi vẫn cẩn thận giữ gìn kỹ càng trong cái hộp tre kia. 
Lúc bây giờ, tôi khóc tầm tã như mưa. Phu nhân giao cho tôi một trăm đồng vàng. Ngày nay số bạc ấy tuy nhiên không còn đồng nào, nhưng lòng tôi cảm kích phu nhân thật không hề giảm một chút. Nhất là tôi nhớ lại cái đêm trước ngày phu nhân ra đi. Phu nhân gài một tấm ảnh nho nhỏ của mình vào cái lon dẹp đặt vào trong cái rương áo quần của cậu, bà mong rằng ngày sau cậu lớn lên, cậu sẽ không quên được dung nghi từ mẫu. Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động. Đâu có ai ngờ rằng phu nhân ra đi chưa bao lâu, thì người trong gia đình đã tìm kiếm mọi vật đó và hủy khử đi mất hết. 
Sau đó phu nhân từ bên Nhật Bản còn viết thư cho tôi ba lần, lần nào cũng gửi tiền bạc cho tôi, nhưng lần nào cũng bị con mẹ tàn nhẫn kia thu đoạt mất cả. Rồi nhân vì tôi hiểu rõ thân thế phu nhân, lại yêu quý Tam Lang, thì con mẹ kia càng căm hận tôi hơn nữa, vì mụ nghĩ rằng tôi cố ý làm ra vẻ như thế, tôi cố tỏ thái độ ra như thế là cốt để càng thể hiện rõ cái phẩm cách tàn ngược của mụ ta! Do đó, cái niềm oán độc của mụ ta càng sâu cay hơn nữa. Quả thật con người ta và con mãnh thú, chỉ cách nhau có một đường chỉ mỏng mà thôi! Lúc tôi đã bị đuổi đi rồi, thì con mẹ kia lại phao tin lên rằng phu nhân đã gặp bão tố ngoài khơi, đã chết trong bụng cá mập cá voi rồi. Do đó, bà con thân thích láng giềng, ai ai cũng coi cậu như là một đứa con không mẹ, chẳng ai thèm để ý chi tới cậu nữa. Xét ra như thế, thì trong gan phổi con mẹ kia, mụ ta quả có ý muốn phòng ngừa ngày sau cậu lớn lên khỏi có ý nghĩ tìm về thăm viếng phu nhân! Hỡi ôi! Mụ ta là cái giống người gì như thế! Đã giữ lấy con của kẻ khác lại còn đối xử tàn bạo như vậy! Tôi suy gẫm hoài mà chẳng thể nào hiểu được mụ ta, chẳng rõ kiếp trước mụ ta là cái giống độc vật gì gì! Trời Phật ôi! Tôi há đâu chỉ vì oán độc kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi. 
Nghĩa phụ của cậu vốn là người thành thực, thường vẫn thể niệm cái ân nghĩa của thân phụ cậu đối với ông ta, nên nghĩa phụ của cậu thuở sinh thời vốn đối xử với cậu như con ruột. Ai có ngờ đâu được rằng ông ta vừa qua đời thì con mẹ kia đã lập tức trở mặt đối với cậu như thế. Một đứa bé chưa ráo máu đầu, còn thuần nhiên thơ dại, đã chịu dày vò khắc nghiệt như vậy, quả thật không có gì so sánh được. Nhưng ngày nay cậu đã lớn ra như thế, phong tư độc lập như thế, cũng coi như là bấy nay không gặp rủi ro chi nhiều; tôi thì già nua rồi, đáng lẽ chẳng nên đem những chuyện oái ăm quá khứ ra làm phiền muộn cậu, chẳng nên thốt những lời cay đắng, mà nên  giữ chút lòng trung hậu thì phải hơn. Tuy nhiên trong thời buổi đa đoan kỳ quặc này, dẫu tôi có nhất mực giữ lòng trung hậu của mình, mà người ta thì cứ nhất mực muốn hãm hại tôi. Theo cái lẽ bi đát như thế, thế tình thế thái đã ra như thế nghĩ thật cũng đáng ngậm ngùi. 
Bà vú nói xong, thì cúi đầu thở dài. Một lát sau, bà định nói tiếp nữa. Lúc bấy giờ lòng tôi tràn đầy sầu khổ, lớp lớp liên miên (như vân quỷ ba quyệt). Nhưng nhân vì tôi đã dò ra tin tức mẫu thân, chẳng còn mong muốn hỏi thêm chi nhiều nữa về những sự việc đã qua, và cũng chẳng còn thì giờ đâu để tự cảm thương thân thế, tôi bèn chậm rãi nói với bà vú nuôi: 
– Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi. Tôi sẽ đơn thân ra đi tìm mẹ, mong rằng vú đừng bi thương quá độ. Sự đời ai biết đâu mà liệu định, vú hãy thử nhìn tôi và Triều Nhi xem, chúng tôi biết đâu lại chẳng làm nên danh phận? Chẳng lẽ mòn đời mỏi kiếp vẫn chẳng ra cái dạng gì gì cả hay sao? 
Bà vú bỗng ngẩng đầu lên, đưa tay vỗ vào vai tôi nói: 
– Tội thay! Vú thật chẳng thể ngờ rằng Tam Lang lớn lên lại mảnh khảnh đến thế! Hãy gắng ngủ cho ngon giấc đêm nay, lưu trú tại đây mà liệu tính công việc đi sang Nhật Bản thăm viếng phu nhân. Tôi thường mộng thấy phu nhân vận y phục cổ kính ngày xưa đứng bàng hoàng trên bờ Đông Hải, đưa mắt mong ngóng Tam Lang về. Tam Lang ạ, cậu còn có một người chị và một người em gái nuôi (nghĩa muội), hai chị em vẫn ở bên phu nhân săn sóc mẹ. Cậu rồi cũng sẽ được nghe âm thanh phu nhân gọi cậu. Còn tôi thân thể đã già nua, chỉ còn chờ ngày vào quan tài, chẳng còn mong chi tái hội phu nhân. Chỉ cầu nguyện trời xanh phù hộ cho phu nhân mà thôi! 
Sáng hôm sau, ánh trời rực rỡ. Tôi nghĩ tới những sự việc đã qua, còn in rành rành trong tâm khảm. Độc giả thử nghĩ xem, làm sao tôi có thể ngủ được trong đêm vừa rồi? Lúc bấy giờ nỗi niềm bời bời cùng độ, tôi đứng dậy khoác áo vào mình, bước ra ngoài nhìn bốn phía. Dương liễu gầy khô, núi non tiêu điều. 
Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở. Những u hận vạn ngàn, chẳng rõ ra sao, đã dần dà tiêu tán giữa những trận gió mưa vi vu thổi vào chiều hôm.

 

 

CHƯƠNG BỐN
Một ngày kia, vào lúc hoàng hôn, giữa cảnh hoang liêu gió tuyết thổi lạnh thấu xương, tôi cùng Triều Nhi đang lẽo đẽo từ phía sau núi gang củi quay về nhà. Vừa bước vào cửa, nhìn thấy vú nuôi đang tựa lưng bên lò bếp, ngồi im lìm. Bà đang chăm chỉ khâu vá lại một chiếc áo cũ. Nghe tiếng chân tôi bước vào, bà ngẩng đầu nhìn tôi nói: 
– Khổ nhọc cho cậu quá! Thấy cậu yên vui sống ở đây, lòng tôi cũng thư thái an ủi được nhiều. Cậu và Triều Nhi hãy ngồi nghỉ ngơi một chặp, để tôi thắp đèn và đem cơm cá ra dùng. Nhà chúng ta ở đây cách hồ nước không bao xa, cá tôm chẳng những tươi ngon lắm, mà giá mua cũng chẳng cao gì đó. Sống ở làng thôn, thật nhiều điều tiện lợi hơn thành thị. 
Tôi và Triều Nhi liền cởi tơi nón ra, cùng vú nuôi ngồi vào dùng bữa tối. Thật là hoan lạc vô cùng. Dùng cơm xong, vú nuôi quay nhìn tôi bảo: 
– Hôm nay nhìn Tam Lang gánh củi, lòng tôi thấy bất nhẫn quá. Thân thể cậu ốm yếu như thế! Bữa sau chớ nên  gánh củi nữa. Công việc vất vả nặng nhọc kia, Triều Nhi đủ sức giúp được rồi. Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao nhiêu hoa nở tươi tốt lắm.. Ngày nay chúng ta đang ở giữa mùa đông, chẳng còn bao ngày tháng nữa, thì năm mới về, cậu mang hoa ra chợ bán mỗi buổi sáng sớm. Ban ngày cậu cũng có thể coi sóc nhà cửa vườn tược cho tôi. Lợi lãi do hoa cỏ đem lại, tuy chẳng là bao, nhưng tôi vẫn gom góp dành dụm đủ tiền cho cậu. Sau hai năm hoặc ba năm, ắt là có đủ tiền lộ phí cho cậu đi qua Nhật Bản một chuyến thăm phu nhân. Ngoài cách ấy ra chẳng còn cách gì khác. Tam Lang, ý cậu nghĩ như thế nào? 
Tôi đáp: 
– Mọi sự xin y theo lời vú nuôi hết thảy. 
Vú nuôi bảo: 
– Tam Lang! Cha ông của Tam Lang tại Giang Hộ vốn xưa kia là những vị công tử (con cái của những bậc công hầu). Ra ngoài thì ngựa béo hào hoa, áo khinh cầu phong nhã. Mà ngày nay cậu phải làm một kẻ bán hoa cỏ, thật là sự việc quái gở. Tuy nhiên, ngày sau cậu về Nhật Bản, cậu vẫn là một vị công tử ngàn vàng, thì ai còn dám kêu cậu là kẻ bán cỏ lá hoa? 
Tôi chăm chỉ lắng nghe, đưa mắt nhìn vú nuôi. Thấy bà nói tới đó thì tươi cười ấm áp như xuân. 
Ngày tháng thoi đưa. Bỗng chốc đã thấy xuân về. Từ đó tôi tuân theo lời vú nuôi, ngày ngày mỗi sáng sớm tôi vận y phục lai rai vào, nham nhở như đứa chăn bò, mang hoa đi bán. Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá – cốt để không ai nhận ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy. Tôi lẽo đẽo bước đi, trong lòng lấy làm xấu hổ cho thân phận. Thấy phần đông những kẻ mua hoa là những thiếu nữ. Rồi đến những đàn bà trong làng xóm. Mỗi ngày tính ra tôi thâu được vài ba trăm xu. Suốt một tháng trời đều đặn như thế. 
Một ngày kia, tôi đang một mình bước đi sang thôn làng nọ, thì trời bỗng nhiên u ám, mưa phùn lất phất rớt hột miên man, thấm ướt hết áo quần. Đó là ngày trước tiết thanh minh hai hôm, và nhà nào nhà nấy đang sửa soạn lễ Tảo mộ, nên đường đi vắng ngắt chẳng thấy bóng người nào. Chỉ nghe liên miên âm thanh dằng dặc của mưa phùn rớt hột li ti tí tách sầu não sát nhân mà thôi. Tôi len lỏi lần mò bước đi trên con đường mòn mỏi, tới một góc nhà nọ, dừng chân tạm nghỉ ngơi giây lát dưới một cây liễu nhỏ. 
Chợt thoáng thấy trên bờ tường trước mặt phía sau tấm màn lụa bích một song cửa sổ, có một nữ lang ăn vận mới mẻ đang đứng đăm chiêu nhìn ra đường. Thật là một nữ lang dung hoa tuyệt diễm. Nhưng mặt ngọc của giai nhân mang vẻ trang nghiêm biểu hiện một mối sầu khôn tả. Lúc tôi đưa mắt nhìn kỹ, thì bóng hồng chợt lẩn mất. 
Cơn mưa chợt tạnh hẳn, trời bỗng sáng sủa xanh lơ. Màu cỏ cây  biêng biếc trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái. Thẹn thuồng mà rằng: 
– Xin tha thứ tội thất lễ của nô tỳ! Dám xin hỏi công tử từ đâu tới đây? Con cái dòng dõi nào? Tuổi niên hoa như thế, vì lẽ chi phải chịu làm cái nghề hèn mọn đó? Công tử há chẳng biết rằng thiều quang trôi qua, hối hận không kịp nữa? Xin hãy đáp cặn kẽ cho nô tỳ rõ. 
Nghe cô gái nói mấy lời kia, tôi biết rằng cô ấy thật là người thông minh rất mực, chẳng có chi giống người quê mùa cục mịch. Nhưng vì lẽ gì mà đường đột bàn vấn như thế, nghe ra y hệt như lời một  tướng sĩ đoán vận mệnh nhà ma! Cô chỉ có ý thăm dò hành vi của tôi, hay là còn có duyên do gì khác nữa? Tôi chỉ còn biết đứng lỳ ra đó, đăm  đăm nhìn cô gái, lòng rất bối rối, chẳng rõ phải đối đáp thế nào ra câu. 
Sau một lúc khá lâu, cô gái nói tiếp: 
– Em sở dĩ đường đột hỏi như thế, ấy chẳng qua là tuân lệnh cô chủ ở trong nhà. Cô chủ bảo em ra hỏi công tử mấy lời đó. Cô chủ của em vốn bản chất tính tình u nhã tĩnh mịch vô cùng, chẳng hề có bao giờ mở miệng ăn nói gì với người ngoài. Nhưng hôm nay, lại sai em bàn vấn đề này, ấy bởi vì cô chủ em nghe thấy cái tiếng rao bán hoa cỏ của công tử chứa chất dư âm cay đắng xót xa thế nào đó. Hôm nay cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường. Mong rằng công tử đừng lấy làm quái lạ về ngôn ngữ đường đột của em, công tử có phải thuộc  dòng dõi “Hà Hợp” và tên là “Tam Lang” đó chăng? 
Bất thình lình nghe cô gái nói câu đó, tôi kinh hoàng tưởng như muốn co giò chạy trốn. Nhưng chợt nghĩ rằng cô gái kia chẳng hề có ý làm tổn hại tổn thương tôi gì cả, tôi bèn chậm  rãi bình tĩnh đáp rằng: 
– Thật đúng là tên của tôi đó. Tôi cần kiếm tiền đi gấp sang Nhật Bản tìm thăm viếng mẹ, nên bất đắc dĩ phải làm bừa công việc  này. Dám mong cô nương đừng tiết lộ sự đó với ai, thì tôi đội ơn cô không phải là ít! 
Cô gái nghiêng thân xá tôi một cái, nói tiếp: 
– Xin tuân lời dạy bảo! Công tử hãy trân trọng giữ mình! Và xin công tử sáng mai trở lại chỗ này. Bây giờ em xin quay vào báo với cô chủ của em. 
Lúc quay về nhà, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tâm sự, rầu rĩ cắm cúi bước đi.

 

 

CHƯƠNG NĂM
Ngày hôm sau, khi trời âm u nặng nề hơn cả ngày trước. Lúc tôi trở giấc dậy, cảm thấy tâm hồn bàng hoàng khôn tả. Vì sắp tới lúc phải tới hội ước với cô gái kia. Người đọc sách tới đây, ắt nghĩ rằng tôi đang bị vướng thân vào trong tấm lưới tình bối rối, và như vậy là đang lâm vào hiểm họa trở ngại cuộc thanh tĩnh pháp lưu. Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy. Kỳ thực, hằng ngày tôi vẫn tâm tư niệm tưởng: Mình là thuộc sa môn đạo pháp, thì sống vào cõi tục, dù sao cũng giữ gìn hạnh kiểm nết na, há đâu có hại gì mà lo sợ. Nào tôi đâu có ngờ tới những việc về sau! Tự thân tôi sẽ chịu những giày vò bứt rứt nào, tôi đâu ngờ ra được. Dần dà sẽ kể lại độc giả rõ đầu đuôi. 
Tôi bước ra khỏi nhà, chính lúc đó, lòng tôi trào dậy muôn loại hoang mang sầu muộn hồi hộp phập phồng. Thôn làng ven sông đang tế lễ Hàn thực, mưa gió phiêu hốt chan hòa khắp mọi ngả. Tôi đưa mắt nhìn bốn bề, lòng tôi xao xuyến một trận dị thường. Thầm nghĩ rằng cảnh vật u buồn ra như thế, quả thật chẳng là điềm lành. Rồi suy gẫm rằng cô tiểu thư kia ước định tương phùng như thế, ắt là có duyên do xa vời nào. Nếu không gì hết cả, thì sao có tiều thư lại từng rõ biết tính danh tên tuổi của tôi. 
Huống nữa là hôm qua chợt nhìn thấy mặt ngọc đầy vẻ đơn sơ thanh đạm trang nhã, phương dung tuyệt nhiên không có gì giống như những vẻ đẹp thông thường hấp dẫn! Há đâu có thể là một phường một loại với những dung hạ lưu nham nhở! 
Tôi vừa bước đi vừa suy gẫm, chẳng bao lâu đã tới chỗ đất đai hôm trước, ở bên dưới khung cửa sổ màn lụa xanh lơ. Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng thấy động tĩnh gì hết. 
Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ “chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý giỡn cợt chế giễu ta chăng”. Rồi nghĩ lại những lời cô đã thốt, thì thấy mỗi lời mỗi tiếng đều là lời chí tình, sao còn có thể hồ nghi gì cho được? 
Lúc mưa gió bắt đầu tạnh chút ít, cô gái hôm nọ chợt mở cửa ra, chẳng nói chẳng rằng, chẳng mỉm cười cười mỉm gì hết cả, lặng lẽ tới trước mặt tôi, và đưa hai tay ra với một phong thư nặng trĩu cả bàn tay. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vội vã bóc phong thư ra xem, thì thấy bao đầy vàng bạc. Lòng tôi hoang mang nghi hoặc, dòm kỹ thấy còn một tờ thư viết cho tôi. Hỡi ôi! Xem thư xong, tâm hồn tôi dao động xao xuyến dị thường, cõi lòng như tan nát. Thư viết thế này: 
Thiếp là Tuyết Mai, đem nước mắt hòa mực mà viết lá thư này trân trọng gởi Tam Lang.
Trước đây, em nghe người ta nói anh Tam Lang đã cạo đầu tóc mà đi tu, làm một ông tỳ kheo trong cửa Phật. Em vốn nghĩ rằng tính tình anh vốn kiên trì với cái cõi cô đơn (cô đơn là tính chất, chất hằng đơn cô) nên em tin ngay lời thiên hạ đồn đại. Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa! Gần đây, suốt mấy buổi mai, chợt nghe ra trong giọng rao bán cỏ hoa một âm thanh kỳ lạ em kinh hoàng nhận rõ đó là âm thanh dội từ đáy lòng tâm sự của anh Tam Lang. Ngày xưa thuở em còn bé, đã từng được hai bên gia đình hứa gả con cho nhau, em đã gặp anh một lần, thì cảnh trạng cho tới ngày nay em vẫn còn chôn chặt trong tâm khảm. Cho tới buổi sáng vừa rồi, đứng sau song cửa nhìn thấy anh, em biết rõ đó chính là Tam Lang của em. Lúc bấy giờ, em cảm thấy hồn bay bổng mất đi đâu. Em không còn hiểu gì ra gì được nữa. Lòng rộn ràng xao xuyến quá, liên tồn bất khả tự trì. Em muốn chạy thẳng ra trước mặt anh mà trần tình tâm sự nhưng danh nghĩa không cho phép. Nên đã sai tỳ nữ mạo muội bước ra bước ra hỏi han, khiến cho anh hoang mang như thế, em xin anh Tam Lang hãy thương em mà thứ lỗi cho.
Kể từ ngày mẹ em qua đời cho đến ngày nay, em sống linh đinh sầu khổ, chẳng thiết chi tới sinh thú ở đời. Người mẹ ghẻ chẳng chút ân đức nào cả, chỉ thấy lợi mà quên tình nghĩa, xúi giục người cha già nua của em hủy bỏ cuộc ước định đính hôn ngày trước đi, và hãy nghĩ tới chuyện đem gả em cho một kẻ khác. Hỡi ôi, Tam Lang! Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi. Ấy là vào cõi quyên sinh vậy. Thì em dẫu có thịt nát xương mòn đến ngàn vạn kiếp, trái tim của em vẫn chỉ biết có anh Tam Lang của em mà thôi. Trời xanh ở trên cao kia có đoái tưởng mà che chở cho em chăng trong những ngày điêu đứng này em cũng chẳng cần chi biết tới nữa.
Dè đâu hôm nay ngẫu nhiên run rủi em thấy mặt anh trở lại, mới hay rằng Tam Lang của em chưa đến nỗi nào. Cảm thấy lòng trời bao dong, Thượng đế hiền từ rất mực, thì lòng em vui mừng biết lấy gì cân hoặc đo ra cho đầy đủ. Than ôi! Vũ trụ mang mang càn khôn rộng rãi, doanh hoàn thế giới bao la, khắp mười phương quốc độ, nếu em bỏ anh, thì em còn biết bám vào ai được nữa! Dẫu rằng biển cạn đá mòn. Dẫu rằng sông dứt còn đàng tới lui… Hình hài xương xẩu của em có thể chỉ như là một sợi tơ mỏng manh, nhưng tình yêu trong máu của em thì thật là liên tồn bát ngát. Nay em xin biếu anh trăm đồng vàng gọi là chút quà mọn phụng trình, mong manh sớm mua vé đáp tàu về Nhật Bản viếng phu nhân và bàn bạc với phu nhân về cuộc tình duyên của chúng ta. Em đã trăm phen ngàn bận suy nghĩ về việc này, chỉ xin anh rủ lòng thương liên tồn chiếu cố. Em đang ở trong cảnh cư tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm đường dài”. 
Nay kính thư 
Tuyết Mai. 
Té ra hỡi ôi! Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy. Nhiên như thế thì tôi há đâu có thể bỏ rụng rơi nường được. Mà bỏ rụng nường để ôm gói cô độc đi đâu? Đi vào chùa mà bộc bạch với cửa “Không” về cái sự ngổ ngang của mình ra như thế! Như Lai ôi! Bồ Tát ôi! Con xin giũ áo tỳ kheo của con vậy. Như Lai Bồ Tát hãy thể niệm cái cõi lòng đó của con mà đừng có lôi cuốn con vào trong cửa “Không” để hành hạ giày vò con suốt tam sinh làm chi như thế ra chăng nhẽ!!! Rừng Tía mà chi!! Tử Trúc Lâm mà chi! Ăn nhằm vào đâu mà chi cho đáng chứ! Cả rừng cả rú, cả sơn thụ cả lâm tuyền. Con xin trút giũ thảy thảy hết trở lại cho Như Lai, để suốt một bình sinh đi theo dấu chân liên tồn của Tuyết Mai tiên nữ. Nếu con không làm như thế, thì oan nghiệt ngập trời còn ai có thể đảm đương giúp được cho con đó chăng ru? Suốt mười phương quốc độ, còn đâu không dội tiếng than van của một kẻ đã lầm đường còn liên tồn tiếp từng phen lạc lối? Độc giả ắt từng có phen nghĩ rằng tôi là đứa hồ đồ, mang áo cà sa vào mình giữa một bể hận mông mênh, trời tình bát ngát như thế thì đích thị tôi là đứa bất cận nhân tình nhân sự nhân vụ ở giữa cái khoảng nhân gian. Nhưng mà thật ra vốn từ xưa, tôi đã đành cạo trọc cái đầu khoác áo cà sa vào thân thể để đi tu, thì đó chẳng qua chỉ là một cái phương sách tình nghi đắc dĩ, miễn là khả dĩ bảo tồn được cho cái sinh mệnh Tuyết Mai đó mà thôi. 
Vì nên thử nghĩ rằng Tuyết Mai vốn nòi kỳ nữ miêu cương, ôn tồn bát nhã “cổ đức u quang, nghiêm dong cựu hạnh”. Tôi xin bây giờ nói cho độc giả rõ rằng là người cha Tuyết Mai vốn là bạn thân của nghĩa phụ tôi. Lúc nghĩa phụ tôi chưa lìa trần. Cha Tuyết Mai đã cùng nghĩa phụ tôi hứa gả Tuyết Mai cho tôi, từ cái thuở nàng còn liên tồn bé bỏng (sau này mới chậm rãi lớn rộng dần ra). 
Nhưng rồi về sau cha của nàng nhận thấy rằng gia đình nghĩa phụ tôi vận mệnh càng ngày sa sút, còn người mẹ tôi thị bặt vô âm tín; ông ấy mới nảy sanh ra niềm hối hận ăn năn, muốn hủy bỏ lời hứa hôn ngày trước. Nhưng nàng Tuyết Mai cao nhã huy hoàng ra như thế, há nhiên đâu có thể can tâm điềm nhiên phụ ước. Thế rồi cha nàng và mẹ ghẻ của nàng đều chẳng đoái hoài lân mẫn chi tới đứa con gái, cứ bừa bãi coi con gái chỉ như nhiên là một cái món đồ hàng hóa trao đổi bán buôn mà thôi. Liên tồn tình yêu? Cái đó đâu có nghĩa lý tí ti nào đối với những bậc phụ mẫu mẹ cha của con cái? Chỉ cần là làm sao bán món hàng cho được cao cái giá mà thôi. Trước cái sự thể nó ra như thế về cái uy quyền hà khắc kia của phụ mẫu, thì một cô con gái yếu đuối còn đâu chốn đâu nơi, đâu chỗ, mà đặt cái miệng vào thốt cái lời cho ra cái tiếng? Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn con mà thôi? 
Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng dạ nàng mà  thôi. Không thể bày tỏ được nỗi lòng với ai cả. Đó quả thật là điều người ta vốn bảo rằng: nỗi ai oán của những đứa con gái mồ côi kia, xét ra chỉ còn một cách là mang chở cái khối nặng xuống địa phủ để trình bày với phụ mẫu và Diêm Vương. Thì như thế còn yên vui sung sướng hơn là sống vật vờ ở dương gian kéo dây dưa cái cuộc đời nham nhở vậy. Điều đó, nếu không tự thân mình mẩy hình hài thể nghiệm, thì ắt chẳng thể nào hiểu được. 
Trong lúc đó, tôi lớn lên dần dần. Lâu ngày chẳng đặng cùng Tuyết Mai tương kiến. Chẳng có duyên cơ nào hội nào để chứng minh tình yêu trong linh hồn của nhau một phen nào cả. Nhiên như thế, một lần nhìn ra cái tình huống kia, thì lòng tôi phiền muộn không thể nguôi được. Âm thầm suy gẫm, xét ra chỉ còn có một lối xuất gia quy y cửa Phật là khả dĩ dập tắt ngọn lửa thiêng liêng trong máu me yêu đương của trái tim và hai lá phổi của hồng nhan mỹ lệ kêu gào. Và khiến cho giai nhân từ đó có thể yên tâm mà tìm ra hạnh phúc gia đình chắp nối với kẻ khác cái dây dưa dằng dặc. Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi, há có thể nào như thế được? Há chẳng nhận thấy sờ sờ rằng phụ mẫu của nàng tham lợi mà đâm ra ám trí óc, cam chịu để cho cốt nhục máu mủ mình tan rã theo bụi cỏ lá cây, hơn là đem mà gả cho một thằng người ngợm đói rét đười ươi là cái đứa tôi đây? 
Lúc bấy giờ tôi còn là đứa nhỏ tuổi khí thịnh máu hăng, xương xẩu dữ tợn, tôi đã quay đầu ngoảnh mặt mà đi, phiêu nhiên mà bước, tìm tới gõ cửa chùa Thường Tú tại Quang Châu, khẩn cầu Tán Sơ trưởng lão cho phép tôi nhập môn, và trưởng lão đã chấp thuận cho tôi vào làm “Biển Ô Sa Di”. Còn cô Tuyết Mai, thì tôi đã âm thầm phó thân phận bạc mệnh của nàng cho hồng ân. Như Lai Phạm Thiên Đế Thích, tha hồ Thích Ca xử trí nào ra sao thì mặc Thích ca ra nấy (ra thế). 
Những chương sách trên đây thuật lại nỗi niềm tưởng niệm thân mẫu lúc tôi ở tại chùa tức là sự tình nông nổi mấy tháng sau ngày tôi vào chùa vậy.

 

 

CHƯƠNG SÁU
Từ ngày nhận được lá thư của Tuyết Mai, tôi mới rõ lẽ rằng nường ấy đã tin yêu tôi một cách khôn hàn gay cấn thâm hậu vô song. Lúc bấy giờ linh hồn thể phách tâm đầu tôi dào dạt bừng sôi sục sục, tôi chẳng còn có thể định đoạt đường đi lối bước ra cái gì gì cả. Cũng chẳng nhận định ra đâu là vòi või bích lạc, đâu là âm y đen đủi hoàng tuyền. Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa đối với tôi? Bà vú nuôi tôi, tuổi tác đã ngoại năm mươi rồi, bà già nua như thế, nhưng vừa một phen nhìn thấy lá thư Tuyết Mai, đã cảm động như chính bà tự thân cảm thụ đoạn trường, nước mắt bà tuôn ra như mưa. Trong cảnh huống đó, tình trạng thần kinh tôi như thế nào độc giả có thể đoán ra được rồi vậy. Hẳn rằng mọi sự thế gian thiên hạ, do tình ái mà nảy sinh ra thì không sự nào mà chẳng éo le gây cấn. Vô luận sinh từ thấp, hóa, noãn, thai, bốn mặt. Nếu đã vì duyên do kia mà nhập vào cõi nhà ma sinh sinh diệt diệt, thật đó là một trạng huống bi thương. 
Bốn ngày sau lễ Thanh minh. Lúc tinh sương, ánh rạng đông chiếu vào cây cối, mùi hương hoa lá bốc lan tràn. Tôi từ biệt Triều Nhi và bà vú nuôi, bà vú vốn hối thúc tôi gấp gáp lên đường. Còn về phía Tuyết Mai, bà hứa sẽ dốc hết tâm lực mà phò trợ cô nàng. Tôi không biết nói lời chi để báo đền ân đức vú nuôi. Tôi chỉ giàn dụa nhìn bà. Rồi trích ra hai chục đồng vàng trong số bạc Tuyết Mai tặng tôi trao cho Triều Nhi để nó mua áo lông cừu cho mẹ. Cảm tình tôi đối với Triều Nhi thật sâu xa quá, đứa bé ấy tuy còn nhỏ tuổi, mà lòng hiếu thảo thật phi phàm. Đứng nhìn nhau thật lâu, lòng tôi chẳng nỡ chia tay cùng. Chợt quay đầu nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm… Bà vú nuôi chợt tới bên tôi nói: 
– Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ. 
Tôi ngậm ngùi từ biệt vú nuôi và Triều Nhi. 
Hai ngày sau tới Quảng Châu. Tôi bước lên bờ, thong dong cửa bộ. Tôi có ý định tìm thăm ông thầy cũ và từ biệt ông. Tôi nghĩ rằng chùa Thường Tú đã bị lớp người tân học bạo đồ đạo bỏ và lập đường xá phố thị. 
Chẳng còn chút gì lưu lại nữa. Pháp khí pháp cụ, thảy thảy tiêu ma hết cả rồi. Tôi nghĩ rằng thầy tôi lúc bấy giờ đã quay về tĩnh thất, tôi bèn đáp tàu đi Hương Giang ngay buổi xế nọ. 
Sáng hôm sau, tôi mặc y phục chỉnh tề, bước lên bờ liền hướng chân về phía nhà mục sư Robert. Vì mục sư ấy vốn người Tây Ban Nha. Mấy năm trước đã đưa vợ và cô con gái tới lưu trú tại Hương Giang. Ông vốn ít ra ngoài giao thiệp. Chỉ thích sưu tầm những đồ vật cổ kích và những kỳ hoa dị thảo mà thôi. Tôi vốn đặc biệt hâm mộ vị mục sư ấy: Thanh u tuyệt dục, ông ấy quả thật là một giáo sĩ cao đạo, lòng ông chẳng hề nuôi cái ý gì tai hại, ông không hề nghĩ tới việc chinh phục đất đai xứ sở của người ta. 
Do đó, tôi từng đã hân hoan theo ông về nhà học tập Âu văn trong hai năm trời, và vị mục sư đối với tôi thật là nhiều tình nghĩa. 
Đến nhà mục sư, cô gái ông Robert niềm nở tươi cười bắt tay tôi, kéo tôi vào phòng văn hỏi chuyện… Phòng văn hơi giá như đồng… Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe. Ngày nay tôi còn ghi tạc kỷ niệm lưa thưa cái mùi hương dị dị ấy. Tiểu thư ngồi bên dương cầm, hai bàn tay búp măng thoăn thoắt, đầu tóc hồng vàng tụ, nghiêng nghiêng ngả ngả. Ôi! Tôi bỗng biến làm thi nhân mà nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình: “Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy? Nước xuôi dòng là cổ độ đăm đăm. Tuổi mười tám bây giờ lên gấy gảy. Mộng miên man vân mấn phủ dương cầm …” 
Vợ chồng ông mục sư mừng rỡ bước vào giữa lúc tôi miên man ra như thế. Ông bà cao hứng quá, chạy lại nắm tay tôi. Ông nắm hai tay. Bà đưa ngón búp măng xoa mãi cái đầu thầy tu cạo trọc của tôi. Bà mừng rỡ như cầm một viên ngọc kim cương ở trong mấy ngón tay bà vậy. 
Bà tưng bừng hàn huyên không ngớt! Tôi đi đâu? Mà mất dạng bao nhiêu ngày? Tôi gặp những ai ai trên bước đường xuôi ngược? Tại sao trông tôi bần thần ra như thế? Tại sao càng ngày trông tôi càng gầy ốm? Vì lẽ chi? Nhà sư nhỏ tuổi ôi! Nhà Sư nhỏ ôi! Nhà sư có thầm yêu trộm dấu một cô sơn nữ ở sườn non nào chăng? Cô sơn nữ ấy tên gì? Tên tuổi của nàng có hằng ngày rập rình về “tập kích” (!) thầy ở ngay giữa hào lũy trong cõi thanh tu? Thầy đọc kinh ngâm kệ, hay là Thầy lẩm nhẩm tên tuổi của ai? Nếu sơn nữ không kết duyên với thầy, thì thầy tính sao? Thầy tính sao? Có thể nào tìm kiếm một giai nhân thôn nữ ở thôn làng ra thay thế cho thầy được chăng? 
Hỡi ôi! Màu lan nam diện! Hỡi ôi! Tuyết Mai! Bà mục sư đâu có rõ ngọn ngành? Bà cao hứng quá hỏi dồn dập âm thanh liên miên trào ra không ngớt. Đang giữa cơn bần thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng. Bà hỏi: 
– Thầy cười sự chi? Thầy cười sự chi? 
Tôi đáp: 
– Tiểu sinh cười, vì thấy phu nhân vui vẻ quá. Mặc dầu… 
Bà hỏi dồn: 
– Mặc dầu làm sao ? Mặc dầu làm sao? 
Tôi đáp: 
– Mặc dầu quả thật hiện giờ lòng tiểu sinh tan nát. 
Bà hỏi dồn dập: 
– Tại sao tan nát? Ai làm cho tan nát? 
Tôi đáp: 
– Nhưng không hề gì! Bây giờ sắp chấm dứt cơn tan nát rồi. 
Bà hỏi: 
– Tại sao sắp chấm dứt? 
Tôi đáp: 
– Tại vì cơn tan nát đang chậm rãi tiêu tan từ từ. 
Cô tiểu thư nãy giờ dừng tay nhạc, ngồi im không nói, lúc đó cô mới xen vào: 
– Có phải vì em đánh dương cầm rất hay, nên hàn gắn được phần nào cho anh? 
Tôi đáp: 
– Cũng có thể là ra như thế? 
Cô hỏi: 
– Thế thì tại sao mối sầu làm cho lòng anh tan nát, nó không chịu lành hẳn, mà chỉ “chậm rãi tiêu tán từ từ” – theo lời anh nói? 
Tôi đáp: 
– Chuyện gì trong nhân gian đều phải chậm rãi từ từ mới được. Mê gái cũng từ từ. Tụng kinh cũng phải từ từ. Mò cua bắt ốc cũng phải từ từ. Tiếc thương cũng phải từ từ. Lành vết thương cũng phải từ từ. 
Tôi nói tới đó, cả ba người cùng cười ầm lên một trận. Bà mục sư vội bảo cô gái đem bánh và trà ra cho tôi dùng tạm. Trong lúc nhấm trà, tôi đem sự tình ra kể hết ngành ngọn: chuyện thân mẫu, chuyện Tuyết Mai, chuyện Triều Nhi và bà vú nuôi. Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản… 
Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng. Tôi ngậm ngùi tin yêu bày tỏ hết nỗi niềm với người tuy không họ hàng thân thích đồng quận, đồng hương nhưng họ có tâm hồn cảm thông rất mực.

 

 

 

 

CHƯƠNG BẢY
Bốn ngày sau, vợ chồng ông mục sư, sắm sửa cho tôi bốn bộ âu phục và lo liệu mọi sự thuận lợi cho cuộc đáp tàu xong, bắt tay tôi, bảo: 
– Tàu nhổ neo vào giữa lúc ngọ, cậu hãy lên đường xuôi buồm theo gió. Thượng đế chúng tôi sẽ phò trì cho cậu phúc tuệ đủ đầy. Cậu đi chuyến này, nhớ thỉnh thoảng viết thư nhắn tin về cho chúng tôi biết. 
Ông bà mục sư nói xong thì cô gái tóc nâu lòa xòa xiêm áo xanh lam, cũng đề huề bước tới. Trông nường có vẻ ưu sầu. Tới bên tôi nường đưa tay ra bắt tay tôi một cách thân thiết vô cùng. Mấy ngón tay của nường thật là mịn màng ấm áp. Nường cầm một bó tỷ la lan hoa và hàm tu thảo. Hỡi ôi hoa thảo gì như thế! Thêm một bộ sách Anh văn thân tặng. Tôi cảm tạ đón nhận tặng vật của nường. Như đón nhận một kho tàng man mác của thiên tiên thơ ngây xuống trần gian thăm viếng giấc chiêm bao thi sĩ. Nường đìu hiu không nói lời nào cả, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi nghe rõ ràng âm thanh nường văng vẳng trong không gian. Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… – “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ. Suốt một đời chàng sẽ đứng riêng tây…” Trời vẫn xanh, sóng biếc giỡn triều ngày…Tiền trình vạn lý nghiêng mày tạ nhau – (Dư bái tạ thụ chi. Nga nhi, hải thiên tại nhãn, dư Đông hành hỹ…) 
Tôi lên tàu ngồi nhìn chân trời mây sóng trùng trùng điệp điệp. Phía trước, một hình bóng… mơ hồ… Phía sau, một hình ảnh đìu hiu nụ cười chất chứa u sầu. Tôi không biết. Tôi không biết gì nữa cả. 
Thuyền rẽ sóng, năm ngày năm đêm như một cơn mơ dàn rộng. Em về? Bủa rộng chiêm bao. Buồn sông sóng biển chìm sâu bên dòng… 
Thuyền đã lênh đênh buồm gió vượt Thái Bình Dương. Trời xanh ngắt. Sóng ngun ngút rì rào. Mặt trời hào quang chiếu diệu. Tôi bồi hồi luẩn quẩn trên boong tàu, quẩn quanh lui tới phòng thủy thủ. Mang mang thiên hải… Diêu diêu dư hoài… Cầm mấy cuốn sách của tiểu thư đưa tặng, mở ra. Trong đầy đủ toàn tập thi phẩm ShakerpeareByronSurrey. Tôi nhận thấy Byron không khác gì Lý Bạch Trung thổ chúng tôi. Shakespeare là một nòi với Đỗ Phủ. Surrey thì cũng như Lý Hạ. Byron là thiên tài, Shakespeare là thiên tài, thánh thần tài. Surrey là quỷ vương ma chúa tài. 
Tôi khởi sự đọc thơ Byron. Ngâm những vần du hành của Childe Harold. Tới đoạn cuối, có sáu chương vịnh trùng khơi đại hải. 
Tôi than dài một tiếng: 
– Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!) 
Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau: 
Hoàng đào lan hãn
Linh hải ưu minh 
Vạn sưu cổ tập 
Phiếm nhược khinh bình 
Mang mang cửu vi, 
Mỗi hữu di hư 
Khoáng tai thiên chiểu 
Phỉ nhân du cư…

(…) 
(Mạn Thù đại sư dịch theo ý thơ, hồn thơ Byron, chứ không dịch sát lời bài thơ nọ: 
There is a pleasure in the pathless woods,
There is a rapture on the lonely shore; 
There is a society where none intrudes, 
By the deep sea, and music in its roar. 
I love not man the less, but Nature more…
” 
Đại khái ta có thể lược dịch tổng hợp ra thơ Việt như sau: 
Ba đào bành bái tuôn sôi
Thẫm đen linh hải chèo bơi vạn thuyền 
Thuyền con, chiếc lá giữa miền 
Dấu bèo phiêu dạt diện tiền lưu ly 
Mang mang thiên địa cửu vy 
Ngàn tầm hải vực vô kỳ thái hư 
Mênh mông âm điệu gầm gừ 
Hồn thiêng đại khí ngôn từ lãng ba 
Thiên thu chấn đãng chan hòa 
Ngọn triều non bạc như hà thế nhân 
Thần công uy vũ vạn phần 
Bão dông nguyên thủy phân trần càn khôn 
Doanh hoàn vũ trụ trao hôn 
Hai vành tịch nạp liên tồn lưỡng nghi 
Như nhiên chân khí lầm lỳ 
Hỡi ôi đại hải ù lỳ cứ tuôn 
Vạn ngàn hải lý uông uông 
Vào trong bất tuyệt bắt buông ra ngoài 
Con người khổ lụy trần ai 
Rụng rơi vết tích phôi phai điêu tàn 
Con người bài bố đa đoan 
Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng 
Thiên thu bão tố luống từng 
Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao? 
Con người ta? Giọt mưa rào 
Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu 
Ty hào còn lại chi đâu 
Chỉ duy đại hải nguyên màu còn ngân 
Thành trì hào lũy binh đoàn 
Un ùn sấm sét tan hoang cung thành 
Ngất trời dao động tam bành 
Té ra rốt cuộc phù danh thôi mà 
Hùng quang hải thượng âm ba 
Còn dư cung bậc chan hòa liên thiên 
Một đời tử diệt cuồng điên 
Tuyết băng bèo bọt bốn miền nhà ma 
Hùng tâm từ Armada 
Tới bờ tráng khí Trafalga nào 
Chỉ duy biền biệt ty hào 
Còn chăng riêng chỉ ba đào lãng tinh 
Carthage? La Mã biên đình 
Assyria Greece còn tình tự chi? 
Nước đại hải? Sóng biên thùy 
Đã trào xuôi ngược vô kỳ thủy chung 
Hỡi ôi vương chúa kiêu hùng 
Hỡi ôi nô lệ cơn vùng dậy cơn 
Hỡi ôi khổ lụy vong hồn 
Thanh tân man dại lá cồn rụng hoa 
Hồn sa mạc thạch lựu là 
Cái chi như thế cái là cái chi? 
Chỉ riêng ba lãng nguyên kỳ 
Thiên thu bất diệt diên trì cuộc chơi 
Từ sơ thủy lóng lánh ngời 
Tới bây giờ vẫn rạng ngời long lanh 
Xô ùa lớp lớp vòng quanh 
Trùng khơi lộn ngược tiếp nhanh điệp trùng 
Gương kim cổ? một lá bùa? 
Huy hoàng thể thái? Bốn mùa bão giông? 
Vạn năng bao quát xuân hồng 
Thu xanh đông biếc phiêu bồng hạ dương 
Thời gian vĩnh thể miên trường 
Gào kêu? hiu hắt? hay mường tượng ngân 
Thao thao bất xá xa gần 
Hách nhiên thần quỷ hay thần thánh ma 
Từ bắc cực tới hoàng sa 
Từ nam cực tới vùng sa mạc nào 
Từ băng giá giữa chiêm bao 
Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên 
Thần linh thị giám diện tiền 
Hay là duệ hậu hách nhiên như là 
Phò dao dương giác hải hà 
Ngưng băng dâm lệ dê hòa hài hươu 
Kể chi mang diễu bài trừu 
Kể chi thùy mỵ ty hào tồn liên 
Chỉ duy còn mãi là riêng 
Mộng hồn đại hải là viên dung hình 
Hình khiếm diện? Vẫn là hình 
Từ trong cô thể mà hình tượng ra 
Kình ngư vạn lý hay là 
Thâm sâu vô để hồn ma quái nào 
Từng khu vực mỗi âm hao 
Lừng vang há giống hoàng mao thi thành 
Ta yêu bao xiết tam bành 
Hỡi ôi đại hải bao ngành nhớ nhung 
Tang thương từ kể một vùng 
Tằng kinh thương hải điệp trùng mà ra 
Ân tình bao xiết nhà ma 
Trút về cửa quỷ chan hòa đại dương 
Lãng hoa phách ngạn khôn lường 
Khương an khương thịnh mù sương khuynh thành 
Vong hồn nam diện một cành 
Còn lưa hơi thở cho mình yêu nhau 
Chuyện ngày trước chuyện ngày sau 
Gần xa bành gái một màu sơ nguyên 
Bàn tay khép mở dịu hiền 
Hỡi ôi thương hải diện tiền đón ta

Dịch xong bài thơ Byron, tôi ngâm vang lên một trận. Lúc bấy giờ màu trắng mới ở trên trời hắt hiu rỡn rỡn. Đúng như là màu xanh trăng mới im ngầm. Phấn thừa hương cũ bội phần chia xa. Gió đàn nhị nguyệt nhà ma. Giữa hoang vu biền lập lòa bốc tia. Ngọn đèn ngư phủ xa kia. Có nghe thơ vọng tới chia niềm gì.
Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xảy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ.

 

 

CHƯƠNG TÁM 

Vừa trút hành trang xuống, tôi rút tờ ghi địa chỉ mẹ tôi do vú nuôi trao. Hỏi chủ nhân khách sạn chỉ dẫn giúp. Chủ nhân bảo: 

– Địa chỉ này rất gần đây. Vùng đó thật là yên tĩnh. Đi tàu hỏa chỉ cách năm trạm nghỉ thôi. Công tử hãy thư thả ngồi dùng trà một lát, tôi lo liệu mua giúp vé tàu cho. Tôi vốn quen người biết mặt rất nhiều, ít thấy ai siêu dật như công tử. Công tử viếng chốn ấy là phải. Dường như công tử nóng lòng đi ngay? Có công việc cần kíp hay sao? 

Tôi đáp: 

– Thăm viếng mẫu thân tôi. 

Ăn trưa xong, chủ nhân khách sạn tiễn chân tôi tới nhà ga. Tôi cảm kích lòng niềm nở ấy vô cùng. Tàu khởi hành. Qua hai trạm tới một nhà ga, danh là: “Đại thuyền”. Người xếp trên tàu bảo tôi: 

– Cậu xuống đây, sang tàu. Đi một trạm nữa, đến trạm thứ nhì là tới chốn vậy. Tôi đổi tàu, vào va gông ngồi xao xuyến ù lỳ. Lòng tôi lúc bấy giờ thật là khó tả. Tôi tự nhủ: 

“Chỉ một lát nữa thôi, thì cùng mẹ trùng phùng. Thật là… Thật là gây cấn. Đây có phải là niềm vui lớn nhất trong bình sinh của ta chăng?” 

Chợt lại chuyển niệm: “Từ nhỏ ta chẳng hay tin gì cả. Mà thế sự biến đổi liên miên, biết đâu thân mẫu chẳng dời nhà nơi chốn khác? Nếu hôm nay không gặp được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?” 

Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Con tàu chợt dừng bánh. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn cửa, thấy bảng đề ba chữ: “Đậu Tử Trạm”. Tôi xuống tàu, ra khỏi sân ga, nhìn bốn bề chẳng thấy người đi đường. Vùng này quả thật là vắng vẻ. 

Tôi mướn một chiếc xe tay (gần giống như xích lô đạp). Người kéo xe bôn bôn ba ba nhắm hướng đồng ruộng chạy nhanh. Lúc bấy giờ thời tiết thật lạnh lẽo. Nhìn ra xa chỉ thấy lớp lớp băng giá tích tụ hoang liêu mấy dặm dài. Tới chân một ngọn núi, xe rẽ về phía tả, rồi lăn dọc theo bờ biển. Chỉ thấy mấy khóm nhà chài. Một lũ bé con đi đi lại lại tìm chỗ thả cần câu. Cảnh vật thật là u liêu hết sức. 

Người kéo xe chợt dừng chân bảo: 

– Đây chính là vùng Anh Sơn. Công tử muốn đi về phía nào? 

Tôi đáp: 

– Anh Sơn chính là vùng này ư? 

Bèn xuống xe, mang va ly hành trang bước bộ. 

Đi khá lâu, tới một chốn nọ, tùng xanh, cát trắng. Mới dừng chân ngóng vọng một lúc, chợt thấy ở xa xa, giữa khoảng tùng bách xanh um, có một con đường, một nhịp cầu nho nhỏ dẫn tới một ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà ẩn ẩn tựa lưng vào sườn núi hậu diện, mở ra phía biển ở tiền diện. Phía bên dưới nhịp cầu nho nhỏ kia, có một dòng tiểu khê nao nao chảy róc rách chạm vào đá vang lên một âm thanh vui vui rầu rầu rĩ rĩ. Tôi vội vã tiến về phía đó. Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm bảng đề: 

“Tương Châu Đậu Tử 
Anh Sơn thôn – số 8” 

Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi. 

Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ. Một lúc lâu, vẫn chẳng nghe động tĩnh gì hết, dường như nhà vắng không người. 

Tôi bèn gõ cửa lần nữa. 

Một người đàn bà mở cửa bước ra. 

Nhìn người ấy, với tấm vải trắng buộc ở phía trước hình hài, thì tôi đoán ra đó là chị bếp. 

Tôi liền hỏi: 

– Xin thứ lỗi đường đột! Đây có phải là nhà của Hà Hợp phu nhân chăng? 

Người đàn bà đáp: 

– Phải. 

Tôi hỏi. 

– Tôi muốn gặp phu nhân. Phiền thím thông báo giùm cho. 

Người đàn bà tỏ vẻ trù trừ mà rằng: 

– Chủ nhân tôi bệnh nặng vừa mới khỏi. Thầy thuốc dặn rằng bà không nên tiếp khách. Khách đến đây có việc gì, xin cho biết để tôi thay mặt báo cho bà chủ rõ cũng được. 

Tôi nói: 

– Chủ nhân đây là mẹ của tôi. Tôi tên là Tam Lang. Tôi từ bên Trung Hoa sang đây, hôm nay mới tới Yokohama lần đầu. Nhờ thím thông báo gấp cho. 

Người đàn bà nghe tôi nói như thế thì giương đôi mắt nhìn tôi đăm đăm từ đầu tới chân. Suy gẫm âm thầm một chặp bàng hoàng hãi nhiên mà rằng: 

– Ồ! Công tử là Tam Lang thật sao? Tôi thường nghe chủ tôi nhắc tên thiếu chủ hằng ngày, và lo âu mãi chẳng biết thiếu chủ còn sống hay đã mất rồi. 

Nói xong, liền quay vào trong nhà. Một chặp sau trở ra, trang trọng mời tôi vào. Dẫn tôi đến hành lang. Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng: 

– Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ. 

Cô bé nói xong thì dắt tôi lên cầu thang. Tấm bình phong vừa xô qua một phía, thì thấy mẹ tôi đang ngồi trên giường, tựa vai vào bệ cửa sổ. Tóc buông lòa xòa bối rối. Bà nhìn tôi mỉm cười nhè nhẹ. Tôi trong lòng biết rằng nụ cười của từ mẫu như thế, thật còn xót xa gấp mấy lần gào khóc. Tôi chạy tới quỳ xuống bên chân mẹ, miệng không thốt ra được lời nào cả. Nước mắt thì trào ra như suối chảy. Lúc bấy giờ, chợt nghe từ mẫu ngậm ngùi nói: 

– Con tôi còn sống bình an. Đa tạ Trời Phật phù hộ. Tam Lang! Con hãy lau nước mắt nhìn mẹ đây. Mẹ đau lần này suýt lìa trần mấy phen. Tuổi già, sinh mệnh như ngọn đèn trước gió. Nay mẹ nhìn thấy con. Thì bệnh mẹ như dường không cánh mà bay, thân thể nghe khỏe khoắn rồi. Con đừng đau đớn nữa. 

Mẹ tôi cầm nước mắt lại. Đưa tay nâng tôi dậy. Từ từ bà quay nhìn cô bé, bảo rằng: 

– Đây là anh hai của con. Từ nhỏ anh sống xứ người, nên con chưa gặp mặt lần nào. 

Quay mặt lại nhìn tôi, mẹ nói tiếp: 

– Đó là đứa con gái nuôi của mẹ (dưỡng nữ). Năm nay nó mười một tuổi. Nhỏ hơn con năm tuổi. Nó là em của con vậy, nó săn sóc mẹ rất chu đáo, mẹ thương nó hết sức. Còn con chị của con ngày mai hay tin con đã về, thì nó sẽ tới gặp mặt. Chị của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi. Mẹ tạ ơn Trời Phật đã rủ lòng che chở không để cho con của mẹ tan nát thịt xương ở xứ người. 

Mẹ tôi nói xong, tôi nhìn cô em bé đang nép thân bên mẹ, hai mắt rướm lệ. Lúc bấy giờ, cảnh huống thật là tịch mịch đìu hiu. Cảnh vật bốn bề cũng khơi rộng những yêu thương và luyến tiếc của người ta. “Chỉ có mơ màng một bãi xa. Tuyệt mù chỉ nhạt phai và. Véo von tiếng chở lưu ly mộng. Trong khoảng đêm trường ma gọi ma”. 

Tuy nhiên? 

“Lòng xin bốn phía mở cho trăng 
Khách lạ mười phương cũng đãi đằng 
Nước ngọt vẫn tuôn, vườn đợi hái 
Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng” 

Dù sao chăng nữa? Vâng: 

“Những cặp chim hồn lạc hướng bay 
Tấc gang cách trở nhớ muôn ngày 
Cô hồn dựng núi lên cao ngất 
Lời chẳng giao lời tay tạ tay” 

Một lát sau mẹ tôi xoa đầu chúng tôi mà rằng: 

– Các con đừng buồn nữa. Mai mẹ sẽ khỏi bịnh, mốt mẹ sẽ dắt con tới viếng phần mộ ông ngoại con và ba con, cầu nguyện vong linh phù hộ cho con. Bà con thân thích nhà ta cũng đông đúc lắm. Sau này mẹ sẽ dẫn hai anh em con đi thăm viếng và du ngoạn khắp miền. Mẹ đau nặng, nằm mãi trên giường bệnh đã lâu, nay nhân dịp mà du hành một cuộc, cho thư thái xương xẩu và phong vật các làng xã quê người. 

Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì? 

Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này: 

– Huệ Nhi, con hãy dẫn anh hai con ra ngoài xem phong cảnh trước nhà, anh con mới về, phong trần bộc bộc tội nghiệp quá! 

Xong bà quay sang phía tôi chỉ người bếp mà rằng: 

– Tam Lang, con hôm nay về ở gia đình, mọi sự đều do A Trúc coi sóc. A Trúc giúp việc nhà ta hơn mười năm nay, chị thật là người trung hậu thành thực, mẹ thương mến cô ta lắm lắm. 

Mẹ tôi nói xong thì bước xuống thang lầu, lo cơm nước buổi tối cho thằng con có dịp ăn no một trận. Tôi trong lòng nghĩ rằng trong thiên hạ, lòng nhân từ của người ta không đâu bằng tình thương của mẹ đối với con cái. Vì vậy, nên những thằng con đứa cái luôn luôn suốt kiếp phải phiêu bồng mới làm thơ lai rai được. 

“Người ta bảo người mẹ chàng hay khóc 
Chia gia tài cho con quý lệ đau 
Chàng là con một người mẹ hay sầu 
Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ 
Người thi sĩ cũng nguyện cầu Thượng Đế 
Một đôi lần 
Nhưng vốn nghiệp đi hoang 
Thì chết rồi chắc người vẫn lang thang 
Như buổi sống ở trong bầu trăng gió 
Ở địa ngục hay Thiên đường không rõ…” 

Tôi bước theo chân em gái. Ra tới mặt trước nhà. Chính vào lúc trời chiều lãng vãng bóng hoàng hôn. Mặt trời lặn xuống bên dãy núi Yentfu. Ngư phủ quay thuyền về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên nhật vậy. 

Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi. Tiếng chuông chậm rãi hòa lan vào với tiếng chim hải âu, dõi theo tiếng thủy triều mà chìm vào hư không vắng lặng. 

Em gái bảo: 

– Đó là tiếng chuông chiều tại Thần Vũ cổ tự đấy anh ạ. 

 

 

CHƯƠNG CHÍN 

Đêm đến, tôi viết hai bức thư: một bức thư gửi cho bà vú nuôi. Một bức gửi về mục sư Robert. Trong hai bức thư, tôi đều nói rằng mình bình an về tới gia đình, gặp mặt từ mẫu. Và kể rằng mẹ con tôi cảm tạ ân đức kia không bao giờ quên. 

Mẹ tôi gởi bà vú nuôi một trăm đồng vàng, dặn dò mẹ con bà vú nuôi hãy giữ gìn thân thể cho khỏe mạnh, ngày sau tự nhiên sẽ có phen tái hội. 

Viết xong hai lá thư, tôi thấy máu me mỏi trong mình, bèn đánh một giấc ngủ vùi mê man. 

Ngày hôm sau thức giấc, mặt trời hồng chiếu dương quang qua song cửa. Tôi khoác áo đi tắm một trận. Tắm xong, lên lầu gác, nhìn thấy ngọn Phù Dung Phong (Fujiyama) chọc thẳng đỉnh chót vót phiêu phiêu trên mặt sóng vàng kim hải. Phổi tim tôi bỗng chan hòa một trận. Nghe chừng như gột rửa sạch sẽ hết mọi trăm não ngàn phiền dơ bẩn mốc meo ở trong thớ máu và ở trong các khớp xương sườn (kể cả xương bánh chè cũng vậy). Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. 

Tôi về nhà đã được hai ngày. Qua tới ngày thứ ba, vừa mới tinh sương, mẹ tôi đã dắt tay hai đứa tôi vội vã tới nhà ga xe lửa. Ấy là cuộc đi Tảo mộ tại Tiểu Điền Nguyên (Odawara). 

Đó là một ngày âm u và rét mướt. Chuyến xe đi giữa mịt mờ hoa tuyết phấp phới đầy không gian. Cảnh vật trên dặm trường thật là ảm đạm tiêu tao. Tới lúc xe đậu lại trạm Tiểu Điền Nguyên, thì thấy mọi nẻo đường đều dằng dặc đầy tràn những tuyết. Khắp làng mạc chìm trong gió tuyết, vì thế nên tìm không ra một bác phu xe tay nào hết cả. Mẹ tôi bèn mướn một người đàn bà nhà quê cõng em tôi đi. Rồi ghé lại chỗ dịch trạm mua một bó hoa tươi tốt. Sau đó, tôi nâng đỡ mẹ tôi bước đi có hơn ba dặm đường tới chân một ngọn núi. Tôi ngẩng nhìn lên chóp núi, thấy lộ ra trên đó một góc vách tường hồng. Mẹ tôi đưa tay về phía đó bảo rằng: 

– Đó là Long Sơn Tự (chùa Ryusan). Mộ của ông ngoại con và ba con ở trên đó. 

Chúng tôi lần lượt chậm rãi leo đá núi mà lên. Lúc tới gần cửa chùa, thấy có hai câu đối in đậm đà nét chữ: 

Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh
Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi.

(Bồ đoàn, ngồi lại nguyện cầu
Luống từng chịu gió giang đầu giá băng 
Trùng sinh kiếp hậu há rằng 
Tro là hương hỏa mộng hằng là than 
Ngồi suông trên tấm bồ đoàn 
Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư

Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn. 

Nhưng vì lẽ gì lòng nghĩ thế là chỉnh đốn, mà mộng ước trong máu me lại ngậm ngùi không chịu đành cho rằng như thế là chỉnh tề?

Vào tới giữa điện, một vị lão ni già nua bước ra, cùng mẹ tôi hàn huyên một chặp. Rồi vị lão ni bước chầm chậm đi thắp hương, cùng đem lại mẹ tôi một ly nước lã. 

Tôi và em gái bước theo chân mẹ ra phía sau ngôi phù đồ, thấy hai nấm mộ cha và ông ngoại nằm song song bên nhau, giống như hai giọt nước sương trên lá cỏ. Bốn phía đều có giậu rào có vuông vức dây thép gai mịn màng mát tươi. Bốn mặt trụ gỗ có khắc năm chữ; Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Đó là do phái Mật Tông biểu thị ân đức của Đại Nhật Như Lai. 

Tôi và em gái tôi chạy nhặt nhánh tùng khô, đem về hươi quét sạch sẽ những mảnh tuyết tụ trên hai nấm mộ. Mẹ tôi cầm luôn nước rảy xuống, từ đỉnh nấm mộ xuống bốn phía và ba bên hai bề vẹn vẽ. 

Chẳng mấy chốc, nước chan hòa lôi cuốn hòa chan đi hết mọi vết tích của tuyết tụ mộ phần. Thế là bày hoa hương ra le lói được rồi vậy. Mẹ tôi nhặt một nhành lá trường thanh diệp đặt ngay ngắn vào giữa thạch án, bảo chúng tôi đồng thời quỳ chân vái lạy. Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. 

Mẹ tôi bảo: 

– Tam Lang! Tuyết phong khốc liệt lắm. Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. 

Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào. Những đồ vật vừa bày ra lộng lẫy và le lói như thế, bỗng nhiên khoảnh khắc đã bị băng tuyết vùi lấp mất tăm mất dạng hết cả rồi. Mẹ tôi đem một ít tiền bạc gói trong giấy trắng kính biếu vị lão ni. Rồi cáo biệt. Xông pha vào giữa tuyết mà xuống núi. 

Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang 
Vi vu gió hút nẻo vàng 
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
” 

Tôi bày em tôi ngâm thơ vừa thuộc thì mẹ tôi bảo: 

– Tam Lang! Dì của con năm ngoái đã dời sang Sương Căn (Hakone). Miền đó cũng ở gần vùng này. Bữa nay mẹ muốn dẫn con tới viếng dì con. Con hãy biết rằng thuở con còn nhỏ, dì của con yêu dấu con như một con phượng non, như một con bồ câu ra ràng bình minh mới mẻ thái bình vậy. Thuở bấy giờ một ngày không thấy con, thì dì con trong lòng buồn bã. Lúc mẹ dẫn con sang bên Trung Quốc, thì dì con hết sức cản trở. Con đi rồi, dì con tan nát can trường. Tam Lang, con hãy ghi nhớ ân tình của dì con, đừng có quên đấy nhé. 

Tôi đáp: 

– Con sẽ không quên. 

Mẹ bảo tiếp: 

– Dì con dạy bảo điều gì, con đừng trái ý nhé. 

Tôi đáp: 

– Con sẽ không trái ý dì con bất cứ điều gì. 

Mẹ bảo: 

– Được. 

 

 

CHƯƠNG CHÍN 

Đêm đến, tôi viết hai bức thư: một bức thư gửi cho bà vú nuôi. Một bức gửi về mục sư Robert. Trong hai bức thư, tôi đều nói rằng mình bình an về tới gia đình, gặp mặt từ mẫu. Và kể rằng mẹ con tôi cảm tạ ân đức kia không bao giờ quên. 

Mẹ tôi gởi bà vú nuôi một trăm đồng vàng, dặn dò mẹ con bà vú nuôi hãy giữ gìn thân thể cho khỏe mạnh, ngày sau tự nhiên sẽ có phen tái hội. 

Viết xong hai lá thư, tôi thấy máu me mỏi trong mình, bèn đánh một giấc ngủ vùi mê man. 

Ngày hôm sau thức giấc, mặt trời hồng chiếu dương quang qua song cửa. Tôi khoác áo đi tắm một trận. Tắm xong, lên lầu gác, nhìn thấy ngọn Phù Dung Phong (Fujiyama) chọc thẳng đỉnh chót vót phiêu phiêu trên mặt sóng vàng kim hải. Phổi tim tôi bỗng chan hòa một trận. Nghe chừng như gột rửa sạch sẽ hết mọi trăm não ngàn phiền dơ bẩn mốc meo ở trong thớ máu và ở trong các khớp xương sườn (kể cả xương bánh chè cũng vậy). Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. 

Tôi về nhà đã được hai ngày. Qua tới ngày thứ ba, vừa mới tinh sương, mẹ tôi đã dắt tay hai đứa tôi vội vã tới nhà ga xe lửa. Ấy là cuộc đi Tảo mộ tại Tiểu Điền Nguyên (Odawara). 

Đó là một ngày âm u và rét mướt. Chuyến xe đi giữa mịt mờ hoa tuyết phấp phới đầy không gian. Cảnh vật trên dặm trường thật là ảm đạm tiêu tao. Tới lúc xe đậu lại trạm Tiểu Điền Nguyên, thì thấy mọi nẻo đường đều dằng dặc đầy tràn những tuyết. Khắp làng mạc chìm trong gió tuyết, vì thế nên tìm không ra một bác phu xe tay nào hết cả. Mẹ tôi bèn mướn một người đàn bà nhà quê cõng em tôi đi. Rồi ghé lại chỗ dịch trạm mua một bó hoa tươi tốt. Sau đó, tôi nâng đỡ mẹ tôi bước đi có hơn ba dặm đường tới chân một ngọn núi. Tôi ngẩng nhìn lên chóp núi, thấy lộ ra trên đó một góc vách tường hồng. Mẹ tôi đưa tay về phía đó bảo rằng: 

– Đó là Long Sơn Tự (chùa Ryusan). Mộ của ông ngoại con và ba con ở trên đó. 

Chúng tôi lần lượt chậm rãi leo đá núi mà lên. Lúc tới gần cửa chùa, thấy có hai câu đối in đậm đà nét chữ: 

Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh
Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi.

(Bồ đoàn, ngồi lại nguyện cầu
Luống từng chịu gió giang đầu giá băng 
Trùng sinh kiếp hậu há rằng 
Tro là hương hỏa mộng hằng là than 
Ngồi suông trên tấm bồ đoàn 
Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư

Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn. 

Nhưng vì lẽ gì lòng nghĩ thế là chỉnh đốn, mà mộng ước trong máu me lại ngậm ngùi không chịu đành cho rằng như thế là chỉnh tề?

Vào tới giữa điện, một vị lão ni già nua bước ra, cùng mẹ tôi hàn huyên một chặp. Rồi vị lão ni bước chầm chậm đi thắp hương, cùng đem lại mẹ tôi một ly nước lã. 

Tôi và em gái bước theo chân mẹ ra phía sau ngôi phù đồ, thấy hai nấm mộ cha và ông ngoại nằm song song bên nhau, giống như hai giọt nước sương trên lá cỏ. Bốn phía đều có giậu rào có vuông vức dây thép gai mịn màng mát tươi. Bốn mặt trụ gỗ có khắc năm chữ; Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Đó là do phái Mật Tông biểu thị ân đức của Đại Nhật Như Lai. 

Tôi và em gái tôi chạy nhặt nhánh tùng khô, đem về hươi quét sạch sẽ những mảnh tuyết tụ trên hai nấm mộ. Mẹ tôi cầm luôn nước rảy xuống, từ đỉnh nấm mộ xuống bốn phía và ba bên hai bề vẹn vẽ. 

Chẳng mấy chốc, nước chan hòa lôi cuốn hòa chan đi hết mọi vết tích của tuyết tụ mộ phần. Thế là bày hoa hương ra le lói được rồi vậy. Mẹ tôi nhặt một nhành lá trường thanh diệp đặt ngay ngắn vào giữa thạch án, bảo chúng tôi đồng thời quỳ chân vái lạy. Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. 

Mẹ tôi bảo: 

– Tam Lang! Tuyết phong khốc liệt lắm. Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. 

Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào. Những đồ vật vừa bày ra lộng lẫy và le lói như thế, bỗng nhiên khoảnh khắc đã bị băng tuyết vùi lấp mất tăm mất dạng hết cả rồi. Mẹ tôi đem một ít tiền bạc gói trong giấy trắng kính biếu vị lão ni. Rồi cáo biệt. Xông pha vào giữa tuyết mà xuống núi. 

Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang 
Vi vu gió hút nẻo vàng 
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
” 

Tôi bày em tôi ngâm thơ vừa thuộc thì mẹ tôi bảo: 

– Tam Lang! Dì của con năm ngoái đã dời sang Sương Căn (Hakone). Miền đó cũng ở gần vùng này. Bữa nay mẹ muốn dẫn con tới viếng dì con. Con hãy biết rằng thuở con còn nhỏ, dì của con yêu dấu con như một con phượng non, như một con bồ câu ra ràng bình minh mới mẻ thái bình vậy. Thuở bấy giờ một ngày không thấy con, thì dì con trong lòng buồn bã. Lúc mẹ dẫn con sang bên Trung Quốc, thì dì con hết sức cản trở. Con đi rồi, dì con tan nát can trường. Tam Lang, con hãy ghi nhớ ân tình của dì con, đừng có quên đấy nhé. 

Tôi đáp: 

– Con sẽ không quên. 

Mẹ bảo tiếp: 

– Dì con dạy bảo điều gì, con đừng trái ý nhé. 

Tôi đáp: 

– Con sẽ không trái ý dì con bất cứ điều gì. 

Mẹ bảo: 

– Được. 

 

CHƯƠNG MƯỜI 

Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi. 

Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi: 

– Cậu này là khách từ đâu lại? 

Mẹ tôi cười đáp: 

– Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay. 

Dì tôi nghe ra, mừng rỡ vô cùng. Bảo: 

– Thật sao ! Tam Lang còn sống trở về! Sao chị không đánh điện tín báo em hay! 

Vừa nói dì vừa đưa tay phủi mấy đóa hoa tuyết rớt trên vai tôi, chậm rãi than một tiếng: 

– Tội thay Tam Lang. Dì không thấy mặt cháu đã mười mấy năm! Ngày nay trông tướng mạo cháu, thật khó nhận ra, con gầy ốm hơn lúc nhỏ. Con đi đường mệt lắm. Vào nhà thôi. 

Chúng tôi theo gót dì vào phòng. Cởi áo ngoài ra. Hốt nhiên thấy một nữ lang đem khay trà tới. Nàng vận y phục nhạt màu, dáng đi thật là tha thướt. Nàng chào chúng tôi. Tôi ngồi một bên nhìn nàng. Thấy nàng quả thật là thanh tao diễm lệ hơn người. Lòng tôi bỗng nhiên nghi nghi hãi sợ, dường như từng đã có gặp nàng từ lâu ở nơi nào… 

Dì tôi cầm một đôi que sắt tro lạnh trong lò. Vừa gạt tro vừa nói: 

– Chị em ta xa nhau hơn một tuần rồi, khiến lòng nhớ nhung. Ngày đó tiếp được thư chị, mới hay rằng bịnh tình chị đã bớt, mới yên tâm chút ít. Nay Tam Lang về, thật tưởng như là chiêm bao mộng ảo. Em mừng hết sức. 

Mẹ tôi đáp: 

– Cảm ơn em. Chị tuy trong mình còn bệnh tật tuổi tác già nua, nay thấy mặt Tam Lang, thì khoan khoái vô cùng, nhưng trông Tam Lang xanh xao đáng thương quá. 

Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế, quay sang nhìn nữ lang nói: 

– Tĩnh Tử! Ta còn nhớ thuở Tam Lang ra đi, con đã biết buồn rầu nỗi ly biệt, con đã khóc lóc giàn giụa. Con còn nhớ chăng? 

Rồi dì bấm đốt ngón tay nói tiếp: 

– Con lớn hơn Tam Lang đúng hai mươi mốt tháng (gần tới hai tuổi) thế thì Tam Lang là em của con vậy, con chẳng nên ngượng nghịu bối rối như thế. 

Nữ lang làm thinh không đáp, chậm rãi đưa bàn tay ngọc ra vuốt vào mái tóc mai của em tôi. Hai má nữ lang trông có vẻ ửng đỏ chút ít. 

Dùng cơm tối xong, tôi chợt nghe thấy trong mình mệt mỏi. Đầu óc choáng váng, tứ chi nóng rần, xương xẩu máu me trở cơn sốt ran ran. 

Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Bệnh nặng phát tác mất rồi! 

Sáng hôm sau, trời vẫn còn tuyết liên miên. Mẹ tôi, dì tôi và mọi người trong nhà đều buồn rầu hết sức, bảo rằng chứng bệnh kia không nhẹ. 

Tôi mặc dù nằm rên rỉ trong chăn, nhưng không thấy đau khổ, nhân vì mới về lại gia đình, nhận ra rằng từ thuở nhỏ đến nay, chưa có bao giờ hân hoan êm đềm như ngày đó. 

Tôi suy gẫm lại mọi sự việc đã xảy ra trong đời tôi từ ngày bước chân vào chùa tới lúc bấy giờ: việc gặp gỡ ân sư, gặp gỡ mẹ con bà vú nuôi, và gia đình mục sư Robert… Mọi người đều yêu thương tôi không khác gì con ruột, thì như thế, mọi nỗi phiêu linh tân khổ đã trải qua từ trước, kể cả cũng được đền bồi. Nhưng lúc nghĩ tới Tuyết Mai, nàng phải một mình ôm mối đau lòng không nói ra được với ai hết cả. 

Tuy nhiên sự việc tôi đi tu và việc Tuyết Mai, tôi giấu hết, không nói cho mẹ tôi rõ, sợ mẹ đau lòng. Hai sự việc kia, xuất gia và hợp hôn, quả thật là mâu thuẫn nhau triệt để; một đằng sang Đông, một đằng sang Tây; một đằng nằm im, một đằng rục rịch. Tôi đã nguyện tu hành cho đắc đạo rất mực chân tu, thì cố nhiên không thể nào lấy vợ; nhưng đã đi tu, còn có thể nào về bên mẹ mãi mãi được không? 

Trong khi tôi quẩn quanh tư lự gần xa như thế, mẹ và dì bước vào. Dì tôi tay bưng bát thuốc lá cây rễ cỏ, bước tới bên mép giường bảo: 

– Tam Lang, bệnh của cháu là một loại cảm mạo. Bây giờ cháu ngồi dậy uống thang thuốc này, một vài ngày sau ắt sẽ khỏi bệnh. Loại rễ thuốc lá hoa này do dì tự tay hái ngắt về. Tam Lang, dì của con hằng ngày chẳng có việc chi làm, thì giờ nhàn rỗi chỉ có biết đi vào trong núi ở trong rừng mà hái lá, ngắt rễ cây. Đem về bào chế ra thuốc, rồi đem cho những kẻ nghèo khó mà đa bệnh để họ dùng trong lúc tai nạn. Phải nên biết rằng trong thế gian, các ông thầy thuốc chẳng ông nào là chẳng tham tiền; do đó kẻ nghèo đói nếu rủi ro lại vướng bệnh, chỉ còn biết buông tay mà chết. Những chuyện thương tâm thảm nhục (đau lòng xót mắt) chẳng có chuyện nào đau đớn hơn sự tình trạng huống kia. Dì tự nghĩ mình còn chút sống thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn việc chi lạc thú nữa cả. Còn như những việc đốt hương niệm Phật lâm râm theo lối những người đàn bà ở làng thôn (thôn làng thôn xã) thì ấy là điều mà dì của con chẳng làm đâu. Tam Lang! Dì và mẹ của cháu đều già nua hết rồi. Ngạn ngữ có câu: “Người già nua thêu thùa sự vụ là cốt để giao thụ cho người sau” – lão giả dự – vi giao – đại sự [1]- Ấy bởi rằng lời trong ý là nói người già nua chỉ nên vì người sau mà mưu việc hạnh phúc, còn tự thân mình vất vả, thì không bận tâm lấy làm điều gay cấn cho lắm đâu. Xét riêng gia cảnh của dì hiện nay, thì thằng con của dì đã phục vụ trong ngành hải quân, nó đã lấy vợ lập gia đình rồi, thì dì chẳng còn phải vì nó mà lo lắng sự gì[2]… Ngày nay, còn đứa gái Tĩnh Tử kia kìa, nó là kẻ rất mực của dì lưu tâm quan thiết. Tĩnh tử (Kiyoko) mồ côi cha thuở nó còn bé, nó nương tựa vào dì đã mười mấy năm nay. Dì chỉ biết… dì nghĩ rằng… mọi sự thôi thì hãy nên ủy thác hết cho Thiên mệnh vậy. 

Dì tôi nói tới đó, thì trầm ngâm một lúc, thở dài một tiếng, rồi nhìn tôi nói tiếp: 

– Tam Lang, ngày trước mẹ cháu từ Trung Hoa về lại xứ nhà, chưa được ba tháng, thì tiếp được một lá thư của gia đình nghĩa phụ của cháu, báo tin cho biết rằng “Tam Lang leo lên núi, bị cọp ở trong rừng vồ nuốt mất hình hài thân thể tứ chi”. Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tai nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật. Dì và mẹ cháu ôm nhau khóc một trận tưởng như chết mất ra ma, rồi vì quá đau lòng mà hai chị em vốn đã già, lại tăng thêm già nua, thêm hơn hai mươi tuổi nữa. 

Thần thái đã ra người lẩm cẩm. Sự việc đời còn mà ra như thế, còn biết tính ra làm sao, chỉ còn biết ngày đêm cầu nguyện ông trời xanh, chúc cho vong hồn cháu tiêu dao du, mà ghé về xứ nhà ứng mộng chiêm bao cho mẹ cháu. 

Tôi lắng tai nghe dì kể lể giọng thật bi thảm. Trong lòng tôi lại ùn ùn trào dậy bao nhiêu mối u sầu trường hận cũ, trái tim và hai lá phổi như muốn vỡ toang ra một trận, chẳng còn biết ăn nói ra làm sao cả . 

Thật lâu sau, ngẩng mặt nhìn mẹ, nhận thấy dung nghi điềm đạm, không còn bi thiết, thì tôi cố gắng đàn áp mối bi thống trong máu xương mình, cung kính nói mà rằng: 

– Con xin ghi tạc mối tình thương yêu của dì. Những phen lao đao vất vả cháu trải qua, đã thành chuyện quá khứ mơ hồ, không thể nhắc gợi ra nhiều chi nữa, con xin dì và mẹ hãy xếp lại đừng bận lòng chi tới. Từ nay về sau, con ở lại nhà, sớm hôm phụng bồi dì và mẹ, thì lòng con sung sướng tràn lan rất mực lắm rồi. 

Tôi nói xong, mẹ tôi giục uống bát thuốc, một lúc sau, toàn thân tôi mồ hôi ra như tắm, tôi mỏi mệt khắp cả hình hài xương xẩu, nhắm mắt thiêm thiếp miên man. 

 

 

CHƯƠNG MƯỜI MỘT 

Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa. Mẹ tôi và dì tôi và mọi người trong nhà, ai ai cũng tưng bừng nét mặt. Ấy vào ngày mồng ba tháng ba. Khí trời thanh tân tôi ngồi dậy lại bên cửa sổ, vén tấm màn nhìn ra ngoài. Sắc núi rực rỡ chân trời, hoa lá chim chóc thi đua nhau đâm bông và ríu rít, trong một trận trường kỳ thi đua gây cấn. Nửa như phản kháng nhau. Nửa như ứng đáp nhau. Lại thêm một nửa như… như nhiên thường hằng chan hòa từng cơn cơn thái hư tịch mịch. 

Lòng tôi thư thái dị thường. Chợt tưởng như một sự: Dường như suốt mấy ngày đau ốm, mỗi phen từ trận mê man lò dò tỉnh giấc, mỗi phen lại dường như khứu giác lại chạm phải mùi hương xuân sắc bất khả tư nghị. Chẳng rõ là hoa hay lá? Hay đạo hạnh? A na tam miệu tam Bồ đề? Tứ Bồ Tát? Ngũ ni cô? Thật quả là tôi không phân biệt được rõ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng đó ắt nhiên là một loại hương phấn bốc hơi pha màu xiêm nghê thường quần duệ địa vậy. Bên giường tôi nằm trên chiếc bàn nhỏ, mỗi buổi mai, lại mỗi có một bó hoa tươi tốt đặt gọn gàng ôn tồn nằm yên vui trong cái lọ. Màu hoa gì như thế? Sắc hương thênh thênh, hoa tâm như còn chứa đọng giọt sương ướt át rất mực liên tồn từng khoảnh khắc sát na. 

Hôm nay chợt thấy một bức phỉ thúy khâm trâm đặt trên chiếc bàn. Ban sơ tôi nghĩ rằng đó là đồ vật thơ ngây của em gái rất mực nữ lang Tĩnh Tử Kiyoko và như vậy thì hiển nhiên bó hoa tươi tốt lòe xòe ắt cũng chẳng vật lòe xòe của mỹ nhân loe lói diễm kiều kia đó vậy. Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế. Tôi lại chậm rãi nhớ ra rằng ngày trước tợ hồ như từng đã có phen ôn tồn tương thức. Ấy nhân vì ngày trước tại trong phòng văn tiểu thư con gái mục sư Robert tôi từng đã có phen lăn tăn nhìn thấy tấm họa hình ảnh nữ sĩ Hy Lạp Sappho do bàn tay một nghệ sĩ Đức quốc. Hình ảnh đó và nữ lang ôn tồn này trông giống nhau quá sức. Cũng hai con mắt đen láy tròn trĩnh ưu tư. Cũng làn mi liễu cong vòng vang lừng trên mặt ngọc. Cũng hai môi khép mở mơ hồ lúc làn tóc mây lòa xòa buông xuống một bóng hoàng hôn của bình minh kỳ ảo phiêu bồng. 

Đương lúc tôi trầm ngâm như thế, chợt đưa mắt lưu ý tới phía dưới màn the, trần thiết cựu kỳ phong nhã. Có một chiếc bàn với hình hài trái xoan trứng ngỗng thiên nga lồ lộ. Trên có đặt một chiếc gương soi, một chiếc hộp nạm bạc, và bút nghiên, và đèo thêm một dải lụa hồng tua tủa nem dén mép rìa râu mọc thơ ngây. Không một hột bụi nào đậu vào trong cụm ngây thơ nọ. Bên cạnh lại có một chiếc rương nho nhỏ học trò đựng sách gỗ lá cây, hình trạng giống như cái tổ ong tò vò, hoặc cái chuồng bồ câu tư lự. Sách chứa trong đó khá nhiều. Tôi lò dò tiến lại lần giở ra xem xét lai rai nhận xét một vài. Đều là sách cổ xưa Trung Quốc, tới lúc nhìn qua tường vách bên tả, lại thấy một chiếc bàn ghế nhỏ cỏn con, trên có đặt một chiếc nhạn trụ minh tranh, tợ hồ như còn văng vẳng dư âm phảng phất trên huyền ty loan phím. 

Lúc bấy giờ, tôi mới chịu kinh hoảng hiểu ra rằng đó là căn phòng lầu các của khuê nữ rất mực Tĩnh Tử (Kiyoko). Trong lòng tôi lại càng thêm thán phục nữ lang nọ đa tài, học rộng, thâm thúy xuất trần, thật quả có như là bình sinh hóa thân của Ma Cô Tiên Tử (Nường Tiên kiều diễm ở trong núi Ma Cô) Ma Cô là núi, mô ca là rừng? Hỡi ôi! Kiyoko sư muội sư nương nõn nường tài hoa ra như thế? – Anh hoa phát tiết ra ngoài? Ngàn thu rất mực một tài hoa riêng? 

Lúc bấy giờ, tôi lại cảm thấy trong lòng như có nảy ra một sở niệm tiêu dao phiêu bồng. Rồi sau đó, lại tiêu điều phủ nhiên nhược thất? Như đang giữa cơn đánh mất một cái gì? 

Chợt thấy mẹ tôi lên thang gác, tay cầm hai bộ áo xuân. 

Mẹ bảo: 

-Tam Lang, hôm nay cuồng phong đại tuyết đã đề huề rút lui. Mùa đông đã đi qua rồi. Thì con hãy thử mặc bộ quần áo này vào mừng xuân. 

Tôi cầm lấy hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi trên chiếc ghế dài nệm gấm viền tua, có lò xo bối rối. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi đưa tay vò đầu tôi, sờ vào trán tôi và hỏi: 

-Con cảm thấy thế nào tới sáng nay? 

Tôi đáp: 

-Con cảm thấy thư thái. Không có chi khổ nhọc gay cấn, chỉ xương xẩu còn hơi mỏi mệt máu me chút ít mà thôi. Bao giờ mẹ sẽ dẫn con và em gái về nhà? Con cũng chưa gặp lại người chị của con. 

Mẹ đáp: 

-Lúc nào cũng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con bình phục sẽ quay về. Nhưng dì của con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc qua loa. Nếu như con ở đây thấy thư thái thì mẹ cũng không có ý về nhà ngay làm gì. Con biết rằng mẹ tuổi đã cao, cuộc đời đã xế, thân thuộc sinh bình ai ai cũng đã già hết cả rồi. Cũng chẳng còn năng lui tới thăm viếng nhau. Đâu còn có như thời xuân xanh tới lui ngày ngày nô nức nữa? Ngày nay mẹ đưa mắt nhìn bốn phía chỉ duy còn có chỗ dì con là nơi chốn thân mật bịch bồ, hình ảnh thong dong tương hợp. Huống nữa dì thấy con, thì trong lòng dì vui mừng vô hạn, thì con trọ lại đây cũng chẳng khác chi ở giữa gia đình. Mẹ biết tính tình con chỉ mong ước cảnh u tịch, thì ở lại đây trọ căn gác này là rất thích hợp vậy. Căn gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì Tĩnh Tử mới dọn xuống phòng dưới, cùng với em gái của con ở chung. Tam Lang con ở lại đây, nếu thấy không thích hợp, thì hãy nói thật tình cho mẹ rõ. 

Tôi đáp: 

-Con xin tuân lời mẹ dạy bảo. Phong vật nhà dì thật là tốt đẹp, ở lại một thời gian, lòng con rất sung sướng. 

Lúc bấy giờ người bếp vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn tề chỉnh. Mẹ tôi hân nhiên khoan khoái, bảo tôi thay y phục đặng xuống phòng điểm tâm. Theo gót mẹ xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố. 

Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng: 

-Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh. Tĩnh Tử con hãy lẹ chân bước tới chào anh Tam Lang của con đi, xem sáng nay anh con cảm thấy thế nào? 

Thoáng một cái, đã thấy ngọc nhân gót sen vi vút, dìu dặt bước qua như bóng nhạn ngang trời, lướt tới bên tôi, trang trọng cung thân xá một cái, rất mực “mái cột” môn tường phong nhã sả phạ chiêm bao. 

Lúc bấy giờ ngọc nhân phong tư tài mạo vân mấn xum xuê tót vời thể thái, phong độ càng nhìn càng siêu, càng ngó càng ưa và mến, và cũng càng như bán khai bao hàm khôn xiết chất mối khuynh thành khiến cho bình sinh, phải chịu trận tam sinh khuynh quốc. Hỡi ôi! Sự thể đã ra như thế nào, thiết thân láng giềng lân cận, nửa mơ hồ bất định lưu ly, nửa một cơn lồng lộng thinh không dìu dặt cuộc phiêu bồng lảo đảo. Làm sao tôi còn dám? Trận khôn hàn vô hạn ngẩng mặt nhìn nhau? Nhưng chả lẽ bỏ chạy mất? Như quân cướp đi chinh phục xóm làng bỗng hãi nhiên rút lui về sào huyệt? Vì bất thình lình cảm thấy bị vây bọc, bốn bề bị tập kích giáp công? Dù sao thì dù, dù co giò chạy trốn, dù đứng lại đại từ bi ù lỳ ra đó, dù sao thì dù, cũng cảm thấy ở trong mình toàn thể hình hài, xương xẩu, máu me, xương bánh chè, xương sườn suốt dọc xương sống, cùng một loạt thi đua nhau tam bành lảo đảo, tứ trướng gào kêu trong trận rụng rơi toàn diện. Lả tả toàn phương, không có cách gì cưỡng áp, đành phó mặc cho danh hoàn bờ cõi thổi đợt đợt gió về mà xô đẩy như đẩy xô quay tít những chiếc lá ngô đồng lúc thu sang trong trận gió may heo hút.(Dư bất cảm hồi mâu chính thị, duy tâm như phiêu nhiên phù động, như thu phong xuy lạc diệp, bất tri hà sở chỉ, bất thức hà phương lưu, bất hội hà xứ đình, Bất nghiệp hà sở đậu) – Bản dịch Anh ngữ: “I did not have the courage to turn my eyes to look directly at her, but my heart fluttered aimlessly, like falling leaves wafted by autumnal winds and not knowing wither they would land” – Tôi chẳng có can đảm đưa mắt nhìn thẳng vào mắt nàng, nhưng mà trái tim tôi phù động phiêu nhiên bất định, giống như những lá rơi, bị gió thu xô đẩy, và chẳng rõ sẽ rơi rụng vào nơi đâu mà cập bờ cập bến. 

Anh em tôi cùng mẹ tôi cư lưu tại nhà dì tôi giữa một vùng hồng nhan thiên hương gay cấn bốc hơi lừng tia ra như thế, quả thật chẳng khác gì đem thân thế mà ủy thác vào Vườn Tược Nhà Trời, vào Đào Nguyên Bích Động, Thanh Ngạn Xum Xuê, bốn bề Xiêm Nghê Thánh thót, Thần Thơ Oản Oẻn Ngây dại thêm ra. 

Dì tôi vốn đã yêu tôi rất mực, tôi chỉ còn biết dâng lên một vạn cung kính một ngàn kính cung, cẩn trọng để phụng bồi a dì, a mẫu cho hân hoan sắc mà thôi, tự thân cảm thấy từng bừng phiêu bồng thái thậm. Nếu trong lòng thảng hoặc có vướng víu chạm phải những gì chả rõ của cái quá khứ đoạn trường về luẩn quẩn một cái bên, thì tôi lại tựa lưng vào những gốc cây tùng cây bách, nhìn cái nước chảy lòe xòe, hoặc cầm quyển thi thư mà giải muộn. Phòng văn Tĩnh Tử vốn chứa nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa, đã bị con trùng sâu bọ rủ rê dán chuột gặm mòn bên những bầy mối hoen hoen. Đọc không ra được các nét chữ. Thảy đều là thi thư ra Đường. Lại còn thêm vài bản dịch Ba la Đa và Ma Hát Thư, ấy là những thi thư thuật sự thiên trường địa hậu đậu lại bờ hoa. Hai quyển thư này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ (của ông Dutt) về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata, cũng là một phần trong bộ sách đó. 

 

 

CHƯƠNG MƯỜI HAI 

Một bầy nhạn thấp thoáng bay vút ngang trời. Tiếng ve bốn bề văng vẳng. Tôi cúi đầu đi vòng quanh vườn tược nhà dì, vòng quanh bờ đập nước, vòng quanh những doanh mâu lang lạc, những rạng rỡ cột trụ vân thạch, và ghé tới bên cái bờ ao lãnh nhiên liên ỷ li ti vang bóng mùa thu trước năm nào. Mùa xuân năm nay? Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp? Giường bên cửa sổ? Cây đưa mát? 

Chân bước trông vời áo tiểu thơ?
Một hôm trận gió xa vời lại. 
Năm ngoái năm này năm nữa ru.

(…) I strolled about my aunt’s grounds – her pavilions, garden, and the path skirting the fishpond… Across the heavens flashed the forms of swans. Every nook resounded with the chirping of the cicada… Wide spaces and limpid streams greeted my eyes. I silently recalled that only this morning my mother had said she would take my sister and me home on the following morning…

Chân cứ bước, lòng cứ miên man trầm tư. Mắt cứ mơ hồ nhìn sóng lăn tăn trong từng luồng thinh không dĩ thái, như phi thuyền bộc lộ trong mát lòa xòa trước nhãn quan. Tôi lặng lẽ nhớ lại rằng sáng nay mẹ tôi có nói cho biết sáng mai mẹ sẽ dắt hai anh em tôi về trở lại nhà. Thì như thế, vùng đất đai bạch vân hồng thụ, làm sao chẳng có chăng niềm quyến luyến. Lòng tôi như thế nào như thế. Tôi quyến luyến cái chi? How light her step, how slim her body was! Who would ever think that she had seen eighteen years go by? [1] Xiết bao nhẹ nhàng gót chân nàng bước! Bao xiết mãi cốt cách là tấm thân thể nàng mảnh khảnh đầy đặn nở nang gầy gầy sậu cốt! Xiết bao máu me hồng thắm tịch mịch ra đời! Ai dám bảo rằng nàng đã luống nhìn mười tám tuổi xuân trôi qua ở bên mình và mất dạng ở tiền diện hoặc là ở sau lưng? Mất đi đâu? Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch mịch. Ồ Tĩnh Tử cô nương! tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ô Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay. Tôi mơ hồ nhớ nhung những chân trời mù sương nào xa xôi quá. Sao cứ về giữa lầm than xứ sở mà náo động mãi như thế ngày đêm? Những cụm sơn lê, những ngành du thụ. Những sinh lục. Những đường quỳ. Chùm thạch thảo nào cô nương đã hái. Đóa tường vi nào tại hạ đã bảo “em nhớ cho”. Mùa thu đã chết rồi, hay là mùa Xuân Hồi Sinh đang trỗi dậy. Chân nào bước lên đồi. Gót nào đi xuống biển. Hình hài nào từ huyễn ngạn lẽo đẽo gạ gẫm hoài với mộng mỵ chiêm bao. Về châu quận quê hương nào của tôi như thế? 

I had been thinhking more about it than I knew. The grey ivied house with the stretch of oak woods about it. The great lake that could be so clear that, the fishermen claimed, you could see the Danaan cities flooded over from China and Russia to take possession of the fair land… Pyramids and spires you could see there, if you had the sight, as the people said, and great forts. And on the shores were oak woods, and apples orchards, and bleaching greens, and fishermen going out after the pollan. The freshwater herrings, when sunset came. The long lines of rooks homing to the oak woods. In winter the snipe rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon and a white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese. Sometimes at night there was a miracle under the full moon, when a white cloud came driving westward from the far Pacific towards the waters of the Yang Tse Kiang, the shimmering white arch of the moonbow rose the haunted waters.

Tôi đã tư lự về mù sương tỳ hải châu quận chiêm bao kia nhiều hơn như tôi tưởng. Những ngôi nhà kỳ ảo mốc meo xám xanh lơ xanh lục, in rêu ngầm lún phún, thường xuân đằng kiều diễm, bạch anh dàn lưu ly, với những dằng dặc dãy rừng phong liên miên tượng liên miên tượng thụ, vấn vít bốn bề ba phía bốn xung quanh. Mặt ngọc hồ nguy nga nào tinh khiết thế, cho đến nỗi những ngư ông ngư phủ đã thơ ngây báo biểu rất mực rằng, nhìn đăm đăm vào ắt các anh sẽ thấy có những Đô Thị Phiêu Bồng Huyền Thuyết Cổ Hy vụt nhô lên bất chợt bởi thần thuật Đa Na Ô kỳ bí, ở diện tiền bọn người hì hục lao công, hồ ngọc ôi, ngươi quyến rũ dã man gì thế, khiến hằng hằng mỗi mỗi cường quốc nọ cứ lăm le muốn chiếm hữu đất đai xứ sở kia cho bằng được. Kim tự tháp và những chóp nhấp nhô tiêm đỉnh, thảy thảy đều lộ diện ra đó kia, nếu như bạn có rất mực cái mắt nhìn của làn lục my thanh nhãn, nói theo ngôn ngữ của ngạn ngữ thói thường: Và ôi những thành trì, những thiết bảo! Ôi những hào lũy những mê cung. Và dọc mép hải tân diên tần hải thúy của kim hải chon von, còn tròn xoe rừng phong tượng thụ, tụ thượng thù du trùng dương tiết, thạch lựu hoa lòa xòa đi với những vườn tược lê táo đâm bông chất chồng chen lấn và những nõn nà xum xuê thanh lục tuyết bạch phiêu nhiên phiền sương phương trượng cờ phướn tử trúc lâm, cung cầm ba la mật. Và những ngư phủ phiêu bồng lật đật xô ghe ra vạn lý viễn khơi, chạy theo đuôi con kình ngư, con cá mộng, con cua đỏ, con hồng tôm, con thanh ngư, con thúy lục, con hồng vàng tụ từ thạch thượng tam sinh, lúc bình minh trở cơn chiều cho hoàng hôn xuống bong. Lúc sơ đầu cổ độ ngong ngóng vọng theo làn nước chảy xuôi. Ôi những hàng liền cánh tỵ dực ô nha từng loạt tung bay về tổ tại liên tồn thường trụ trong rừng tía hột sát na chan hòa khuynh thành một thuở kim cương. Ôi vong hồn sơ khai ba la mật. Bật là mà? Bà là thế như nhiên như vậy chứ? Những con sa điêu, những con thạch điểu những mùa đông vụt cánh tung lên trời từ hồ nước lạnh giữa lách lau lá hoa cồn lạnh lẽo tê cóng mong gì bốc hơi thiên hương ra được nữa. Vụt cánh tung lên? Với tiếng kêu rè rè trong âm thanh sầu muộn. Và dưới tuần trăng viên mãn nguyệt nguy nga và tuyết băng bạch ngọc, sương giá mơ hồ, con hồng nhạn huýt một thanh âm, con thiên nga vèo một điệu đáp, con vịt trời vút một tiếng tương ứng long lanh. Thì hỡi ôi! Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể. Đôi phen trong tĩnh dạ, chợt xảy ra một trận huyền nhiệm lãng tinh dưới một vùng của yên hoa nhị nguyệt, lúc một ánh bạch vân phù động lướt qua bay về phía trời tây, khởi từ viễn khơi Thái Bình Dương thúy lục tới con nước tại giang đầu dương liễu Dương Tử Giang… Thì cái cung vàng lấp lánh trắng bạch ngọc băng của thềm cung ngọc thỏ bỗng nhô lên lồng lộng trên mặt nước lởn vởn những oan hồn về đú đởn cuộc dã man. 

Hỡi ôi!
Lời tối hậu! Ý tuyệt trù 
Bỗng dưng chắp nối cho sầu ma hoang 
Lời thăm thẳm? Ý khôn hàn 
Vì đâu riêng tụ về hàng thơ điên. 
Bán khai nhân vật diện tiền 
Sương lung bán ẩn suốt miền cảo thơm. 
Chiều chiều chân mật vi hôn 
U nùng hậu diện linh hồn chẩm ma? 
Diễm kiều ghé lại mà ra 
Dặn dò 
Dưới nguyệt 
Hay là dưới sương?

This region of white clouds and red-blossomed trees could not but make my heart wish to linger longer. Anon a wistling wind struck my ears, and looking up into the sky I saw only the old leaves fluttering downwards from their branches. My heart felt rather startled with the realization that clear skied autumn had almost gone; and without knowing it my heart became filled with uneasiness as if were harboring heavy sorrows. My mother was attending to the baggage at this time.

Chốn đất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng khiến lòng tôi dùng dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi. Chợt nghe thoảng một ngọn gió vi vu bên tai, tôi ngẩng mặt nhìn lên trời, chỉ thấy những lá úa lìa cành, vì vèo rụng xuống. Trong lòng chợt tủng nhiên sực nhớ ra rằng mùa thi thanh thúy đã hầu tàn. Chẳng rõ vì sao, chẳng biết đâu chăng nhẽ, lòng tôi bỗng thấy u hoài bang bạc mang nhiên, như mang chứa những sầu muộn nào chồng chất. Nghĩ rằng mẹ tôi lúc bấy giờ đã xếp đặt xong xuôi hành trang ly biệt. 

Chợt vẳng nghe từ cõi nào xa xuôi vô hạn, một âm thanh tin yêu đằm thắm của một thời đại huy hoàng nào về hẹn mai hậu mai sau trong một lời ban sơ ướm thử…- “Then as soon as you appear I shall have you sworn as a Pursuivant of the Great Seal, or as they call it, one of the King’s Chief Messengers. That is the best thing for you. And now, thank you for your coming. Tonight I drive to Mnemosyne’s Land…” 

“Rồi chừng đó, chàng vừa hiện, thì tôi ắt sẽ yêu cầu chàng tuyên thệ rằng mình là như một… một Kẻ Thị Tòng của Thượng Thừa Quốc Tỷ, hoặc như thói thường thiên hạ nói: Một trong những Sứ Giả Thượng Thặng của Ngọc Hoàng từ Thanh Cấm Nguyệt về hồ sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân. Đó là sự vụ tót vời đẹp đẽ cho anh. Và giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự về Miền Cõi Mnemosyne”. 

Còn tôi? Tôi bây giờ? Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên “Thoái Nhàn” để gặp lại đứa em gái. Tôi cử bộ nhi hành. Một hai… Một… hai… bước tới chỗ thạch lan kiều thượng, chợt nghe tiếng vỗ phần phật của một loại thạch tựu trường quần duệ địa đa mang. 

Trong khoảnh khắc khôn hàn sát na gay cấn, hương phong tứ dật, quốc độ mười phương vân yên phức úc hỡi ôi! 

Em nói anh nghe tiếng lẫn lời
Hồn em thở ở trong hơi 
Miệng cười bừng nở hàm răng lựu. 
Sáng cả mười phương một góc trời

In a short time sweet odors saturated the air about me. And I suddenly saw the lovely girl, charmingly attired, and advancing with airy steps as if wafted hither on a breeze.

Em đi về như mây núi đầu xuân
Gió bay qua nước chảy suối vô cùng 
Mừng như thể hôm qua về đồng nội 
Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội 
Để bây giờ còn một mối riêng tây 
Lời nhân gian không tiếng để phơi bày 
Kim cương mộng như trăng mờ bát nhã 
Mưa thúc giục như bình minh vội vã 
Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa 
Lá xanh xao như cành nhánh gật gà 
Và thánh thót đến cây già tùng bách 
Anh lại thấy một trời xưa đã mất 
Đã đi về cùng với gót chân em 
Đã đi qua cùng với cánh tay mềm 
Anh mở miệng không nói lời nào cả 
Vì bất chợt thấy môi cười em ạ 
Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau 
Vì vu vơ vui sướng gió pha màu 
Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát 
Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát 
Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay 
Em đến bên anh ghé sát mi mày 
Và cũng sát cả mày mi ghé sát 
Anh tự hỏi phong thu lác đác 
Hay thu rừng phong lổ đổ sương thâu 
Rừng thiên ôi vạn đại chớ pha màu 
Nhiều như thế cho ngưòi thêm khổ nhọc 
Con kim báo một phen vì cô độc 
Đã nhe răng và mỉm miệng cười thầm 
Trong mộng ước một phen nào bắt gặp 
Hồn tủy xương sư tử đủ hai lần… 

She was several paces from me when she turned her eyes in my direction and, with languid leisure, exchanged glances with me.

“Đãn kiến ngọc nhân thu trang, thiên nhiên phiêu cử nhi lai, khứ dư cẩn sổ vũ. Nhứt hồi thanh phán, từ từ dự ngã mâu tương chúc hỹ… Dư tức túc nhiên cúc cung chí kính…” 

Chợt thấy ngọc nhân Tĩnh Tử Thu Trang, xiêu xiêu lệch lệch, phơ phất tới bên, đạo hạnh luống dường Như Lai Bồ Tát. A nậu đa la tam niệu tam bồ đề, cùng tôi cách nhau khoảng chừng mấy chục bước rưỡi. Chợt quay mắt xanh, nhìn tôi một cái. Chậm rãi thong dong, rã rượi khôn hàn, đầu mày cuối mắt, bãi động tương thân. Tôi định tới gần, bỗng dưng dừng lại. Cung cung kính kính, xá một lễ dài. Đếm một ra hai. Tồn liên lá cỏ. Lá cồn rạng tỏ. Sương liễu đằm đìa. Là sớm hay khuya. Hay là lúc đó. Là về giữa ngọ. Hoặc giữa bình minh. Gay cấn tự tình. Như chiêm bao đứt nối. Chắp lại làm sao. Giậu rào ôi hỡi! Có nghe cây thổi. Trúc gió thế nào? Nữ lang hồng đào. Hay là hồng lựu. Thạch lựu tường quần. Bồ quân bánh mật. Ngà ngọc quân thiên. Diện tiền Nam Diện… 

Vâng. Vâng. Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng không đến nỗi lo âu mà cúi mặt. 

-Although the dainty girl’s cheeks were flushed on this occasion, she did not appear to be so bashful as she had been on the previous occasion when she felt so shy that she did not know what to do.

Mặc dầu má hồng e ấp cũng có ửng đỏ lên chút ít trong cái cơ hội gay cấn khôn hàn nọ, nhưng dù sao nường cũng không có vẻ quá thẹn thuồng như ban sơ buổi mới, đến nổi cảm thấy lóng cóng luống cuống cả tứ chi, không còn biết mở miệng ăn mần răng nói mần răng với máu me ở trong mình mẩy rục rịch dập dồn. 

At a glance I perceived that she desired to speak but said nothing.

Dư thiểu chúc, giác ngọc nhân tợ dục ngôn nhi vị ngôn” 

Tôi nhìn thoáng qua, biết rằng người ngọc dường muốn mở miệng nói điều gì, nhưng ngại ngần chưa nói (chẳng nói gì cả). 

Tôi càng bối rối luýnh quýnh khôn hàn trong cái cơn dẽ giun tao phùng cầy sấy kia đó ạ. Ôi em Kim Cương ngàn thu một thuở, Nương Tử rất mực vô ngần Nam Diện cành Nam màu lan sơn thủy sơ khai tại sơ đầu cổ độ, cổ mở ra hoa đà đún đẩy, sơ hở một đôi phen lăng tằng phôi dựng rất mực, một ù lỳ, hai sàm sỡ, ba bốn dục trích sàm diên bên phi tuyền xuất sơn vẫn muôn vàn thanh thúy thẩm thúy hằng miền cõi một Đa Mang. 

My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to do. I could only lower my head and gaze at the ground.

Tôi bối rối một cơn rối bối đến cái độ hãi hung hãi sợ nhiên là khiếp đảm tán phách phi hồn, đảo tứ điên tam đa tàm nhị bội. Tôi vụt nhảy lùi ra sau một bước rưỡi chẳng còn biết ăn mần răng nói mần răng vào cái lúc đó bấy giờ. Tôi chỉ còn biết cúi gầm cái đầu bù tóc rối của tôi xuống, nhìn chi trên đất nhạt cỏ mọc tùm lum liên tồn lá cỏ? 

Sau một lúc lâu, thật là lâu liên tồn rất mực, chợt trên đóa tàn cúc một vật gì lấp lánh trước mặt tôi, phiêu phiêu phiêu nhiên như phấn điệp, lửng lơ phù động sắp vụt bay đi. Bay đi đâu mà dùng dằng nửa đậu nửa đi như thế? Hỡi linh hồn tinh thể mù sương! Tôi vội vã tiến bước tới đưa tay bắt lấy. Mới hay rằng đó là tấm màn lụa long lanh như cánh ve mùa thu động đậy, vốn ban sơ nằm ở trên đầu tóc của ngọc nhân, rồi sau đó ngẫu nhiên chẳng rõ vì cớ chi mà lập lòe bay vút. Vừa cầm vào trong tay, đã vừa có ý muốn quẳng nó ra xa. Lại nghĩ rằng làm như rứa e đắc tội với lễ tiết trung dung. Tức thì tôi ngẩn ngơ một cái. Đưa tay ra toan đặt tấm lụa vào năm ngón ngọc nhân. Ngọc nhân tri ngộ sự tình, tức thì thể thái thong dong, thần hồn chậm rãi, bèn đưa hai vòng tay ngọc ra tiếp đón lấy tấm lụa ngà. 

Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng: 

-Đa tạ Tam Lang đại ân đại đức từ bi vô lượng biến bố khắp mặt chúng sinh mười phương quốc độ. Không có Tam Lang ra tay tế độ, thì vong hồn tinh thể tiểu muội e đã đi đời cửa quỷ nhà ma. 

Môi đào thỏ thẻ hé ra nói mấy lời từ bi như thế, lập thời tôi nhận ra tỷ mỷ rằng đó là lần ban sơ duy nhất của ngọc nhân ngẫu nhiên từ bi mở môi đào ra lần đầu tiên ôn tồn thỏ thẻ. Hai vành tịch hạp rất mực anh đào, kể từ đó về sau liên tồn tiếp tục mà mọc cỏ trổ bong hoa. Ban sơ trổ he hé hàm tiếu vén xiêm. Dần dà trổ rộng thong dong thoải mái theo du trường tuế nguyệt. Từ đó tôi tự niệm đậm đà giữa cuộc ở trong cơn mà thể hội thường hằng nơi chốn cư lưu của từ bi một vùng đeo đai Thanh Cấm Nguyệt. Nữ Lang Nương Tử đã đi về gieo rắc hồng ân chan rưới xuống khắp hình hài thân thể máu me xương xẩu tôi. 

Tuy nhiên? 

Tuy nhiên trong ban sơ lạ lùng buổi mới đó, với cái ân huệ di dư thành khẩn khoản đãi kia, cũng đồng thời khiến cho tâm khảm là đà lay lắt của trái tim tôi càng keo sơn sắc mắc se sắt dị thường cơn rục rịch, và chẳng biết phải thốt ra cái lời gì tương nghi tương hợp với linh hồn mồn một chan rưới hồng huệ xuống cho tôi để có thể gọi là đền bồi một cách thích đương hoặc là thích đáng. 

Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch. 

If Shappho were to come to life again, she would not possess such artless beauty.

Giả như mà Shappho trùng sinh trên tam sinh thạch thượng, ắt là nường cũng hẳn nhiên không thể nào có được hoặc sở hữu được cái dung nghi kiều lệ thơ ngây thuần phác thiên nhiên nọ. Hỡi ôi! Bình sinh tôi đã chết, tại hạ đã ra ma hai phen rồi, sao lần này còn đeo đai định chết lịm trong trận trầm túy nịch nhân kia cho đủ bốn lần bấn loạn, thế là nghĩa lý gì như vậy đó chăng ru? 

This moment was enough to derisive one out of his senses.

Khoảnh khắc sát na thiểm động bôn đằng kia đã đủ để nhiếp dẫn con người ta ra khỏi vòng của linh hồn thông tuệ để nhập vào cõi hồn xiêu phách lạc đảo tứ điên tam. Sao gọi là tam? –Tam sư muội ấy là tam? Tam chanh tam quít, tam cam cõi lòng? Không biết. Không biết. Không biết. Thưa rằng tại hạ không dám biết. Dẫu rằng chiêm bao lẽo đẽo biết có dám lắm chẳng nhe? 

The lovely one inclined her head to one side for a time, and let out soft, gentle mysterious murmurs.

Đúng là biết ra như thế đó. “Ngọc nhân tầm phục phủ kỳ cảnh, thổ uyển diệu chi âm…”. Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh…”vi vi ngôn viết” rất mực mà rằng: 

-Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng? Chốn Đậu Tử khí hậu ôn hòa, em thật lòng tơ tưởng tới viếng thăm phong cảnh ấy, phụng yết anh hoa phong vận phát tiết bao giờ, nhưng mẹ ở nhà công việc bề bộn quá, em chỉ sợ năm nay chưa thể trừu thân đột xuất phụng bồi lưỡng nghi tịch hạp. Vùng đất đai này so với miền Đậu Tử kia ắt nhiên cũng một thể thái thanh nghiêm u nhã thúy triệt một như nhiên mà thôi môi thà ra cũng thế vậy. Duy có khí hậu là khác nhau thôi. Một bên cứng, một bên mềm vậy. Ấy bởi vì mềm này ở tại ở trung tâm núi non cấm địa vậy. (the clear atmosphere and quiet of this place, compare with that of Hakone, is the same; but the climate is altogether different, for Hakone is in the heart of the mountain). 

Đường nhân vịnh La Phù thi vân: 

Du nhân mạc chước đơn y khứ
Lục nguyệt phi vân đái tuyết hàn
”. 

Người đời Đường vịnh núi La Phù có thơ rằng: 

Khách đi, áo mỏng mặc vào
Liệu chừng chớ thế mà hao tổn mình 
Mây bay tháng sáu rập rình 
Mang về gió tuyết biên đình lạnh ghê
”. 

(The Tang poets wrote of Mt. Lo-Fu, saying:

“Excursioners should not wear light clothes to this spot; the flying clouds of the sixth moon carry the chilliness of snow.”…

Miêu cương mạc ngoại sở tề
Song đôi là thói đề huề thể thân 
Xin người anh hãy lại gần 
Tiền trình vạn lý vô ngần có em
” 

“Ngô tư thử ngữ di dụng ư thử, phạ giác thân thiết hữu vị. Vị tri Tam Lang dĩ ngô ngôn hữu đương bất?” – Em suy gẫm cái lời kia đem dịch di sử dụng vào cuộc này, coi chừng như có phần thân thiết mùi hương đậm đà ý vị. Chẳng biết anh Tam Lang xét lời em có thích đương hay chăng? 

When I heard the lovely one’s allusion, I felt strangely startled, and merely muttered to myself, for I was unable to frame an answer.

Nghe ngọc nhân âm thầm chỉ định ôn tồn ra như thế, lòng tôi liên tồn kỳ lạ kinh hãi, máu me nổi da gà ra ngoài da vịt. Chỉ còn biết ấm ớ dấm dớ lời không thốt ra ngoài môi đáp ứng gì được cả. Lâu một chặp sau đó (sau đó một chặp), tuy nhiên tôi vẫn cung kính nói được ra cái lời: 

-Đa tạ cô nương phân thần cập ngã. Cô nương rộng lượng từ bi ra như thế chan rưới mưa móc liên tồn cho tại hạ, mà cam lòng chiếu cố một phen luống những tới hàn gia hàn xá ở mé tây thiên, thì than ôi, để cho tại hạ được có phen sớm hôm phụng bồi tả hữu phía trước và ngay cả phía sau, những lần bận bận phen phen nào chúng ta tạm mở cuộc với nam hải điều đồ mà thùy luân ư hoang thôn hàn dũ. Vạn hạnh thay vậy! Thiên phước vậy thay! Phước hạnh thay vậy. Hạnh hà như chi! Chi như hà hành? Hỡi ôi! rất mực hạnh hà! Đến điều tinh thể sao là bỗng dưng. 

Canh rau muống dĩa muối vừng
Một hôm nằm mộng nghe mừng hai hôm 
Chiêm bao phố thị hội đàm 
Với trăng châu thổ gái chàm đã qua 
Xứ chiêm thừa thãi giang hà 
Dư vang để lại cho nhà cửa xin 
Dâng lời vô hạn oan khiên 
Lời điên tiếng dại câu chìm lặng câu 
Dập dìu thiên nữ hồi mâu 
Há rằng hư sự sơ đầu tiểu khê 
Thế ru? Là rứa chẳng nhe? 
Ấy rằng các hạ có dè cho chăng 
Đến điều rất mực lăng tằng 
Mephistopheles hằng dửng dưng 
Hà tư hà lự luống từng 
Hà thanh hà lục vang lừng van xin 

-I thanhk my sister for wasting her thoughts and vitality upon me. If my sister should condescend to come to my humble abode (hàn xá) what greater fortune could her young brother desire than to wait on her day and night while dropping our fishing lines from the wall windows of remote village… 

_ “Tạ a tỷ phân thần cập ngã! Quả a tỷ kiến uổng hàn xá, tỷ trĩ đệ triêu tịch đắc thị tả hữu, thùy luân ư hoang thôn hàn dũ, hạnh hà như chi! Phủ tắc hàn xá đông tây thi tập bất thiểu, diệc khả khiêu đăng phi tuyển; a tỷ đắc vô hiềm nhuyến trần hỗn nhân? Cảm vấn a tỷ hỷ tụng thùy gia thi cú da?” 

Nếu như a tỷ chẳng muốn cùng tại hạ mở cuộc chơi câu cá mò cua, thì ắt nhiên rằng là tại hàn gia cũng có khá nhiều không ít những thi tập Đông Tây văn chương Trung Hoa Âu Mỹ. Thì a tỷ cũng có thể thong dong thắp đèn khêu ngọn mà châm mồi lần giở cảo thơm ra. A tỷ nếu như chẳng hiềm ố kẻ phàm phu tục tử? Thì dám xin hỏi a tỷ thích đọc tụng thi văn của trung thi văn của trung niên thi sĩ nào? 

Ngọc nhân đê đầu ngưng tư, tuyền tức tinh mâu chúc ngã… Người ngọc cuối đầu trầm tư xong quay đôi con mắt lãng tinh nhìn tôi mỉm cười mà rằng: 

-Trước nay em vốn thường đọc thơ của Bùi tiền bối Trần Hậu Sơn, và cũng yêu chuộng thơ của Bùi hậu bối Lục Phóng Ông. Duy chỉ có điều ấy là có những phong vận xa xôi đau đớn của cố quốc cố hương, lệ ngấn đầy trang giấy, khiến lòng kẻ đọc bi thiết quá chứng. Rồi sau này em cũng có đọc Trang Tử và thi ca Đào Uyên Minh, thì cũng có được thường dương thế ngoại mà dìu dắt tiêu dao du chút ít chút nhiều, cũng có thể nhận ra rằng sách vở tư tưởng kia có quan hệ với tính tình con người ta chẳng phải là ít. Tam Lang có xét thấy cái rương đựng sách của em có chứa nhiều tác phẩm triết lý, sách đó đều là của bậc di thần triều Minh Gia Tĩnh là Chu Thuấn Thủy tiên sinh đã di tặng cho vị viễn tổ của em là ông An Tích Công. Nhân vì An Tích Công (Ông Tích Can, thuở bấy giờ tham sự chính sự Đức Châu, đem lễ nghĩa đệ tử mà đối đãi với Chu Công (coi Chu Công như là sư phụ của mình) nhân vì thế mà gia đình em được thừa thụ ân tứ của Chu Công vậy. Gia đình em cất giữ những sách vở đó kể ra đã có tới hơn hai trăm ba mươi năm trời rồi. 

Nàng thốt xong câu đó tôi kinh ngạc trố mắt nhìn đăm đăm. Ôi con người ngọc. Ôi ngà ngọc con người! Phong vận tiêu dao, nền phú hậu bậc tài danh ra như thế! 

Người ngọc nói tiếp mà rằng: 

-Thuở em còn nhỏ nghe ba em nói về di sự Chu Công, cho tới ngày nay, em còn nhớ rõ mồn một. Em này đem thuật lại cho anh Tam Lang nghe. 

Hỡi ôi người ngọc! 

Em nay đem ra thuật lại cho anh nghe? Để làm chi như thế? Để làm thế như chi. Như chi thế để làm? Làm thế để như chi? Hỡi ôi! Em lầm lẫn mất rồi hỡi em người ngọc ạ! Anh có đáng vào đâu mà được nghe cái lời em nay đem ra thuật lại về cái sự tích phong vận kia? 

Vĩnh biệt thôi! Hỡi vô ngần nương tử.
Từng cơn mơ anh kinh hoàng dị thường 
Em thì đẹp thanh tao cổ nguyệt tự, 
Anh quyền gì gạ gẫm chuyện uyên ương 
Anh đánh mất suốt càn khôn vũ trụ 
Em để dành đầy đủ trụ càn khôn 
Anh điên dại chui vào không chỗ rúc 
Em lầm sao! Mà hạ tứ liên tồn 
Lần hạ tứ đắp xây trên lầm lẫn, 
Đi đi em, đừng đứng đó đa mang 
Trong mộng ước nhiều phen anh lẩn thẩn 
Sịch mành ra ôi đã lỗi muôn vàn 
Đầu tóc rụng bốc tia sơ đầu dậy 
Gọi sơ nguyên về hiện tại điêu tàn 
Tóc đầu rụng bốc hơi buồn lẩy bẩy 
Phận giẻ giun ôi cầy sấy khôn hàn! 

Trong khi tôi đờ đẫn co ro lẩm nhẩm nhậm gấm cái kinh hồn tư lự oan nghiệt của mình ra như thế, thì người ngọc đã thở một hơi dài ảo não, bi thiết mà rằng: 

-Năm Sùng Trinh thứ mười bảy (tức là vào thuở trong nước em Chính Bảo nguyên niên), lúc rợ Hồ ùn ùn nổi lên đánh phá, thì Chu Công thân một mình bôn bá đáp thuyền qua Trường Trĩ (Nagasaki) muốn chiêu tạp binh đeo đuổi cứu cánh phò vua giúp nước. Nhưng rốt cuộc chẳng thành. Chí nguyện tiêu ma. Đến thuở Vạn Trị tam niên, thì xã tắc nhà Minh nghiêng ngửa. Chu Công làm kẻ di dân của vong quốc, cảm thấy xấu hổ không thể ăn hột thóc nhị triều, nên đành cam lưu trụ Trường Trĩ, vì chốn đó ở tiếp giáp với miền Bình Hộ (Hirato) là nơi chôn nhau cắt rốn của Trịnh Thành Công. Về sau, Đức Xuyên (Tokugawa) nghe tin, bèn phái Thủy Hộ nho thần đem lễ vật tới mời về giữ chức tân sư (khách thầy). Cảm niềm tri ngộ, Chu Công bèn đem học thuyết Vương Dương Minh mà truyền dạy trong xứ sở em. Chu Công và Vương Dương Minh vốn là bạn đồng châu, sinh cùng làng. Cho tới ngày nay, Chu Công di mộ vẫn còn tồn tại ở Thứ Thành huyện, Cửu Từ quận trên núi Quận Thuyên Long (Mt. Dzuiryu, Ibaraki Judji). Một ngày nào thong dong thư thả, em sẽ dẫn đường anh Tam Lang tới tế mộ bậc hiền triết kia, gọi là an ủi cái vong hồn trung quân thời vong quốc, Tam Lang đồng ý chăng? Em cũng còn nghe thêm rằng Chu Công vốn yêu quý hoa anh đào, nay tại vườn Hậu Lạc Viên ở Tiểu Thạch Xuyên, Giang Hộ (Koishikawa, Yelo), vẫn còn lưu lại niềm di ái của Chu Công tự tay trồng trọt và vun quén ngày tháng. Chu Công lìa đời vào năm thứ hai triều Thiên Hòa (Tenwa), hưởng thọ tám mươi ba tuổi. 

Chu Công khinh bỉ nhà Thanh, ghét như cừu thú. Bình nhựt ông học tiếng Nhật Bổn, sau rất thông thạo, sử dụng thật linh hoạt. Nhưng vào lúc lâm chung, mọi lời Chu Công thốt ra là Hán ngữ. Vì lẽ đó nên không một ai nghe những lời thùy huấn của ngài trước khi vĩnh biệt trần gian. Thật là điều đau xót vậy. 

Nàng nói xong, ngẩng mặt lên trời than một tiếng. Lòng tôi cũng buồn vô hạn. Hai đứa đứng im lìm một chặp (mặp chột). Chỉ nghe tiếng gió thổi hiu hắt, chợt một chiếc lá hồng rơi xuống nằm lại trên vai nàng (vang nài). Nàng nhíu hai hàng lông mày (lay mồng) một cái, tợ hồ như có điều chi không mãn nguyện. Rồi nàng cúi đầu thấp giọng mà rằng: 

-Tam Lang, sáng mai đi sao? Sao không ở lại thêm nữa? Em từ ngày cha mất, bỏ bê học hành đã lâu, Tam Lang ở lại, thì em có thể nhờ anh giảng giải giúp những chỗ khó khăn liên tồn gay cấn trên trong sách. Tam Lang nếu không xem khinh bọn nhi nữ chúng em, thì dẫu tuy em điêu linh, lòng cũng thỏa mãn. 

Nghe nàng nói chưa dứt câu, mặt mày tôi đã nóng ran, đỏ tới mép tai. Cúi gầm cái đầu xuống. Muốn bày tỏ một vài lời thành khẩn mà tìm không ra lời nào cả. Một chặp lâu sau mới ấp úng mà bảo rằng: 

-Mẹ tôi bảo ngày mai phải về. A tỷ thân thiết nói như thế, tôi rất cảm kích. 

Lúc bấy giờ em gái tôi bỗng hiện ra tại hành lang. Vừa bước tới vừa gọi: 

-A tỷ không thấy rằng em đã vận áo kép rồi sao? Cơm chiều đã sắp dọn sẵn. Sao chị chưa về phòng ăn? 

Tĩnh Tử nhường lối cho tôi đi trước, rồi theo gót tôi vào nhà. Buổi ăn tối đầy rẫy món ngon vật lạ, nhưng tôi mơ mơ hồ hồ linh hồn chẳng biết mùi vị ra sao. 

Ăn xong, tôi ủ rũ ngồi ngoài mái hiên lầu gác, suy gẫm hoang mang về cái bữa nói chuyện hôm nay, lần đầu tiên nhìn thấy cái ngọc nhân thiên chân trình lộ… chẳng những nhan sắc phi phàm mà tâm hồn và học vấn cũng sâu thẳm xuất chúng. Thì cho dẫu là Ô Xá Tiên Tử giám thủ thiên môn cũng chưa dễ dàng mà hơn được nàng mấy chút. 

Tư lự như thế, chợt ngẩng đầu thấy vầng trăng lòa xòa mọc ra ở giữa trời cùng với vài ngôi sao xum xuê thưa thớt. Khe khẽ ngâm một vần thơ của Ức Ông: 

Thiên nham vạn hác vô nhân tích
Độc tự phi hành minh nguyệt trung
” 

(There is no trace of man among the thousand peaks and ten thousand valleys. I fly about alone in the bright light of the moon…Càn khôn không dấu tích người. Ngàn tầm vạn cốc một trời mênh mông. Phiêu phiêu dưới nguyệt dậy lừng. Một thân vu vút ngàn tràng hoang liêu). 

Bỗng dưng những sương tuyết phiêu bồng từ vạn đại kiếp nào chợt hiện về lù lù khắp mặt. Tôi bỗng nhiên hoài niệm một hình bóng lang thang nào của một thằng bé mồ côi đi lạc đường. Nó đã chết một phen. Rồi sống lại? Rồi chết trở lại? Cái lần tối hậu sinh nó ra như thế nào. Ôi tuyết giá ngàn xưa. Thật các ngươi có còn nhớ ra như thế với ta chăng? chợt nhớ tới bài thơ của thi sĩ Tây phương nào quên mất tên như thế? 

The snow came down like stars tonight. 
Over the city silently. 
The air, like and great glittering tree, 
Bloomed noiselessly with light, 

Đêm nay tuyết xuống như sao
Trên thành phố lặng âm hao không lời 
Thiên không lấp lánh rạng ngời 
Một vùng như thể cành giao cây quỳnh 

I thought, it is the snow I see 
Like stars. And it was long ago 
That ever I saw the stars like snow. 

Lòng suy gẫm, tuyết băng tôi thấy
Giống ngàn sao lấp láy suốt trời 
Đã bao xa đã bao giờ 
Ngàn sao tôi ngó mà ngờ tuyết sương…

And I thought of a boy, along time dead, 
Who dreamed such beauty out of pain 
That music moved within his brain 
And the stars stormed about his head 

Và tôi nghĩ tới một đứa bé kia từ lâu rồi đã chết.
Đứa bé kia từng đã mộng chơi vơi 
Những kiều diễm khôn hàn từ đau xót 
Đẹp vô ngần như nhạc trổ lừng xoang 
Trong tâm não muôn vàn phù động ấy 
Và ngàn sao vi vút bủa vây hàng…

His ghost is like the wind, I said, 
That cries into the crystal gloom 
And wanders where the white clouds blow. 

Hình ma ấy cũng như là gió
Gào kêu trong hắc ám lộng pha lê 
Và trôi dạt lang thang theo bốn ngõ 
Bạch vân dàn vi vút khắp sơn khê

And I shall hear his song, I know 
Wherever the boughs of silence bloom 
With snow like stars or stars like snow 

Và tôi nghe những lời ca ngâm ấy
Của bé con, tôi biết thế, khắp nơi nào 
Mà cành nhánh của tịch liêu trổ lá 
Trổ hoa tràn, với tuyết bạch như sao 
Trổ hoa lá của hoang liêu tĩnh dạ 
Như ngàn sao giống sương tuyết đêm nào

Tôi lại lẩm nhẩm lời thơ Ức Ông: 

Thiên nham vạn hác vô nhân tích
Độc tự phi hành minh nguyệt trung
” 

Lòng như trải rộng ra khắp không gian. Nhìn trăng trầm tư mãi thật lâu, quay lại thấy ngọn đèn tim bấc tuột. Đèn tàn bấc lụi. Thế ra đã khuya lắm. Bèn cởi áo ra chui vào giường nằm ngủ. 

Lại thở dài lẩm nhẩm “Đêm nay trăng hoa như nước. Nước như trăng sương. Biết đâu ngày mai mây gió u ám lại chẳng kéo ùa về?”

Tôi lưởng vưởng bê tha như thế chợt nghe ẩn ẩn tiếng sấm vang, dường như phát từ bờ ao phù dung ngoài kia. Lòng tôi đã bê tha, nhân thế mà ngày càng thêm bê bối lai rai dây dưa dằng dai không dứt. Lại thở than mà rằng: 

-Mây ôi, sấm ôi, sét ôi, mưa ôi, tuyết ôi, bao nhiêu thứ ôi chẳng qua chỉ thật là ôi một. Bất quá chỉ vì nhiệt độ khác nhau mà nảy sanh ra đủ thứ. Thật ra mọi thứ mây ôi mây ư, mưa ôi mưa ư, sấm ôi sấm ư, tuyết ôi, tuyết ư, thảy thảy mọi mọi ư ư ôi ôi, đáo cùng vẫn chỉ duy có một một ôi ư ư ôi mà thôi vậy. Thì từ đó cái cô nương ôi, cái nương tử ôi, cái nuồng ấy ôi, dẫu ôi rằng là Kim Cuôông, hoặc rằng là Kiêêêm Cuốốống, hoặc Cuốốống Cuồồồng chàng Kim, thì chung quy cũng chỉ một Nuồồồng là Thúy nọ vốn có phen từng đã ở truồng mà tắm hoa thang lan rũ bức gữa một mùa hè rực rỡ lập lòe lửa lựu ở đầu tường chính trong cái giờ vô hạn sát na mà tại Âu Châu Zarathustra đã một phen đi về giữa một vùng Gái Tơ Sa Mạc và luống đã là also sprach… Vậy chăng ru? 

Thì từ đó mà đi? Xin tạ thiên tạ địa: 

-“Đa tạ Thiên công, hạnh vật dĩ nhu tình yêu phược ngã”. 

Đa tạ Trời xanh, may mắn mong sau Hóa công đừng có dùng những sợi tơ mềm cỏ mượt liên tồn nào mà cột chân giò của tôi lại! 

Ngày hôm sau, điểm tâm xong, mẹ tôi bảo tôi vận áo phục lữ hành vào và nói thêm rằng dì tôi dẫn Tĩnh Tử cùng đi một chuyến. 

Tôi mừng khôn tả, tự nhủ rằng như thế thì tôi khỏi phải đau lòng đứt ruột vì cuộc chia tay. 

Chúng tôi lên tàu lửa, nhìn thấy trên khuôn cửa lưu ly còn in ngấn sương. Mẹ tôi và dì tôi liên tiếp chuyện trò, chỉ trỏ mây trời, chỉ cây cối, trông hớn hở lạ thường. Khoảnh khắc sau đã nghe gió trời sóng biển rì rào. Chẳng mấy chốc đã tới nhà. Từ đó trở đi tôi hằng ngày thấy mặt Tĩnh Tử, mỗi phen dạo gót ra đầu sân, cuối hè, mỗi phen thấy dung nhan nàng lãng đãng. Nhưng chúng tôi không nói chuyện gì nhiều, chỉ mỉm cười kính trọng chào nhau thôi. 

Một ngày kia, mưa phùn lún phún như sa mù, tôi đứng bên mẹ tựa lan can nhìn ra ngoài cảnh biển khơi, chợt nghe tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ. Người bếp vào mang bức thư cung kính trao cho mẹ tôi. Mẹ tôi vội vã mở thư ra đọc rồi cho tôi biết: 

-Tam Lang, đây là thư của chị con. Nó bảo ngày mai nó sẽ tới đây. Ấy cũng nhân chồng nó đi Đông Kinh ngày mai, nên nó có dịp rảnh về viếng nhà. Chị con thật cũng là đứa đáng thương cho thân phận lắm. Nói tới đó, mẹ tôi thở ra một cái rồi tiếp: 

-Ngạn ngữ có câu: “Dưỡng nữ đồ lao” há chẳng đúng ru! “Nuôi nấng con gái chỉ tầm ra những khổ nhọc mà thôi!” Một phen xuất giá theo chồng, thì con gái đành phải gác người thân thích ra ngoài cuộc. Phải đành quên gia đình cha mẹ thôi. Mỗi phen gặp giai tiết, muốn đi gặp lại mặt con gái, đâu có phải dễ gì. Sự đó mặc dù cũng là do công việc bề bộn mà ra, nhưng nói chung trong thiên hạ, tấm lòng đứa con gái vốn thường hay quên mất cha mẹ già. Xưa kia có một người con gái nhà nghèo, lấy được chồng giàu có. Cha mẹ đứa con gái trong lòng mừng thầm, nghĩ rằng như thế từ nay hai miệng ăn sẽ không còn chịu đói khát nữa. Ngờ đâu mấy ngày sau, đứa con gái sai người đem y phục cũ của nó trả hết về cho cha mẹ, lại dặn người ta nói lại cho cha mẹ kia biết rằng “Đứa con giàu có chẳng mặc quần áo của cha mẹ sắm cho ngày đi lấy chồng”. Ý nó muốn nói rằng đồ vật cha mẹ cho làm của, toàn là chẳng có chút giá trị gì. Người đời tâm lý như thế đó, há chẳng phải rằng “giang hà nhật hạ” hay sao? (Sông nước mỗi ngày mỗi rút xuống: con người ta cứ càng ô trọc thêm) 

Mẹ tôi nói xong, thì đem đặt phong thư lên bàn, rồi đưa mắt hiền từ nhìn tôi: 

-Tam Lang, sáng nay con rét lạnh không? Mẹ cảm thấy hai cánh tay lạnh cả. 

Tôi đáp: 

-Con không thấy lạnh. 

Mẹ tôi từ từ gọi tôi lại bảo: 

-Con hãy ngồi xuống. 

Tôi ngồi xuống. Mẹ hỏi: 

-Tam Lang, con nhận thấy Tĩnh Tử là người như thế nào? 

Tôi đáp: 

-Thông minh, đẹp đẽ, tao nhã, thật là cô gái hiếm có. 

Mẹ tôi có nghe tôi nói thế lúc bấy giờ bỗng lộ vẻ khoan khoái lạ thường. Bèn nói: 

-Thật thế! Thật thế! Thành nhiên. Thành nhiên… Mẹ cũng yêu mến Tĩnh Tử hết sức vì nó ôn hòa thùy mị, dung nghi tại hoa đầy đủ hết cả. Hôm nay mẹ có điều này nói cho con rõ. Con hãy lắng tai nghe: Tam Lang! Mẹ sẽ quyết ý đem con Tĩnh Tử về làm dâu, nghĩa là mẹ muốn rằng con Tĩnh Tử phải là vợ của con đó nhé. Chính thế. Chính thế. Tĩnh Tử lớn hơn con hai tuổi? Không hề gì. Không hề gì. Tốt nhất là: gái hơn hai. Tốt nhì là: trai sụt một. Bao giờ gái cũng phải lớn hơn trai hai tuổi thì cuộc vuông tròn mới khỏi lọt ra vòng ngoài bê bối. Trai phải nhỏ tuổi hơn gái, thì gái dạy bảo điều gì, trai mới chịu nghe. Chính thế. Con Tĩnh Tử thùy mị, thông minh, khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời, nó hơn con hai tuổi chính thế, thì tuy tình nghĩa vợ chồng, nhưng con hãy nên coi nó như là chị của con, thì ngày sau hạnh phúc gia đình mới bền vững. Con đừng đánh đập nó nhé. Nó giận nó đánh con, thì con cắn răng chịu đau, nhường nhịn nó nhé. Nếu con đánh đập nó lại thì chiếu giường sẽ xiêu lệch, còn ra cái thể thống gì? Vợ đánh chồng thì chồng phải nhịn. Nếu chồng đánh vợ thì vợ chồng còn đâu cái mô dạng thể thái vợ chồng. Bao giờ vợ cũng trước chồng. Vợ trước chồng sau. Sang giàu suốt kiếp. Vợ sau chồng trước? Mạt kiếp cơ hàn! Chính thế. 

Nhất vợ nhì trời. Chồng là trời. 

Thì chồng đứng hạng nhì là phải. 

Do đó: nhì chồng, nhất vợ. 

Con phải nhớ lấy lẽ đó nhé. Con đừng đánh đập nó nhé. 

Tôi đáp: 

-Con không đánh đập nó. Con không đánh đập ai hết cả. Tuy nhiên… 

-Tuy nhiên cái chi? Con đánh nó ư? 

-Không phải. Nhưng mà… 

-Nhưng mà cái chi? Để mẹ chẫm rãi nói, cho con rõ. Sao con cứ cắt ngang lời mẹ như thế. Con làm mẹ quên mất cái điều gì đã nói. À phải rồi. Một định nói cho con rõ là: kể ra, vợ lớn hơn chồng hai tuổi, thì kể cũng là hơi khó coi. Vả chăng năm nay con mới có mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi mà cưới vợ thì kể cũng hơi sớm quá chút ít. Nhưng mà mẹ đã nghĩ kỹ rồi. Ngoài con Tĩnh Tử ra, thì khó đâu còn có một đứa con gái nào vẹn toàn như thế. Hơn nữa, Tĩnh Tử mồ côi cha mẹ. Thì theo phong tục, con phải theo nó về ở một thời gian với gia đình nó trước khi thừa hưởng di sản của cha mẹ nó. Trong khi đó, mẹ có thể ở chung với dì con cho có bầu bạn. Dường như đó là thiên duyên xảo tấu. Hình như trời Phật đã an bài ngăn nắp đâu vào đấy. Dì của con cũng nhất thiết liệu định chỉnh tề nói hết mọi sự cho cuộc vuông tròn. Chờ tới sang năm, vừa khai xuân thì làm lễ thành hôn cho hai đứa con. Tới mùa hè thì mẹ sẽ dời nhà về ở Sương Căn. Sự việc này sắp đặt ra như thế, lấy tình lấy lý mà luận, thì cũng như con về làm rể nhà dì con. Dì con có được thằng rể là Tam Lang. Thì từ đó trong lòng dì con mới yên vui thư thái được. Dì con nuôi con Tĩnh Tử từ nhỏ, dì con cũng trách nhiệm rất lớn đối với nó, ngày nay Tĩnh Tử đã lớn, chẳng có lúc nào là dì con chẳng vì con Tĩnh Tử mà lo nghĩ gần xa. Mấy năm gần đây liên tiếp bọn trai tới cầu hôn tuy là nhiều, nhưng dì con không để tâm tới bọn đó. Cái ý của dì con chẳng có quan hệ cho tới cửa nhà gia thế bọn đó, mà chỉ liên can tới mối lo âu về chuyện tâm địa người đời, kẻ tốt kẻ xấu, thiện ác khó phân biệt cho ra, nếu gả bừa con Tĩnh Tử đi, rủi gặp thằng chồng bê bối, thì dì con ắt phải đau lòng, và lượng tâm ắt phải chẳng thể nào yên ổn được. Này dì con có được con rồi, Tam Lang ạ, thì dì con trút được gánh nặng trên lưng. 

Mẹ tôi nói tới đó, bi thương cảm động muốn khóc mà rằng: 

-Tam Lang mẹ già của con suốt một đời đau thương tịch mịch, ngày nay mẹ mới sắp được chừng kiến ngày vui hạnh phúc của con, thì mẹ và dì con mặc dầu tuổi già như ngọn đèn trước gió, cũng lấy làm an ủi trong lòng vô cùng. Mọi sự về sau, mẹ xin ủy thác hết cho thiên mệnh. Mẹ biết rằng Trời Phật thế nào cũng sẽ ban cho hai chúng con đầy đủ song toàn phúc tuệ. 

Trong khi mẹ tôi liên miên nói như thế, lòng tôi nghe tim phổi đập bình bình. Lúc mẹ tôi dừng lại, tôi bồi hồi kinh khủng, không dám mở môi đáp lời gì cả. Đang định đem hết mọi sự đã trải qua bày giãi cho mẹ rõ, thị lập thời lại thấy không ổn: sợ đem lại phiền muộn cho từ mẫu, không thể nào nói ra. Tôi suy gẫm lao lung lâu lắm, mắt tôi nghe rì rào lệ chảy ra. Mới thấp giọng mà rằng: 

– Này con có mấy lời bày tỏ, xin từ mẫu để tai nghe giùm… con đã quyết tâm… 

Mẹ tôi vội vã hỏi dồn: 

-Con định nói gì? 

Tôi đáp: 

-Con suốt đời sẽ chẳng lấy vợ. 

Nghe tôi thốt ra câu đó, mẹ tôi hãi nhiên đứng dậy trố mắt nhìn tôi… 

Còn tôi, lúc thốt ra cái lời khôn hàn nọ làm rụng rơi hết mọi hy vọng chan hòa nhất của mọi kẻ thân yêu, thì lòng tôi bất thình lình như rã riêng đi mất hết máu tim. Bất thình lình thì hồn tôi bị chiếm trở lại bởi một tình tự dị thường vốn từng đã lung trạo tôi suốt bao năm từ ngày còn bé bỏng. Ấy là cái trực giác dị thường về cái chỗ huyền ảo huyền hoặc của sát na. Nó thấm nhập tủy xương tôi như một thứ mù sương căm căm mơ hồ khôn tả. Mọi vật như đang xô ùa nhau quay chong chóng, trong khi đó tôi cảm thấy mình đứng lại trung tâm cuộc bão giông và tự hỏi: vì lẽ chi không thể vãn hồi mọi sự vụ? Vì lẽ chi cái vui đi qua? Cái buồn khổ cũng đi qua? Vì lẽ chi con chim nhạn bay ngang trời không để lại một đường rẽ trắng? Vì lẽ chi trận gió heo may thổi qua không viết rõ tâm sự mình vào cụm cây bên tam sinh thạch thượng? Vì lẽ chi giọt nước mưa rào long lanh như ngọc nằm trên chiếc lá tùng bách nọ không chịu rớt xuống vào giữa lòng bàn tay của tôi lúc tôi từ từ đếm xong một … hai… ba… bốn… tới mười? Mười? Là con số của viên mãn về giữa ngọ viên dung. Nhưng viên dung ở chỗ nào, nếu như trong cái sát na khôn hàn tôi thốt ra cái tiếng, giọt nước ở trên cành lam nhánh lục vẫn cứ còn ù lì lóng lánh ở trên kia? 

Bỗng nghe: 

-Con nói thế? Ồ! Là nghĩa lý gì? Con đã nhìn thấy cái gì mà nói ra cái lời như thế? Con đùa chơi? Con bướng bỉnh? Con cứng đầu? Con nói như thế thì mẹ còn hiểu đâu vào đâu được nữa? Con tới tuổi thanh xuân con không chịu lấy vợ, thì thiên hạ sẽ nói sao về mẹ? Dì con thương mến con, chẳng là uổng nhiên hết cả hay sao? Con hãy bình tâm nghĩ lại coi, cái lời con thốt đó, có thể nào để lọt vào tai dì của con được không? Huống nữa còn con Tĩnh Tử nó lại nói với mẹ rằng, trừ Tam Lang ra nó không để ý tới ai được hết. Lúc con ở nhà dì lâm bịnh, mọi thang thuốc do tay nó pha nấu cho con. Lòng nó yêu con đã chầy rồi. Mẹ thật không thể nào hiểu được bỗng nhiên nay con ngang nhiên lầm lì thốt ra cái lời cộc lốc như thế! 

Mẹ tôi càng nói càng lớn tiếng. Câu cuối cùng nghe như một tiếng thét đau xót dị thường. Tôi gạt nước mắt mà rằng: 

-Từ mẫu hãy bình tâm nghe con thưa rõ. Con sờ tim tự vấn, thì thấy mình yêu Tĩnh Tử dị thường, con coi nàng không khác gì da máu của con vậy, hoặc xương xẩu của con vậy. Con cũng kính trọng nàng, điều đó Tĩnh Tử trong lòng tất cũng rõ. Nay con bỗng nhiên thốt cái lời vô lý nọ, ấy chẳng phải là có ý phản đối mẹ và dì, ấy chẳng qua là do một mối khổ tâm bất đắc dĩ, mong mẹ tha thứ cho con. 

Mẹ tôi rầu rĩ không đáp lời nào cả. Lâu lắm mới gắng gượng nói: 

-Tam Lang con hãy nên nghe theo ý mẹ. Mẹ nay già nua lắm rồi, chỉ còn mong nhìn thấy con và Tĩnh Tử thành gia thất, thì dẫu mẹ có đi vào lòng đất ắt cũng ngậm cười chín suối vậy.

 

 

CHƯƠNG MƯỜI BA 

Nghe mẹ tôi nói thế, tôi không cầm nước mắt được nữa, liền khóc một trận như mưa. Trong lòng tôi thật thấy mình có tội lỗi. Sao lại chẳng nghe lời. Chống lại ý nguyện huyên đường như thế để cho mẹ phải thốt lời thương tâm ấy ra, tình cảnh như thế chịu đựng sao được. Tôi bàng hoàng một chặp, rồi quỳ xuống gục đầu vào gối mẹ tôi kiếm lời an ủi mà rằng: 

-Mẹ tha thứ cho con. Con thực là thằng bất hiếu, tội con nặng nề lắm. Từ đây về sau con tuân lời mẹ vậy. Con còn nhỏ tuổi, chưa hiểu chi nhiều, mẹ hãy tha thứ cho con. 

-Ừ! Con nghe theo lời mẹ mới là phải lẽ. Người đời xưa bảo rằng: “bất tín lão nhân ngôn, hậu hối tương hà cập” (không tin lời người già, sau hối hận sao còn kịp nữa). Huống chi đây là việc lớn suốt đời của con, mẹ già há đâu chẳng suy nghĩ kỹ càng? Con phải biết rằng không một phút nào mẹ chẳng vì con mà lo liệu. Như con chị của con, thuở nó còn ở nhà, mỗi phen nó không nghe lời mẹ, thì mẹ liền nạt cho nó một trận tơi bời. Nay nó đã về nhà chồng mọi sự mẹ chẳng hỏi han chi tới nữa. Nên biết rằng lòng đứa con gái nó hướng về bên chồng, thì cứ để yên cho nó hướng, mẹ há đâu cản trở chất vấn cái gì. Còn nói về chuyện Tĩnh Tử, thì lại không như thế. Đứa bé này tính tình trang trọng, nhàn mục hiền hòa lại thông minh đáo để, hết sức hợp ý mẹ. Con chớ xem thường nó. Nó không phải như những hạng gái lôi thôi phó phấn đồ chi, nhâm nhi lý nhí đâu. 

Mẹ tôi còn muốn nói nữa, thì người vú bước vào thưa: 

-Thưa bà, phòng tắm đã sẵn sàng mọi sự. – Nói xong, lui ra. 

Lúc bấy giờ khoảng mười giờ. Vẻ mặt mẹ tôi không còn ảm đạm nữa. Bà vỗ vai tôi bảo: 

-Tam lang, bữa nay mẹ phải xuống gác kiểm điểm áo quần mùa đông, mà mười một giờ mới xong xuôi công việc. Con hãy đi tắm một trận. 

Lúc bấy giờ tôi biết mẹ đã hết buồn, thì lòng tôi hẳn nhiên hân hoan vậy. Ngẩng đầu nhìn khoảng không mây mỏng phiêu du, thong dong ruổi ruổi. Tôi khoan khoái một cơn, máu me xương xẩu phiêu phiêu động mình. Vâng, mọi sự vẫn thơ ngây? Nhịp đời đi chậm rãi? Niềm vui vẫn ở lại? Hạnh phúc đơn sơ biết bao? Đồng thời tôi cảm thấy như dường không khí xuân xanh đang rẽ chia ra hai phía, nhường lối cho tôi bước, và khi tôi bước qua rồi, thì nó khép lại ở sau lưng tôi, như nước trùng dương khép lại sau khi con tàu rạch sóng băng qua. Thế thì có chi mô đâu là trở ngại? Có ai xô tôi vào cõi hỗn độn u ám tranh chấp gì đâu? Tình và nghĩa? Nợ và duyên? Bâng khuâng nghĩa mới? Ngậm ngùi tình xưa…? Không. Không có chi gay cấn phũ phàng cả. 

Tôi đi thay quần áo và vào phòng tắm. Tắm xong một trận, tôi bước mình lên lầu gác, nhìn ra biển khơi, ngồi nhìn lâu lắm. 

Thì bỗng dưng cảm thấy buồn sầu ở đâu xô tới như mây, tư lự ngậm ngùi ùn ùn đến như triều sóng biển, cùng chen lấn nhau tập kích tôi bốn mặt ba phương. 

Sầu hận cũ bỗng dưng trở lại
Thêu đời hồng anh rụi cả máu me 
Một khoảnh khoắc khôn hàn cơn kinh hãi 
Ngập trường phong theo thể độ triều dài 
Lời yếu đuối ôi lời thơ tàn tức 
Lời nhỏ to từng đã phỉnh tôi nhiều 
Tôi không biết tôi không còn biết được 
Một tình yêu người xây đắp thế nào 
Cũng đôi lúc tôi tìm ra tiết điệu 
Dặt dìu buông ẻo lả giấc mơ mòng 
Tình chấn động suốt vùng cây suối liễu 
Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra dòng 
Lời lẩn thẩn theo vần lôi thôi nhuộm 
Mẹ và em sao chẳng hiểu nỗi lòng 
Tình chấn động nhà ma le lói nhuốm 
Màu gẫm suy cái chết của thân mình 
Đành thế vậy mẹ và em nếu muốn 
Con rời bờ lìa cõi thế điêu linh 

Vâng, bây giờ tôi hiểu. Lúc tôi quyết định cưới Tĩnh Tử, thì đó chẳng qua chỉ là lời choáng váng thốt ra, trong một phút lê mê bàng hoàng tình phi đắc dĩ đấy mà thôi. Và từ đó về sau bao nhiêu ưu hoạn sẽ nối đuôi nhau bay liên miên khắp mặt chiều hôm sa mù vang bóng vậy. Và cũng như âm thanh hải triều triền miên ai oán than van, không bao giờ dứt mối tiền ai oán than van, không bao giờ dứt mối tiền oan túc chướng một bận đã phôi thai. Nhưng làm sao! Biết làm sao! Lúc thốt cái lời ấy! Nếu lời ấy không thốt ra lúc bấy giờ, thì còn lời gì để thốt ra khả dĩ yên ủy được mẹ tôi đang choáng váng? 

Sự việc đã ra nông nỗi ấy, còn biết liệu xử ra sao? Chỉ còn có cách tạm thời thuận theo ý mẹ già một trận, chờ cơ hội chầy chầy khác, sẽ lựa lời dần khuyên giải, thong dong gỡ… 

Nhưng gỡ dần như thế nào? Mẹ có thể nghe ra, nhưng còn Tĩnh Tử? Và nguy hại thay! Còn cả mối tình âm u âm ỷ của chính máu me tôi đối với nàng! Còn Tuyết Mai? Tôi sẽ bước cái lối nào để đừng giày xéo một trong hai? Giã từ cả đôi? Cả Tuyết Mai cả Tĩnh Tử? Nghĩa là cả tình mộng và nợ và duyên và lụy và… và? Chẳng lẽ lang thang mơ hồ đi như con ma lạc gió? Ngồi lại ở bên đèo, trên là đường truông, dưới là vực thẳm? Bẻ một ngành thạch thảo mà gửi về một nửa tiếng thơ? 

Anh đã hái ngành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho! Mùa thu đã chết rồi

Hỡi ôi! Mùa thu đã chết rồi? Rồi đến mùa đông cũng chết? Riêng mùa xuân mùa hạ song trùng chết từ ban sơ, há chưa đủ hay sao? 

Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa 
Mộng trùng lai không có được trên đời 
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi 
Và nhớ nhé, ta đợi chờ em đó…

Đợi chờ ở đâu mà bảo em nhớ nhé. Hỡi ôi! Suối vàng là cái chi như thế? Chẳng lẽ thảy thảy mọi người cùng phải xuống hết dưới đó để đợi chờ nhau chăng? 

Nếu thấy như thế là quá phiêu diểu diêu mang, thì đợi chờ nhau trên mảnh đất đai dương trần này phải ăn làm sao với mẹ, nói làm sao với em? Lựa lời khuyên giải như thế nào mẹ già mới có thể thu hồi cái mệnh lệnh. Nếu mẹ già kiên quyết không chịu, ắt con phải đành đem chuyện đời con ra nói hết? Hoặc giả cuối cùng mẹ sẽ chấp thuận cho con trở về cửa Phật Đại Từ Bi? Về với Như lai, tất nhiên không thể lẽo đẽo đèo bồng dắt theo người phụ nữ rất mực đoan trang. Tôi đặt bàn tay lên ngực sờ vào trái tim tự vấn, quả thật tôi không phải đứa vong tình bạc nghĩa tàn nhẫn bỏ rớt rụng Tĩnh Tử sư muội nhị cô nương… 

Kế đó, tôi chợt gẫm ra rằng theo phong tục Nhật Bản chân tông, thì dù có đi tu cũng cứ lấy vợ được như thường. Một mặt tu niệm tụng kinh, một mặt ngủ chung với gái, hai sự kiện kia không có mâu thuẫn nhau trong Nhật tục chân tông. 

Nếu từ đó, mẹ tôi viện lẽ ra mà bác bỏ ý kiến tâm nguyện của tôi, thì tôi ắt sẽ cứng họng, còn tìm đâu ra lời lẽ để ăn nói tiếp tục nữa? – If my mother were to use this as an argument, what could I say in answer to the her questioning? ( Nhược ngô mẫu dĩ thử vi ngôn ngô, hựu tương hà ngôn thuyết đáp dư từ mẫu da?) 

Tôi quanh quẩn mãi với những ý nghĩ đó không sao yên lòng được. Lại nghe phía sau gió sầu thổi heo hút vào rừng, tôi bỗng cảm thấy kinh hoàng như cầy sấy chạm phải giẻ giun. Ấy bởi hoài niệm lời Phật dạy: “Thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả! Ta hồ! Vọng ngô từ mẫu thiết vật khu nhi tác á dương khả nhĩ!” Than ôi! Dám mong rằng mẹ già đừng buộc con phải làm một con dê câm há dễ! sầu khổ ôi nhà ngươi là cái chi như thế? Tại sao ngươi cứ lần mò về gây náo động mãi thân ta? 

Hãy khoan đi Sầu Khổ ạ 
Hãy nằm im đừng náo động chi nhiều 
(….) 
Sầu Khổ ạ, lại gần đây đối mặt 
Trao bàn tay cho ta nắm bên miền 
Năm tháng cũ mơ màng sực tỉnh 
Bên trời xanh vận y phục cũ càng 
Niềm luyến tiếc mở hai môi cười mỉm 
Từ đáy sâu thăm thẳm vụt lên đàng 
Vầng nhật ẩn dưới nhịp cầu ngủ lịm 
Khói sương mù bàng bạc bốn chân mây 
Trời ngất lạnh trên dặm khuya chuyển nhịp 
Sầu Khổ ôi! Hãy lắng bước đêm dài…

 

 

CHƯƠNG MƯỜI BỐN 

Ngày hôm sau, chị tôi đến, chị không nói gì nhiều, chỉ khuyên bảo rằng: 

-Em tùy lúc tùy nơi, phải nghe lời mẹ. Phàm sự gì cũng vậy, không nên buông thả theo cái tính hăng hái nhất thời. Thì từ đó em hiểu được rất nhiều về nhân tình thế cố. Còn về sự vụ em bảo rằng suốt đời em không lấy vợ, em cho đó là cao viễn, nhưng thật ra đó chỉ là cái ý nghĩ tầm phào của một đứa trẻ con, đủ khiến cho người ta cười chết ngất đi được. Tam Lang, em từ rày về sau nên ghi nhớ cái lời chị nói đó, đừng để mình là một trò đùa cho thiên hạ. Em nghe rõ chưa? 

-Em nghe rõ rồi. 

Chị hỏi: 

-Em nghĩ thế nào? 

Tôi đáp: 

-Em nghĩ rằng rất mực phải vâng lời chị luôn luôn. 

Chị nói: 

-Thế thì tốt. 

Tôi vâng vâng dạ dạ, rồi cáo lui. Từ đó trở đi, lòng tôi phiền muộn vạn trạng. Định tỉnh thần hồn, chiếp bất cử tọa. Suốt ngày tôi bần thần không yên, bơ phờ đi, bờ phờ đứng, bơ phờ ngồi nằm. Chỉ lo ngay ngáy sợ mẹ già nêu trở lại câu chuyện kia. 

Mẹ tôi mỗi phen gặp tôi, thì hân hoan khôn tả, tợ hồ như chẳng hề hay biết gì hết cả về nỗi lòng tôi bời bời vạn chủng rối beng. 

Một ngày kia, tôi ngồi trong phòng cầm bút hoạ bừa một trận, để phát tiết ra ngoài cái mối sầu vấn vít tim gan. Họa cảnh trạng ba đào cuồng nộ đánh tơi bời bọt bèo vào đá. Song lại hoạ cảnh biển xa lai láng lăn tăn triều sóng rì rào dàn trải. Rồi tôi vẽ thêm một con sa âu nghiêng cánh rơi lạc xuống đám khói sóng lạnh lung rồi mất hút vào hư không. 

Chợt nghe tiếng gõ cửa, rồi tiếng em gái tôi xô cửa hỏi: 

– A huynh sao chẳng ra ngoài du ngoạn? 

Tôi quay lại nhìn, chợt thấy Tĩnh Tử mặt phấn lưa thưa, nga mi đạm tảo, đang cầm tay em gái tôi, đứng bên khung cửa. 

Thấy tôi quay lại, Tĩnh Tử nghiêng thân chào một cái. 

Tôi nói: 

-Mời a tỷ bước vào phòng ngồi nghỉ chân tý chút, tôi vẽ chơi tiêu khiển xong rồi, chẳng còn việc chi. 

Em tôi liền nắm tay Tĩnh Tử, kéo ép nàng bước vào, tới đứng bên tôi. Tĩnh Tử đưa mắt đăm đăm nhìn bức họa trên bàn. Rồi mỉm cười nhìn tôi. 

– Tam Lang thứ lỗi đường đột cho. Xưa Đồng Nguyên họa Giang Nam sơn; Lý Đường họa Trung Châu sơn; Lý Tư Huấn họa Hải Ngoại sơn; Mễ Nguyễn Huy họa Nam Từ sơn; Hoàng Tử Cửu họa Hải Ngu sơn; Triệu Ngô Hưng họa Nhu Điều sơn; Bi Giang họa Bi Bôi sơn; nay anh Tam Lang của em há chẳng họa Nhai sơn đó ru? 

(Formerly Tung-yuan painted Chiangnan Mountain; Li Tang, Chungchow Mountain; Li Szu-hsun, Hawai Mountain; Mi Yuan-hui, Nanhsu Mountain; Ma-yuan and Ha-kuei, Ch’ient’ang Mountain; Wang Tzu-ko, Haiyu Mountain; Chu Wu-hing, Chat’iao Mountain; Bi-Giang, Bê-bôi Mountain;

At present is not my Saburo painting Mount Yai?

Một phen người ta nhìn vào bức vẽ, một phen khiến người ta tâm hồn tiêu nhiên lòa xòa như gửi thân trong cõi miền của sử xanh cổ lục. 

(Nhứt hồ sử nhân kiến tắc tiêu nhiên như trí thân thanh cổ chi vực).Thật quả là cảnh xui thư thái tâm hồn và trong suốt mắt xanh vậy. (Đâu có như những loại vẽ vời tùm lum như rác bẩn của thằng Bùi). 

Nói xong, nàng giao trả lại bức họa cho tôi. Tôi cầm lấy nói: 

-Tại hạ bỏ lâu ngày cây bút họa, nay cao hứng vẽ bừa ra như thế, chẳng ngờ được a tỷ quá khen, khiến cho người cảm thấy hổ thẹn. 

Tĩnh Tử lại mỉm cười mà rằng: 

-Tam Lang, em nói lời kia không có ý khách sáo gì hết. Thiết tưởng các họa sĩ ngày nay vẽ tranh chỉ đáng kể ở chỗ hình thể giống sự vật là được, và mua được sự đáp ứng của chợ hội. Còn thật ra họ đâu đạt tới cõi tối cao lý thú của hội họa. Lại cũng có kẻ bị quẫn bách bởi tẩu hỏa nhập ma, vớ bừa vớ bãi vào bút họa mà mở cuộc cưỡng bức, làm trò cười cho bọn phụ nữ chúng em, há đáng chi mô mà mắt xanh my lục chiếu cố tới!!! Người đời xưa nói rằng họa thủy có thể suốt đêm dài phát thanh âm thánh thót, như sương nguyệt nguyên tiêu. Em nay nhìn bức họa của Tam Lang, quả thật chứng minh rằng lời nói của người xưa không phải là ngoa ngữ. Bức họa kia của Tam Lang, so với các tay danh thủ cận đại, quả thật có sự cách biệt giữa hột minh châu và hòn sỏi hoặc tấm ngói mảnh gạch vụn. Há cần phải chờ tới em thốt lắm lời? 

Tôi lặng nghe lời nói như ru kia. Trong lòng suy gẫm: 

-Thế gian sao còn có một tâm hồn đĩnh tuệ du dương đến như thế? 

Tôi bước ra phía sau nàng mà đăm đăm nhìn hình hài nàng trong cơn bồi hồi ấy. Hỡi ôi! Tóc mây một món buông lòa xòa, cổ ngọc ẩn hiện như vân thạch mù sương, vai tròn lưng ong như kinh hồn cổ lục … Thì lòng tôi ngơ ngẩn một trận tự nhủ mà rằng: 

-Chân chính là một hình ảnh khoáng kiếp nan phùng vậy (suốt kiếp cổ kim khó gặp). 

Chợt Tĩnh Tử quay mắt lại nhìn, có vẻ bẽn lẽn: 

-Bức họa này của Tam Lang có thể tặng người ta được chăng? Tam Lang đừng nghĩ người ta yêu cầu là lời khách sáo cho hợp lễ thôi đâu. Em nhìn phong cảnh ấy thương mang cổ dật, lòng em yêu chuộng rất mực mà thôi. Nay mở lời xin như thế ắt Tam Lang nguyên lượng cho em… 

Hỡi ôi! mỗi tiếng người ngọc như mỗi bủa rộng chiêm bao… Thật quả có như là: 

Thưa gái ạ, nếu gái về xứ sở
Của vinh quang về lịch sử khuynh thành 
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ 
Sẽ bao trùm dòng Dương Tử Giang xanh
” 

Tôi bèn đáp mà rằng: 

-Há dám! Há dám! Bức họa kia há đâu đáng một chút chiếu cố ôn tồn ý nghĩ xanh mắt lục cô nương? Tại hạ ý nghĩ rằng a tỷ như đã tinh thông hội họa, thì rất mong a tỷ đừng hẹp lượng mà ban cho lời chỉ bảo, làm lương sư giáo hóa cho tại hạ một bình sinh, há chẳng là hay ho tốt lành lắm lắm? 

Tĩnh Tử bối rối cúi mặt xuống mơ màng, đưa bàn tay ngọc sửa lại mái tóc mai ủ rũ, kéo lại dải la đới chỉnh tề ngăn nắp, rồi chậm rãi mà rằng: 

-Phi nhiên dã! Chẳng thế được. Ngày trước em chỉ ngẫu hứng học tập qua loa, nhiên nhất vô sở thành (chẳng thành tựu được chút xíu nào cả). Nay trong chiếc rương chỉ còn có giữa lại một tấm họa “diệp hoa hải yến” mà thôi. 

Tôi nói: 

-Dám hỏi sao gọi là diệp hoa hải yến? (Thỉnh vấn vân hà diệp hoa hải yến?) 

Tĩnh Tử đáp: 

-Vườn ao nhà em, mỗi mùa hoa lá sen nở phồn thịnh, thì mỗi mỗi hàng đêm suốt cõi chim yến tía bay về vô số, làm tổ tại giữa đám lá hoa sen, như mở một trận ôn tồn yêu đương thiêm thiếp phù động liên tồn suốt xứ sở đất đai. Cho đến khi hoa tàn, lá tạ, chim yến tía vẫn dùng dằng chưa chịu bay đi. Em cảm thấy cái tính tình đó của yến tía trùng dương, nên mệnh danh gọi là: “diệp hoa hải yến” rồi khởi sự vẽ cảnh tượng ấy ra. Tam Lang, nay để em đi tìm lấy ra xem, chỉ e lại làm trò cười cho linh hồn tài hoa đại phương lạc lạc… 

Tôi khom thân cung kính mà rằng: 

-Xin a tỷ lẹ chân đi và nhanh chân trở lại, tại hạ rất mong được nhìn gấp. Tĩnh Tử không đợi tôi nói dứt lời, đã đi bộ cúc cung nhi khứ. Tay phất nhẹ tà áo, mùi thơm xuân sắc bốc lừng tỏa lòa xòa ra bốn mặt. 

Tôi giữ em gái lại, hỏi mà rằng: 

-Sao chẳng nghe tiếng mẹ và chị đâu cả? Mẹ và chị đi đâu rồi chăng? 

Em gái đáp: 

-Nhiên, A tỷ rủ a mẫu, a di đi dạo hết cả rồi. Bảo rằng, đi Diệp Sơn (Hayama) để ngắm cảnh những cây thiên quán tùng (những cây tùng tuổi tác ngàn năm). Và cũng có thêm việc khác nữa, thuận đường ghé bái yết Thiển Đảo thần xã. Đã dặn dò cô bếp chờ cơm trưa bữa nay lúc mười hai giờ rưỡi. Và dặn em nói lại với a huynh điều ấy. 

Tôi hỏi: 

-Sao em không cùng đi? 

Em đáp: 

-Chẳng. Chị Tĩnh Tử chẳng đi, nên em cũng chẳng muốn đi. 

Tôi nhìn thấy em tôi cầm trong tay một quyển sách. Bèn hỏi: 

-Sách gì đó? 

Em đáp: 

-Đó là bộ bách thư của Ba Nhĩ Ni (Panini). 

Tôi nói: 

-Đó là Phạn văn điển. Em học tập sách đó sao? 

Em đáp: 

-Chị Tĩnh Tử mỗi ngày bày vẽ em đọc. Ban đầu học thấy khó. Rồi lần lân quen thuộc rồi thấy thích lần lần. Câu văn nghe thật nhịp nhàng. Thật là không như Pháp ngữ, Anh ngữ. Không thể nào nêu ra ngang hàng nhau được. 

Tôi nói: 

-Thế thì té ra chị Tĩnh Tử đã nhiều ngày nghiên cứu tiếng Sanskrit. 

Em nói: 

-Chị Tĩnh Tử thường ngày thích nói về đạo Phật, vì lẽ đó nên chị đọc Phạn văn. Hoặc là Phạn văn hấp dẫn chị thì cũng có lý. Chị thường bảo em: “Phật giáo tuy xích thanh luận” (không luận về âm thanh, vứt bỏ thanh luận) nhưng mà Da Du nói về ngữ pháp: viết tướng, viết nhanh, viết phân biệt, viết chính trí, viết chân như, mọi thứ đó rất gần Ba Nhĩ Ni học phái. Tuy ra đời sau Lăng Nghiêm, y tư nhĩ căn viên thông, hữu thanh luận tuyên minh chi ngữ. Thị Phật giáo diệc thu thanh luận, đặc hình thức tương dị nhĩ (chỉ duy hình thức là khác nhau thôi). 

Nghe em gái nói ríu rít ra như thế, tôi nghiêm chỉnh nét mặt lại mà rằng: 

-Thiện tai! Thiện tai! Tĩnh Tử quả là siêu phàm nhập thánh. Em hãy chăm chỉ theo chị học tập, đừng xao lãng nhé! 

Em hỏi: 

-Còn a huynh bày vẽ em học gì? 

Tôi đáp: 

-Để anh chép tặng em một bài thơ dịch của thi sĩ Tây Phương. 

Thế là tôi chép bài thơ của Nerval tặng cho em gái. 

Ngày đông đẹp, lắm phen chiều chủ nhật
Tuyết phủ bờ nhuốm ánh nhạt tà huy 
Cùng em gái nắm tay đi ngoạn cảnh 
Mẹ bảo:- Về cho kịp bữa ăn chiều 
Và khi đã nơi điện đài Túy Lúy 
Ngắm và nhìn những lộng lẫy xiêm nghê 
Em gái lạnh đòi về thôi anh nhé 
Vì sương mai sắp phủ khắp sơn khê 
Đành quay gót tiếc thương ngày quá đẹp 
Quá vội vàng đi mất không em 
Về tới ngõ tự ngoài khung cửa hẹp 
Bỗng nghe mùi phưng phức thịt gà chiên

(Gerard de Nerval) 

LA COUSINE 

L’hiver a ses plaisirs; et souvent, le dimanche,
Quand un peu de soleil jaunit la terre blanche, 
Avec une cousine on sort se promener… 
– Et ne vous faites pas attendre pour dîner, 
Dit la mère. Et quand on a bien, aux Tuileries, 
Vu sous les arbres noirs les toilettes fleuries, 
La jeune fille a froid… et vous fait observer 
Que le brouillard du soir commence à se lever. 
Et l’on revient, parlant du beau jour qu’on regrette, 
Qui s’est passé si vite… et de flamme discrète : 
Et l’on sent en rentrant, avec grand appétit, 
Du bas de l’escalier, – le dindon qui rôtit.

Chép xong tôi bày cho em đọc. Nó mừng quá, hỏi ríu rít; 

-Anh còn bài dịch nào? 

Tôi đáp: 

-Một bài không đủ sao? 

Em đáp: 

-Đủ. Nhưng còn thiếu? 

Tôi hỏi: 

-Tại sao còn thiếu? 

Em đáp: 

-Thiếu một bài cho chị Tĩnh Tử. 

Tôi nói: 

-A!!! 

Em bảo: 

-Chép nhanh vào luôn thể trong trang này một bài cho chị Tĩnh Tử. 

Tôi bèn chép bài thơ Tháng Năm của Apollinaire: 

Dạo thuyền xuân sắc tháng năm
Giai nhân đầu núi xa xăm ngóng về 
Thuyền trôi cách biệt hai bề 
Ai xui liễu khóc đầm đìa bờ hoang 
Vườn cây ngưng cóng hành hàng 
Cánh hoa thắm rụng như làn môi ai 
Ven sông đường đỏ dặm dài 
Bước chân du nhạc hình hài hoang liêu 
Một con gấu một con tườu 
Một con chó chạy sau lừa kéo xe 
Từ đâu tiếng địch vọng về 
Rập rình quân nhạc đã lê thê chìm 
Tháng Năm về điểm sơn xuyên 
Trên tàn phế dựng muôn nghìn thảo hoa 
Cành miên liễu, gió la đà 
Rì rào lau trúc nụ ngà khỏa thân

(Appollinaire) 

MAI 

Le mai le joli mai en barque sur le Rhin
Des dames regardaient du haut de la montagne 
Vous êtes si jolies mais la barque s’éloigne 
Qui donc a fait pleurer les saules riverains 

Or des vergers fleuris se figeaient en arrière 
Les pétales tombés des cerisiers de mai 
Sont les ongles de celle que j’ai tant aimée 
Les pétales flétris sont comme ses paupières 

Sur le chemin du bord du fleuve lentement 
Un ours un singe un chien menés par des tziganes 
Suivaient une roulotte traînée par un âne 
Tandis que s’éloignait dans les vignes rhénanes 
Sur un fifre lointain un air de régiment 

Le mai le joli mai a paré les ruines 
De lierre de vigne vierge et de rosiers 
Le vent du Rhin secoue sur le bord les osiers 
Et les roseaux jaseurs et les fleurs nues des vignes

Chép xong em gái tôi đọc qua một bận, nó sung sướng bảo: 

-Bài này cũng hay. Nhưng bài này anh chép nét chữ đẹp hơn bài kia. Tại sao như thế? 

Tôi đáp: 

-Tại vì lúc đầu chép bài kia cho em, thì bàn tay nó chưa nhuần cây viết. Tới bài sau, thì cả mấy ngón đều duỗi ra thư thới hơn trước. Vả lại, chị Tĩnh Tử học giỏi hơn em. Nếu chép thơ cho chị mà không cố gắng viết chữ thật đẹp, ắt sẽ bị chị Tĩnh Tử xem thường.

 

( còn tiếp)

Nguon : vnthuquan.net

24/09/2010

HỒI ỨC VỀ NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM BUỒN CỦA TÔI – GABRIEL GARCIA MARQUEZ

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 16:05

 

Người dịch: Lê Xuân Quỳnh

LỜI GIỚI THIỆU

Gabriel García Márquez được bạn đọc Việt Nam biết đến qua bản tiếng Việt chuẩn xác và giàu cảm xúc của cố dịch giả Nguyễn Trung Đức, với ” Trăm năm cô đơn”, “Tình yêu thời thổ tả”, “Ngài đại tá chờ thư”, “Tướng quân giữa mê hồn trận”, “Giờ xấu”, “Mười hai truyện phiêu dạt”…Và gần đây là tự truyện nổi tiếng ” Sống để kể lại” qua bản dịch của Lê Xuân Quỳnh. 

Với tư duy nghệ thuật độc đáo, Márquez đã thể hiện trong các tác phẩm của mình một tình yêu vừa thơ ngây vừa sâu sắc, mãnh liệt đối với con người, với cuộc đời. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng lớn, trong đó có giải Nobel văn học vào năm 1982. 

Có một lần G.G Márquez đã nói: “Trên thực tế, mỗi nhà văn chỉ viết một cuốn sách. Cuốn sách mà tôi đang viết là cuốn sách về “cái cô đơn”. 

Quả thực, sau hơn 50 năm cầm bút, Márquez đã vẫn viết về cái cô đơn trong một câu chuyện khác, tác phẩm ” Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. 

Đó là câu chuyện của một nhà báo già. Sinh ta trong một gia đình trung lưu nhưng ông sớm mồ côi cha mẹ. Trong căn nhà cũ kỹ, ông đã sống một cuộc sống hoàn toàn cô đơn, không vợ con, không bạn bè. Ông đã từng dạy ngữ pháp tiếng La Tinh và Tây Ban Nha. Sau đó, ông biên tập tin tức và viết bình luận âm nhạc cho một tờ báo địa phương đến năm 90 tuổi. Và chính trong buổi sáng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 ấy, ông bỗng ao ước có một đêm tình ái nồng say với một thiếu nữ còn trinh nguyên. 

Cái ý muốn kỳ lạ đó thôi thúc ông đến độ ông tìm cách liên hệ với một người đàn bà mối lái mà ông quen từ ngày còn trẻ, nhờ bà ta giúp đỡ bất chấp nỗi xấu hổ. 

Ông đã đến nơi hẹn với một cô bé đang say ngủ. Khi ông ra về, ông đặt lên trán cô nụ hôn vĩnh biệt và lời cầu Chúa giữ hộ trinh tiết cho cô. Thế nhưng, chính sự cô đơn của tuổi già đã khiến ông nhiều lần nữa đến gặp cô bé. Mỗi lần, ông lại thêm yêu thương cô. Ông đem những bức tranh, những bó hoa, những cuốn sách… bày trong căn phòng để sớm mai, khi thức dậy, cô bé cảm thấy ấm cúng. Ông hát ru cô bé bài hát về Delgadina – cô công chúa út được vua cha yêu quý. Ông gọi cô là Delgadina. Ông nhận thấy sự hiện diện vô hình của cô trong căn nhà vắng lặng của ông. Cuộc sống nhàn tẻ, nghèo cực của ông như có một ý nghĩa, đó là niềm yêu thương, lo lắng cho tương lai của cô bé. Lần đầu tiên, ông nhận ra “Niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng”. 

Tác phẩm “hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi” của G.G. Márquez khiến người đọc nhớ đến “Người đẹp say ngủ” của nhà văn Kawabata. Thật kỳ lạ cho cuộc gặp gỡ giữa hai nhà văn sống trong hai nền văn hoá xa nhau, khác lạ với nhau là Mỹ La Tinh và Nhật Bản. Những ông già – nhân vật trong tác phẩm của họ, trong cố gắng tuyệt vọng để tìm lại tuổi trẻ đã tìm thấy một tình cảm khác. Đó là niềm thương xót với con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Nhân vật của Kawabata khi đến ngủ bên người phụ nữ đã có ý nghĩ: “Đến đấy ngủ giống như ngủ với Đức Phật nấp kín đâu đây vậy”. Trong một cách hành xử khác, một cách diễn đạt khác, nhân vật của G.G.Márquez cũng đạt được tình cảm thanh khiết đó. 

Đối với G.G.Márquez viết về “Cái cô đơn” của một con người, một dòng họ, một đất nước chính là để “sáng tạo ra một huyền thoại khác hẳn, một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình, ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự; và nơi những dòng họ bị kết án Trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ nhất để tái sinh trên mặt đất này” (diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Márquez – theo Nguyễn Trung Đức). 

First News

CHƯƠNG 1

Vào cái năm tròn chín mươi tuổi, tôi muốn tự thưởng một đêm tình cuồng điên với một thiếu nữ còn trinh nguyên. Tôi bỗng nhớ đến Rosa Cabarcas, bà chủ một nhà chứa vốn thường hay báo cho các khách hàng sộp mỗi khi có sẵn một của lạ. Tôi không bao giờ quỳ gối trước thứ của lạ này cũng như trước bất cứ lời mời mọc tục tĩu nào của bà ta; ấy thế nhưng bà ta cũng chẳng hề tin vào tính rõ ràng trong nguyên tắc sống của tôi. Mà đạo đức cũng thay đổi theo thời gian, bà ta mỉm cười ranh mãnh nói, rồi ông sẽ thấy. Bà ta ít hơn tôi dăm ba tuổi, và từ nhiều năm nay tôi không còn biết tin tức gì về bà ấy nữa, có khi đã chết rồi cũng nên. Nhưng ngay khi tiếng chuông điện thoại đầu tiên vừa ngắt, tôi đã nhận ra giọng nói của bà ta và liền phang ngay không chút úp mở: 

Ngày hôm nay thì tôi muốn. 

Bà ta thở dài: Ái dà, ngài thông thái buồn bã của tôi, ông đã mất dạng hai mươi năm nay rồi bỗng trở lại đòi hỏi điều không thể có vào lúc này. Ngay lập tức bà ta hồi phục được tài nghệ của mình và đưa ra cho tôi lựa chọn cả nửa tá phương án khoái lạc, nhưng đều đã qua sử dụng cả rồi. Tôi nhắc lại: phải là trinh nguyên và ngay trong tối hôm nay. Bà ta cảnh giác hỏi: Thế ông định thử điều gì vậy? Chẳng gì cả, tôi trả lời và cảm thấy chua xót và bị điểm huyệt đúng chỗ đau nhất của mình, tôi biết rõ cái gì mình làm được và cái gì không làm được, thưa bà. Bà tà bình thản nói rằng các vị thông thái biết đủ thứ nhưng chẳng biết gì: Những Virgo duy nhất còn rơi rớt lại trên thế gian là các ông, những người của tháng Tám 1. Tại sao ông không đặt hàng cho tôi từ sớm hơn? Làm sao dự báo trước được niềm cảm hứng, tôi nói. Nhưng có lẽ có thể chờ đợi được chăng, bà ta nói và bao giờ cũng tỏ ra hiểu biết hơn bất cứ một người đàn ông nào, rồi đề nghị tôi chờ thêm hai ngày để có thể lục lọi mọi ngóc ngách thị trường. Tôi nói một cách nghiêm túc với bà ta rằng trong một phi vụ kiểu này, ở vào tuổi của tôi, thì mỗi giờ là bằng cả một năm. Thế thì không thể được, bà ta nói không chút ngần ngại, nhưng không sao, thế này càng thêm hấp dẫn, mẹ kiếp, tôi sẽ gọi cho ông trong vòng một giờ nữa vậy. 

Kể ra thì tôi không cần nói ra điều này, bởi vì người ta có thể nhận ra tôi từ xa cả dặm: tôi xấu trai, nhút nhát và cổ lỗ. Bấy lâu nay tôi đã cố sức làm đủ mọi chuyện để chứng tỏ điều ngược lại. Nhưng giữa thanh niên bạch nhật hôm nay, tôi đã tự mình quyết định, hoàn toàn tự do, kể hết mình là người như thế nào dù chỉ là để làm cho lương tâm bớt nặng nề. Tôi đã bắt đầu ngày hôm nay bằng cú điện thoại khác thường cho bà Rosa Cabarcas, đây sẽ là khởi nguồn của một cuộc đời mới ở vào cái tuổi mà phần lớn những người khác đã chết rồi. 

Tôi sống trong một căn nhà có từ thời thuộc địa bên phía vỉa hè có ánh mặt trời của công viên San Nicolas, nơi tôi đã trải qua tất cả những ngày sống không có đàn bà và cũng chẳng có tài sản, cũng là nơi bố mẹ tôi đến sống và rồi chết, cũng là nơi mà tôi dự định sẽ chết đơn côi ngay chính trên chiếc giường mà mình đã sinh ra, vào cái ngày mà hy vọng còn xa xăm và không chút gì đau đớn. 

Căn nhà này được bố tôi mua công khai từ cuối thế kỷ XIX, tầng trệt được ông cho một công ty của Italia thuê làm cửa hàng bán đồ may mặc cao cấp, còn lầu hai được giữ lại làm chốn ấp ủ hạnh phúc giữa ông và một trong những người con gái của ông bà chủ công ty, công nương Florina de Dios Cargamantos, người diễn tấu xuất sắc các tác phẩm âm nhạc của Mozact, biết nhiều ngoại ngữ và sùng bái Garibaldi 2, cũng là người phụ nữ đẹp nhất và tài năng xuất sắc nhất của thành phố: đó chính là mẹ tôi. 

Ngôi nhà rất rộng rãi và sáng sủa với những mái vòm trát vôi vữa và những khoang nền lát gạch men xứ Florencia của Italia, cùng bốn cửa kính hướng ra một bao lơn chung, nơi vào những đêm tháng ba, mẹ tôi thường ngồi hát những khúc tình ca với các chị em họ người Italia. Cũng từ nơi này người ta có thể nhìn thấy công viên San Nicolas, nhà thờ lớn và tương đài Cristobal Colon, và xa hơn là các khu nhà kho của cảng sông và đường chân trời rộng mở trên con sông lớn Magdalena cách cửa biển chỉ hai mươi dặm. Điều khó chiu duy nhất của căn nhà là ánh nắng cứ lần lượt chiếu rọi qua từng cửa sổ nên buộc phải đóng hết để có thể ngủ trưa trong cái cảnh chập choạng tối oi ả. Khi chỉ còn lại một mình trên thế gian, vào tuổi ba mươi hai, tôi chuyển qua ở phòng của bố mẹ, có cửa thông sang thư phòng và bắt đầu lần lượt bán tất cả những gì thừa để sinh sống, chỉ trừ các cuốn sách và chiếc dương cầm kiểu cổ. 

Trong suốt bốn mươi năm ròng, tôi làm nghề thổi hồn cho các bản tin điện của tờ nhật báo El Diario de La Paz, tức là biên tập hoàn chỉnh các bản tin theo văn phong bản địa trên cơ sở những tin tức ở khắp nơi trên thế giới được truyền qua làn sóng ngắn hoặc dưới dạng ký hiệu moóc mà chúng tôi tóm được từ trên khoảng không vũ trụ. Ngày nay, tôi sống thoi thóp được là nhờ chút lương hưu của cái nghề đã bị tuyệt diệt đó; nhờ chút đỉnh thu nhập phụ cấp hưu trí nghề giáo viên dạy môn ngữ pháp tiếng Tây Ban Nha và La Tinh, nhưng hoàn toàn không đuợc phụ cấp hưu trí từ công việc viết không biết mệt mỏi các bài xã luận cho các số báo chủ nhật và lại càng không đuợc xu nào cho biết bao nhiêu bài cổ vũ các nghệ sĩ nổi tiếng được đăng trên các phụ trương âm nhạc và sân khấu. Suốt cả đời, tôi chưa bao giờ làm việc gì khác ngoài chuyện viết lách; nhưng tôi không có nổi niềm đam mê và năng khiếu của người kể chuyện, lại hoàn toàn mù tịt về các quy luật cấu thành tác phẩm kịch nghệ, và nếu tôi có phiêu du vào công việc này thì chẳng qua cũng chỉ vì quá tin vào biết bao nhiêu thứ mà mình đã học được trong suốt cuộc đời. Nói theo hơi hướng lãng mạn thì tôi là hạng người vô danh tiểu tốt chẳng để lại cho người đời bất cứ thứ gì ngoại trừ những sự việc mà tôi sắp cố gắng kể ra đây trong ký ức về mối tình lớn của mình. 

Cũng như mọi lần, cái ngày đánh dấu chín mươi tuổi của tôi đuợc nhớ đến đúng vào lúc năm giờ sáng. Đó là ngày thứ sáu nên công việc phải làm duy nhất của tôi là viết một bài có ký tên sẽ đăng vào số chủ nhật của tờ nhật báo El Diario de La Paz. Sáng sớm đã xuất hiện các triệu chứng báo hiệu một ngày không hạnh phúc: xương cốt trong người tôi đau nhức, hậu môn bỏng rát, và sấm báo bão rền vang sau ba tháng trời khô hạn. Tôi tranh thủ tắm trong khi cà phê đang được chuẩn bị rồi uống một ly pha với mật ong cùng với hai chiếc bánh ngô tráng với trứng, và vận bộ đồ áo liền quần vải mịn vẫn dùng ở nhà. 

Đề tài của bài báo ngày hôm đó, đương nhiên là về tuổi chín mươi của tôi. Tôi không bao giờ nghĩ đến tuổi tác như những giọt nước cứ lần lượt từ mái nhà rơi xuống để nhắc ta thời gian còn lại của cuộc đời mình. Hồi còn bé tôi đã nghe nói rằng khi ai đó bị chết, những con chấy được nuôi trong tóc sẽ hoảng hốt bò ra khắp gối để làm nhục gia chủ. Chuyện này làm tôi kinh sợ đến mức phải cạo trọc đầu để đi học và số tóc lởm chởm còn lại tôi còn phải thường xuyên gội bằng loại xà phòng mạt hạng dùng tắm cho chó. Thế nên giờ này tôi có thể nói thẳng rằng, từ nhỏ tôi đã có ý thức biết xấu hổ trước mọi người ngoài xã hội hơn là sợ chết. 

Từ mấy tháng trước tôi đã có dự định bài viết về ngày sinh của mình không phải là lời than vãn về những năm tháng đã đi qua, mà là điều ngược lại: sự tôn vinh tuổi già. Ngay đầu bài báo tôi đã đặt câu hỏi lúc nào mình đã tự ý thức được đã già và tôi tin là việc này chỉ mới xảy ra mấy hôm trước ngày sinh nhật chín mươi tuổi. Ở tuổi bốn mươi hai, tôi đã phải đi khám cơn đau vai làm ngộp thở. Bác sĩ không cho chuyện này là quan trọng: Đó chỉ là những cơn đau tự nhiên ở tuổi của anh thôi, ông ta nói với tôi. 

– Trong trường hợp này – tôi nói với ông ta – điều không tự nhiên chính là tuổi của tôi. 

Viên bác sĩ nhìn tôi cười thương hại. Tôi thấy anh là một triết gia, ông ta nói với tôi. Đấy là lần đầu tiên tôi nghĩ về tuổi già của mình, nhưng rồi nhanh chóng quên ngay việc này. Tôi quen dần với chuyện mỗi ngày khi thức dậy lại thấy đau mình đau mẩy ở đâu đó trong người và nó cứ lan dần theo tuổi tác. Thỉnh thoảng nó như là một cú đá của thần chết nhưng ngày hôm sau thì như lại tan biến. Vào thời kỳ này tôi nghe nói triệu chứng tuổi già đầu tiên xuất hiện khi người ta bỗng thấy mình giống với bố. Thế thì mình được tuyên án có tuổi thanh xuân vĩnh viễn rồi, lúc đó tôi nghĩ như vậy, bởi vì khi nhìn nghiêng, gương mặt ngựa của tôi chẳng hề có nét gì giống với vẻ mặt thô ráp của cư dân vùng biển Caribê của bố, cũng chẳng giống nét La Mã vương giả của gương mặt mẹ. Sự thật là những thay đổi diễn ta rất chậm chạp nên khó nhận ra và người ta cứ thấy trong cơ thể mình chẳng có gì biến đổi, chỉ có người khác mới có thể cảnh báo được từ việc nhìn bề ngoài. 

Từ t hập niên thứ năm trở đi, khi xuất hiện những lỗ hổng đầu tiên trong trí nhớ, tôi mới bắt đầu tưởng tượng ra tuổi già. Mò mẫm tìm khắp nhà cặp kính cho đến khi phát hiện ra mình đang đeo trên mặt hoặc vô ý để trong bình tưới cây, hoặc đọc sách mà quên không bỏ kính nhìn xa ra. Có ngày tôi ăn sáng hai lần vì quên là đã điểm tâm một lần trước đó, và tôi cũng học được cách nhận biết những tín hiệu nhắc nhở của bạn bè khi họ không muốn nói thẳng rằng câu chuyện tôi đang kể họ đã từng nghe từ tuần trước một lần rồi. Đến lúc đó, tôi đã sắp sẵn trong trí nhớ một danh sách các gương mặt quen biết cùng với tên của từng người, nhưng khi gặp mặt, chào nhau thì tôi không thể ghép đúng tên với gương mặt vừa thấy được. 

Tôi không bao giờ lo lắng về tình dục của mình, bởi vì sức mạnh không phụ thuộc vào tôi nhiều bằng lệ thuộc vào các nàng, vì chính họ sẽ biết cách thức và lý do khi thèm muốn. Hôm nay tôi cười nhạo những chàng trai mới ở tuổi tám mươi đã sợ hãi hỏi bác sĩ về những thay đổi bất chợt đó mà không biết rằng ở tuổi chín mươi còn tệ hại hơn nữa, dù lúc này chẳng quan trọng gì nữa: đó chỉ là những hiểm nguy khi người ta còn đang sống. Ngược lại, cuộc đời sẽ thắng nếu người già chỉ quên đi những gì không thật hệ trọng và không mấy khi lãng quên những chuyện mà chúng ta thực sự quan tâm. 

Ciceron 3 đã minh họa điều này bằng mấy nét bút: Không có người già nào quên được nơi giấu kho báu của mình. 

Với những suy nghĩ này, và một vài ý tưởng khác, tôi đã viết xong bản thảo đầu tiên của bài báo khi ánh nắng tháng Tám ngập tràn trên hàng cây bàng ở công viên và cả trên con tàu thuỷ chạy trên sông chở thư tín hú còi inh ỏi đang tiến vào kênh dẫn đến cảng, chậm cả tuần nay vì nước sông xuống thấp. Tôi nghĩ: thế là tuổi chín mươi của mình cũng đã đến. Tôi không bao giờ biết tại sao, và cũng không có ý định tìm hiểu, khi nhớ đến những việc này tôi lại quyết định gọi điện thoại cho bà Rosa Cabarcas nhờ giúp tổ chức lễ sinh nhật bằng một đêm phóng đãng. Tôi đã có những năm tháng giữ gìn thân xác hoàn toàn thánh thiện chỉ lo đọc đi đọc lại các tác phẩm cổ điển và chỉ nghe các chương trình âm nhạc bác học, nhưng ước vọng ngày hôm ấy mãnh liệt và bức xúc đến nỗi tôi cứ tưởng đó chính là điều nhắn gửi của Chúa trời. Sau khi gọi điện thoại, tôi không còn tiếp tục viết đuợc nữa. Tôi treo võng vào góc tường phòng đọc sách nơi ánh nắng buổi sáng không lọt vào được, và nằm vật xuống, ngực như bị cơn thèm khát chờ đợi bóp nghẹt. 

Tôi đã từng là một đứa trẻ nghịch ngợm có một người mẹ đa tài, nhưng bị bệnh lao phổi tiêu diệt ở tuổi năm mươi, có một người bố rất chuộng hình thức, hầu như không mắc lỗi lầm gì và bị chết vào lúc sáng sớm ngay trên giường goá bụa đúng vào ngày người ta ký hiệp ước Neerlandia chấm dứt cuộc chiến tranh “Một ngàn ngày” và cũng kết thúc biết bao cuộc nội chiến khác trong suốt thế kỷ trước. Nền hoà bình đã làm đổi thay thành phố theo hướng chẳng ai lường trước và chẳng ai thích thú gì. Một đám đông phụ nữ tự do đam mê làm giàu cho những quán rượu trên phố Ancha, và sau đó là bãi đất Abello và bây giờ là đại lộ Colon, ở chính ngay trong thành phố của tâm hồn tôi, một thành phố rất được coi trọng vì những công dân trong sạch và vì ánh sáng trong suốt của nó. 

Tôi không bao giờ ngủ với bất cứ người đàn bà nào mà không trả tiền, kể cả với một số ít vốn không phải là gái chuyện nghiệp thì tôi cũng cố thuyết phục họ, bằng lý hoặc bằng vũ lực, là phải nhận tiền dù chỉ để vứt vào sọt rác. Vào những năm hai mươi tuổi, tôi bắt đầu thống kê ghi chép lại tên họ, tuổi tác, nơi chốn và tóm tắt về hoàn cảnh và phong cách của các cô ấy. Cho đến năm năm mươi tuổi tôi đã ăn nằm với năm trăm mười bốn người phụ nữ ít nhất một lần. Tôi đã ngưng bản liệt kê khi cơ thể mình không còn đủ sức với nhiều người được nữa tuy vẫn có thể tiếp tục việc tính toán mà không cần đến giấy tờ. Tôi có triết lý đạo đức riêng. Tôi không bao giờ tham gia vào các cuộc lễ hội theo nhóm hay các cuộc đàm đạo nơi công cộng, cũng không chia sẻ chuyện kín với ai hoặc kể chuyện phiêu lưu về thân xác hay tâm hồn với bất cứ người nào, bởi vì, từ khi còn trẻ tôi đã nghiệm ra rằng không có cuộc phiêu lưu nào tránh khỏi sự trừng phạt. 

Mối quan hệ khác lạ duy nhất là với cô gái Damiana trung thành suốt trong nhiều năm. Thời ấy cô ta như là một bé gái, giống người thổ dân, khoẻ mạnh và có chút gì hoang dại, nói ít nhưng dứt khoát, thường đi chân đất để khỏi làm phiền tôi lúc đang viết lách. Tôi nhớ là lúc đó tôi đang nằm trên võng ở ngoài hành lang đọc Cô gái xứ Andaluz khoẻ mạnh, và vô tình nhìn thấy cô ta đang cúi người xuống giặt quần áo, váy thì ngắn cũn cỡn để lộ phía sau hai đầu gối quá hấp dẫn. Không kìm nổi cuồng nhiệt, tôi sán đến nhấc cô ta đứng dậy, kéo quần lót xuống đến đầu gối và tấn công cô ấy từ phía sau. Ấy, thưa ông, cô ta nói cùng với tiếng rên buồn bã, không ai người ta làm chuyện kỳ cục thế này. Cô ta run cầm cập nhưng vẫn đứng nguyên chắc chắn. Cảm thấy xấu hổ vì đã làm nhục cô ấy, tôi muốn trả số tiền gấp đôi số phải trả cho những cô đắt giá nhất lúc đó, nhưng cô ta dứt khoát không chịu nhận một xu nào, thế là tôi phải tăng thêm tiền công tháng cho người thường xuyên giặt quần áo và thường xuyên làm ngược như thế. 

Có đôi lần tôi nghĩ rằng bản thống kê chuyện chăn gối là phần chính của bản danh mục những điều hèn mọn trong cuộc sống phóng túng của chính mình và cái đầu để cho cuốn sách này bỗng như từ trên trời rơi xuống: Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi. Cuộc sống xã hội của tôi, ngược lại, chẳng có gì thú vị: mồ côi cả cha và mẹ, độc thân không chút tương lai, nhà báo quèn, bốn lần vào đến vòng chung kết trong các cuộc thi chơi hoa ở thành phố Cartagena và là nhân vật rất đuợc các nhà vẽ tranh biếm hoạ ưa thích nhờ nét xấu trai mẫu mực. Đó cũng chính là: một cuộc đời bị đánh mất ngay từ đầu, khi vào một buổi chiều, mẹ dắt tay tôi, lúc mười chín tuổi, đến toà soạn báo El Diario de La Paz xem người ta có thể đăng được hay không một bài phóng sự về sinh hoạt ở trường học do tôi viết trong lớp học môn tiếng Tây Ban Nha và ngữ văn. Bài đó được đăng vào số báo hôm chủ nhật với vài lời giới thiệu kiểu động viên của ông tổng biên tập. Mấy năm sau, khi biết mẹ tôi đã phải trả tiền cho người ta đăng bài đó và bảy bài tiếp theo, thì cũng đã quá muộn để tôi tự thấy xấu hổ, và lúc này chương mục hàng tuần của chúng tôi cũng tự chắp cánh bay, hơn nữa tôi đã là một biên tập viên tin tức và người viết các bài phê bình về âm nhạc. 

Từ khi được nhận bằng tú tài loại giỏi, tôi đã bắt đầu đi dạy môn ngữ pháp tiếng Tây Ban Nha và tiếng La Tinh ở ba trường công một lúc. Tôi là thầy giáo tồi, không được đào tạo, không có đam mê nghề nghiệp và cũng chẳng có chút tình thương nào đối với những đứa bé khốn khổ coi việc đến trường là cách dễ nhất để chốn chạy khỏi sự tàn bạo của bố mẹ. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là vây hãm lũ trẻ con trong nỗi khiếp sợ chiếc thước gỗ khiến tối thiểu chúng phải nhớ bài thơ mà tôi ưa thích: Fabio ơi, sao đớn đau, lúc này trước mắt anh, chỉ còn những cánh đồng đơn côi, ngọn đồi khô héo, vốn đã một thời là xứ Ý rạng rỡ. Mãi khi đã về già tôi mới vô tình biết rằng bọn học trò đã lén đặt cho tôi biệt hiệu Giáo sư Đồi khô héo. 

Đấy là tất cả những gì cuộc đời đã dành cho tôi và tôi cũng không làm gì để buộc nó phải cho thêm. Tôi dùng bữa trưa một mình giữa hai giờ lên lớp và sáu giờ chiều thì đến toà soạn báo để săn lùng các tín hiệu từ khoảng không trên trời. Mười một giờ đêm, khi báo đã lên khuôn, mới là lúc bắt đầu cuộc sống thực của tôi. Mỗi tuần lễ tôi qua đêm trong Khu phố người Hoa hai hoặc ba lần với những người đẹp khác nhau, đến mức tôi đã từng hai lần được chọn là khách hàng mẫu mực của năm. Sau khi ăn tối ở quán café Roma gần chỗ làm việc, tôi chọn bất cứ nh à chứa nào và lén lút đi vào bằng cửa sau. Lúc đầu tôi làm việc này theo ý thích nhưng cuối cùng nó lại trở thành một phần của công việc báo chí nhờ vào tính mau mồm mau miệng của các vị chính khách vốn thường hay thổ lộ bí mật quốc gia cho các người tình một đêm mà không biết rằng ngay sát vách bìa các tông có đôi tai của đại diện báo chí đang dỏng lên nghe hết lời của họ. Đương nhiên qua con đường này, tôi cũng đã phát hiện ra rằng thiên hạ đã cho tôi thích sống độc thân là để tối tối được đi hành lạc với trẻ em mồ côi ở phố Tội phạm. Tôi có cái may mắn là quên nhanh chuyện đàm tếu này, bời vì tôi cũng đã từng được người ta nói nhiều điều tốt đẹp về mình, và tôi coi trọng mọi điều người ta bàn tán về mình nếu có có giá trị. 

Tôi không bao giờ có những người bạn lớn, và số ít người gần gũi thì lại ở New York. Nói cách khác: là họ đều đã chết, bởi vì tôi quan niệm New York là nơi mà những linh hồn khốn khổ sẽ đến để khỏi tiêu hóa hết sự thật về cuộc sống nặng nề của mình. Từ khi về hưu, tôi ít việc phải làm ngoại trừ việc cứ chiều chiều thứ sáu hàng tuần phải đến toà báo đưa bài viết cho số chủ nhật, hoặc một vài việc lặt vặt khác: Các buổi hoà nhạc ở Viện nghệ thuật, các buổi khai mạc triển lãm tranh ở Trung tâm nghệ thuật mà tôi vốn là một thành viên sáng lập, dăm ba buổi nói chuyện về các vấn đề xã hội ở Hiệp hội cải thiện công cộng, hoặc là một sự kiện trọng đại nào đó ví như mùa biểu diễn tác phẩm Fabregas ở nhà hát Apolo. Hồi trẻ tôi thường đi xem phim ở các rạp không có mái che, nơi chúng tôi có thể bất ngờ được chiêm ngưỡng cảnh nguyệt thực hoặc bị cảm mạo vì những cơn mưa rào bất chợt. Nhưng cái làm tôi thích thú hơn cả không phải là những cuốn phim mà là những con chim đêm có thể cùng ngủ với mình với cái giá của một vé vào cửa hoặc cho ngủ mà không lấy tiền hoặc cho nợ. Bởi vì điện ảnh không phải là loại hình nghệ thuật của tôi. Sự sùng bái tục tĩu đối với Shirley Temple là giọt nước tràn ly. 

Những chuyến đi duy nhất của tôi là bốn lần đến Hội chợ hoa ở thành phố Cartagena, trước khi tôi tròn hai mươi tuổi, và một chuyến đi mệt mỏi suốt đêm trên tàu thủy theo lời mời của Sacracmento Montiel để dự khai trương hộp đêm của anh ta ở thành phố Santa Marta. Về sinh hoạt gia đình, tôi là người ăn ít và dễ ăn. Khi Damiana già cả không nấu nướng được nữa, thì món ăn thông thường của tôi là trứng tráng với khoai tây ở quán café Roma sau khi báo đã lên khuôn. 

Như vậy, là hôm trước ngày sinh nhật thứ chín mươi, tôi không ăn bữa trưa và cũng không thể tập trung tư tưởng cho việc đọc sách mà cứ ngong ngóng chờ tin tức của bà Rosa Cabarcas. Tiếng ve kêu ra rả trong cái nóng oi ả lúc hai giờ chiều và ánh nắng gay gắt lần lượt chiếu qua các cửa sổ mở toang làm tôi phải thay đổi vị trí chiếc võng ba lần. Tôi luôn cảm thấy sinh nhật của mình là ngày nóng nhất trong năm, và tôi đã học được cách chịu đựng, nhưng ngày hôm đó thì không thể chịu đựng nổi. Lúc bốn giờ chiều, tôi cố làm nguôi ngoai cái nóng bằng sau bản nhạc dành cho xêlô của Jean Sabastien Bach qua diễn tấu của nhạc sĩ Pablo Casals. Tôi vốn coi các bản này là những tác phẩm âm nhạc uyên bác nhất, nhưng hôm đó thay vì làm cho tôi thư giãn những bản nhạc này lại càng làm mệt mỏi thêm. Tôi ngủ thiếp đi ngay bản nhạc thứ hai mà tôi thấy có vẻ hơi chậm rãi, và trong giấc mơ chập chờn tôi hình dung tiếng đàn xêlô rền rĩ như cảnh chiếc tàu buồn bã ra đi. Và ngay lập tức tiếng chuông điện thoại làm tôi bừng tỉnh, rồi tiếng nói khàn đục của bà Rosa Cabarcas đã trả lại cuộc sống cho tôi. Ông có vận may của thằng ngốc, bà ta nói. Tôi tìm được một ả khá hơn cả điều ông mong muốn, nhưng có một điều nguy hiểm: nó chỉ mới chưa đầy mười bốn tuổi. Tôi không quan tâm đến việc nó vừa thay tã lót, tôi nói đùa tuy chưa hiểu bà ta nói nguy hiểm là vì lý do gì. Không phải tai hoạ đối với ông, bà ta nói, mà ai sẽ chịu trả công cho tôi trong ba năm ngồi tù đây? 

Tất nhiên sẽ chẳng ai trả cả, nhất là lại cho bà ta. Người đàn bà này đã thu hoạch những mùa bội thu bằng món hàng độc là thâ n xác các em gái nhỏ tuổi, dẫn dắt vào nghề và vắt kiệt chúng cho đến khi đẩy sang cuộc sống tàn tạ của những cô gái điếm mạt hạng trong nhà chứa lâu đời của mụ da đen Eufemia. Không bao giờ bà ta phải trả một xu tiền phạt nào, bởi vì sân vườn của bà ta là miền khoái lạc 4 của quan chức địa phương từ viên tỉnh trưởng đến nhân viên quèn của toà thị chính, và chẳng có gì là khó hiểu nếu biết rằng bà chủ có đủ mọi quyền năng để được phạm tội thoả thích. Vẻ thận trọng vào giờ chót của bà ta chẳng qua chỉ là cách moi thêm tiền của khách, vì việc làm dễ bị trừng phạt bao nhiêu thì càng phải trả tiền cao hơn bấy nhiêu. Mức độ nguy hiểm của dịch vụ đã được ngã giá tăng thêm hai đồng peso nữa, và chúng tôi thoả thuận với nhau là tôi sẽ đến nhà bà ta vào lúc mười giờ đêm với năm đồng peso tiền mặt đặt cọc trước. Không thể sớm hơn một phút vì đứa bé gái còn phải cho các em ăn, ngủ và đưa bà mẹ bị thấp khớp liệt chân tay lên giường ngủ xong đã. 

Còn bốn giờ nữa. Thời gian trôi đi thì tim tôi lại càng hồi hộp đến ngộp thở. Tôi cố công vô ích làm thời gian trôi chậm lại bằng việc kéo dài chuyện ăn vận quần áo. Tất nhiên chẳng có đồ gì mới cả vì chính Damiana còn nói tôi ăn vận như vị cha cố. Tôi dùng dao cạo lại bộ râu, rồi phải chờ cho nước bị nắng hâm nóng trong hệ thống ống nước ngoài trời nguội đi mới vào tắm được. Chỉ có việc cố dùng khăn lau khô người cũng đã lại làm tôi toát mồ hôi. Tôi chọn mặc quấn áo phù hợp với cuộc phiêu lưu buổi tối: bộ veston bằng vải lanh màu trắng, áo sơ mi sọc xanh cổ cồn và cravat bằng lụa Trung Hoa, đôi giày có thêm gót bằng kẽm và chiếc đồng hồ mạ vàng có dây đeo bằng kim loại gắn vào ve áo. Cuối cùng tôi phải gập hai ống quần vào phía trong để mọi người không nhận ra là chân tôi co lại cả một gang tay. 

Tôi nổi tiếng là người tần tiện bởi vì không ai có thể hình dung ra khu vực nơi tôi đang cư ngụ lại có người nghèo nàn đến thế, nhưng sự thật là một đêm vui chơi như hôm nay quả đã vượt rất xa tiềm lực của tôi. Tôi móc hai đồng peso trong hộc tủ giấu ở dưới giường để thuê phòng, bốn đồng cho bà chủ, ba đồng cho đứa bé gái và năm đồng dự trữ cho bữa ăn tối và một vài chi phí nhỏ nhặt khác. Tức là, mười bốn đồng mà toà báo trả cho những bài báo đăng trên phụ trương chủ nhật của cả tháng. Tôi giấu số tiền sau dây lưng rồi xức dầu thơm của hãng Lanman & Kemp-Barclay & Co. Tôi bỗng cảm thấy tim như thắt lại vì nỗi lo lắng và khi chuông đồng hồ điểm tám tiếng, tôi dò dẫm đi xuống cầu thang mờ tối, toát mồ hôi vì lo, và ra khỏi nhà, lao vào ánh sáng của đêm trước ngày sinh của chính mình. 

Trời mát mẻ. Những nhóm toàn đàn ông đang gào thét bình luận về bóng đá trên phố đi bộ Colon, giữa những chiếc xe taxi đang chờ khách ở giữa đường lát gạch. Một đội kèn đồng đang chơi những bài valse nhè nhẹ dưới hàng cây đầy hoa. Một cô điếm nghèo đang đón khách trên đường Los Notarios xin tôi điếu thuốc lá như mọi lần, và tôi trả lời: Tôi đã bỏ thuốc lá cho đến hôm nay là ba mươi ba năm, hai tháng và mười bảy ngày rồi. Khi đi ngang qua cửa hàng Vàng, tôi nhìn vào những khung kính rực rỡ và thấy rõ cái mà tôi không cảm thấy đuợc là mình đã già khụ và ăn mặc thì quá tệ. 

Gần đến mười giờ, tôi lên xe taxi và yêu cầu tài xế đưa tôi đến nghĩa trang Hoàn Cầu để anh ta không biết tôi sẽ đi đâu. Anh ta vui vẻ nhìn tôi qua kính chiếu hậu và nói: Đừng làm tôi giật mình kiểu đó, thưa ngài thông thái, cầu Chúa cho tôi cũng được sống như ngài. Chúng tôi cùng xuống trước nghĩa trang và vì anh ta không có tiền lẻ thối lại nên chúng tôi phải đổi ở một cửa hàng ăn của thổ dân, nơi vào các buổi sáng sớm những kẻ say rượu bét nhè thường khóc thương những người đã chết. Khi tính tiền xong, tay lái xe nghiêm nghị nói với tôi: Ngài phải cẩn thận đấy nhé, vì bây giờ nhà của bà Rosa Cabarcas không được bảo kê như ngày xưa đâu. Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh ta, và cũng như tất cả mọi người, tôi hoàn toàn tin chắc rằng không có một bí mật nào dưới bầu trời này mà cánh lái xe taxi ở phố đi bộ Colon không tỏ tường. 

Tôi đi vào khu phố nghèo chẳng còn giống tý gì nơi trước đây tôi đã từng quen thuộc. Vẫn là những đường phố rộng đầy cát bỏng với những ngôi nhà cửa rộng mở, những bức tường bằng gỗ thô mộc, mái bằng lá cọ và những sân vườn đầy đá sỏi. Nhưng cư dân thì không còn được yên tĩnh nữa. Ở phần lớn các nhà đều có những đám khiêu vũ ngày thứ sáu ầm ỹ từ trong ra ngoài. Với năm mươi xu, ai cũng có thể mua vé vào đám khiêu vũ mà mình thích nhất, nhưng cũng có thể lẻn theo ai đó vào nhảy cùng. Trong bộ đồ quái dị, vừa đi tôi vừa muốn chui xuống đất, nhưng không có ai để ý đến tôi, trừ một tay người lai da nâu gầy còm đang ngồi ngái ngủ trên bậu cửa nhà hàng xóm. 

– Vĩnh biệt ngài tiến sĩ – hắn ta thành thật hét to với tôi. – chúc hạnh phúc trong cát bụi nhé. 

Còn có thể làm gì hơn là cảm ơn anh ta? Tôi phải dừng lại ba lần để lấy hơi mới lên được cái dốc cuối cùng. Từ đó có thể nhìn thấy mặt trăng to như chiếc dĩa bằng đồng đang chiếu sáng từ chân trời, và một cơn đau bụng bất thường khiến tôi lo lắng cho số phận của mình, nhưng cuối cùng thì cũng qua khỏi. Cuối con đường nơi khu phố chìm trong khu vườn cây ăn trái, tôi đi vào tiệm của bà Rosa Cabarcas. 

Hình như nó không còn như trước. Hồi xưa nó vốn là nhà chứa kín đáo nhất và cũng nổi tiếng nhất. Một người đàn bà to béo mà chúng tôi phong là thượng sĩ chữa cháy, không chỉ vì to xác mà còn vì tính hiệu quả trong việc dập tắt rất nhanh ngọn lửa trong lòng đám khách hàng. Nhưng nỗi cô đơn đã làm héo mòn thân xác bà ta, làm da nhăn nheo và làm cho giọng nói sắc gọn hơn như tiếng của đứa bé già cả. Người đàn bà trước đây chỉ còn giữ lại được hàm răng chắc khoẻ, duy nhất có một chiếc được bọc vàng để làm duyên. Bà ta vẫn để tang người chồng bị chết lúc mới có năm mươi tuổi đời tầm thuờng, và rồi phải đeo tang thêm một lần nữa cho người con trai duy nhất. Bà ta chỉ còn ánh mắt sáng, sống động, nhưng đầy vẻ độc ác và, nhìn qua ánh mắt ấy, tôi nghiệm ra rằng tính khí bà ta không hề thay đổi. 

Tiệm chỉ có một đốm sáng nhạt hắt từ trên trần xuống và trong các tủ không hề bày bán bất cứ thứ gì dù chỉ là để làm bình phong cho thứ dịch vụ không được rao to mà ai cũng biết. Rosa Cabarcas đang sắp xếp phòng cho một khách hàng khi tôi rón rén đi vào. Tôi không biết là thực sự bà ta không nhật ra mình hay giả vờ như thế để giữ đúng thủ tục. Tôi ngồi xuống ghế chờ bà ta làm xong việc và cố dựng lại trong ký ức hình ảnh người đàn bà này trước đây. Hơn hai lần, khi chúng tôi còn khỏe mạnh, bà ta đã từng kéo tôi ra khỏi cơn hoảng sợ. Tôi tin là bà ta đã đọc được ý nghĩ của tôi nên quay lại nháy mắt với tôi. Thời gian như không đi qua người đàn ông, bà ta buồn bã thở dài. Tôi muốn nịnh khéo bà ra: Với bà thì có đấy, nhưng lại làm bà trẻ lại. Nói thật nhé, bà ta nói, cái mặt ngựa chết của ông cũng đã sống lại rồi đấy. Có lẽ là vì tôi thay đổi chỗ ăn cũng nên, tôi nói đùa với bà ta. Bà ấy tỏ ra phấn chấn. Nếu tôi nhớ đúng thì ông đã từng có nữ hầu hạ đầu tắt mặt tối, bà ta nói với tôi. Thế cô ta thế nào rồi? Tôi cố tình lảng tránh. Kể từ khi chúng ta không gặp nhau, điểm khác duy nhất là thỉnh thoảng tôi thấy nóng đít. Bà ta có ngay lời chuẩn đoán: Vì ít dùng đến đấy mà. Tôi chỉ dùng nó như Chúa đã tạo ra mà thôi, tôi nói với bà ta, nhưng đúng là trước đây tôi thấy nóng cháy ở đó, và luôn luôn vào những ngày trăng tròn. Rosa tìm trong hòm kim chỉ và lấy ra một lọ dầu mày xanh có mùi dầu xoa bóp làm từ cây kim sa. Ông bảo con bé dùng ngón tay bôi dầu này cho ông, bà ta vừa nói vừa xoay xoay ngón tay trỏ một cách thành thạo.Tôi đáp lại là nhờ Đức Chúa tôi vẫn còn đủ khả năng tự bảo vệ được mình, không cần bôi cái thứ vớ vẫn đó. Bà ta chế nhạo: Ái chà, thưa thầy, xin tha mạng sống cho con. Thôi tuỳ ông. 

Con bé ở trong phòng từ lúc mười giờ, bà ta nói với tôi; nó đẹp, sạc h sẽ và ngoan nhưng đang sợ chết khiếp, bởi vì con bạn gái của nó trốn đi cùng một tay bốc vác ở Gayra đã chảy máu suốt hai giờ liền. Nhưng, bà Rosa thừa nhận, người ta phải hiểu rằng bọn người ở Gayra có tiếng là thô bạo. Rồi bà ta nói tiếp: Tội nghiệp con bé, nó phải làm việc đơm cúc suốt ngày ở nhà máy. Tôi thấy việc này đâu có gì nặng nhọc. Đàn ông cứ nghĩ vậy, bà ta đáo lại, nhưng việc này còn nặng nhọc hơn đèo đá nữa đấy. Ngoài ra bà ta còn thú nhận đã cho con bé uống một hợp chất đồng với kim loại pha và rễ cây nữ lang và giờ này nó đang ngủ say. Tôi sợ bà ta kể những chuyện thương tâm đó như một mánh để nâng giá, nhưng không phải như vậy, bà ta nói, lời của tôi là lời vàng. Với một quy tắc bất di bất dịch: việc gì thêm là phải trả thêm tiền, tiền mặt trả trước. Và đúng như thế. 

Tôi đi theo bà ta qua khu vườn, mà lòng thấy xót xa cho nước da khô héo và kiểu đi khó nhọc với đôi chân sưng phồng trong đôi tất bằng bông thô của bà ấy. Mặt trăng rằm đã lên cao giữa bầu trời và thế giới như chìm đắm trong biển nước xanh. Bên cạnh tiệm có một căn nhà mái lợp bằng lá cọ dùng cho các buổi lễ hội của giới công chức, có nhiều ghế bằng da và võng treo trên cọc. Cuối vườn nơi bắt đầu rừng cây ăn quả có một dãy sáu căn phòng ngủ xây bằng gạch không nung, các cửa sổ có lưới chắn muỗi. Phòng duy nhất có người ở chìm trong ánh đèn mờ và vọng tiếng hát của Tona, cô gái da đen đang hát bài ca thất tình qua đài phát thanh. Rosa Cabarcas thở mạnh: Điệu hát bolero chính là cuộc sống. Tôi đồng ý với bà ta, nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa dám viết ca từ cho loại nhạc bolero. Bà ta đẩy cửa, vào trong phòng một lát rồi quay trở ra. Con bé vẫn ngủ say, bà ta nói.Có lẽ nên để cho nó nghĩ ngơi tất cả thời gian mà cơ thể yêu cầu, đêm của ông sẽ bài hơn đêm của con bé nữa đấy. Tôi bực bội: Thế bà bảo tôi cần phải làm gì nào? Ông tự biết, bà ta nói với giọng hồ hởi không đúng chỗ, dù gì chăng nữa ông cũng là người thông thái mà. Bà ta xoay người và để tôi đứng một mình với nỗi bất an trong lòng. 

Không còn đường thối lui. Tôi bước vào phòng với trái tim vỡ tung, và thấy bé gái đang ngủ, trần trụi trên chiếc giường rộng mênh mông như khi mới được sinh ra. Nó nằm hơi nghiêng mặt quay ra phía cửa, toàn thân được ngọc đèn sáng chói từ trên trần chiếu thẳng xuống lộ rõ mọi chi tiết. Tôi ngồi xuống mép giường chiêm ngưỡng bằng cả năm giác quan. Nó có nước da nâu và nồng ấm. Người ta đã buộc nó theo chế độ vệ sinh và làm đẹp cẩn thận đến từng lông tơ của mu âm hộ. Họ đã uốn tóc và bôi sơn tự nhiên cho móng tay và móng chân của nó, nhưng làn da bánh mật vẫn còn thô rám và không hề được chăm chút. Cặp vú mới nhú như của đứa bé trai nhưng đã thấy ẩn chứa năng lượng bí ẩn sắp nổ bung ra. Nét xuất sắc nhất trên thân thể của nó chính là đôi chân to với những ngón dài và thuôn như ngón tay. Toàn thân ướt đẫm mồ hôi lóng lánh mặc dù trong phòng có quạt máy, và trời càng về khuya càng nóng hầm hập. Không thể nào tưởng tượng được gương mặt của bé gái này ra sao sau lớp phẩm phết dầy, dưới lớp bột gạo quết đầy hai má, cặp lông mi giả, lông mày và mí mắt như bị hun khói đen và cặp môi được làm to thêm bằng k5o sô-cô-la. Nhưng tất cả không thể làm sai lệch được đặc tính của nó: mũi cao, lông mày chụm, đôi môi mọng chín. Tôi nghĩ: Đúng là con bò cái tơ hiền lành. 

Mười một giờ, tôi làm các thủ tục thường ngày ở trong buồng vệ sinh nơi y phục của cô bé nghèo được vắt rất cẩn thận như của người giàu có trên một chiếc ghế: bộ đồ in hoa bướm, một quần lót màu vàng rách và đôi dép bằng sợi cây xương rồng. Trên mớ y phục để chiếc vòng đeo tay loại bán hạ giá và một dây chuyền mảnh mai đeo tấm huy hiệu ảnh Đức Mẹ đồng trinh. Trên nắp lavabo có chiếc ví đựng bút tô môi, thỏi son, một chìa khoá và mấy đồng bạc lẻ. Tất cả đều rẻ tiền và cũ kỹ khiến tôi phải tưởng tượng xem còn có ai nghèo như cô bé này không. 

Tôi cởi quần áo và treo thật cẩn thận trên từng mắc áo để khỏi nhàu chiếc áo sơ mi bằng lụa và mất nếp bộ veston. Tôi đi tiểu vào bồn cầu, ngồi đú ng cách mà ngày bé mẹ Florina de Dios đã dạy để không ướt gỗ lót, và dù hết sức khiêm tốn, tôi cũng phải nói rằng dòng nước chảy vẫn ào ào và liên tục như của chú ngựa hoang vậy. Trước khi rời khỏi buồng, tôi còn quay lại nhìn trong gương. Con ngựa nhìn tôi qua gương không phải có nét của kẻ bị chết mà đầy nét buồn thảm, và cả có cái cằm như của Đức Giáo hoàng, đôi mi mắt sưng húp, bờm lưa thưa mà tôi coi là biểu tượng nhạc sĩ của mình. 

– Đồ cứt đái – tôi nói với con bé – ta biết làm gì nếu em không yêu ta? 

Cố không đánh thức con bé dậy, tôi ngồi trần như nhộng ngay mép giường và với cặp mắt vốn đã quá quen với ánh sáng ảo màu đỏ, tôi xem xét từng ly từng tý thân thể nó. Tôi dùng lòng ngón tay trỏ lướt nhẹ dọc gáy đẫm mồ hôi của con bé và toàn thân nó rung lên như dây đàn. Nó nằm quay lại, miệng rên ậm ừ và bao bọc tôi trong bầu không khí đầy hơi thở chua chua của nó. Tôi dùng ngón trỏ và ngón cái bóp mũi nó, toàn thân nó lại run lên, nghiêng đầu và quay lưng lại phía tôi mà không hề tỉnh ngủ. Bất chợt, tôi cố dùng đầu gối đẩy hai chân cô bé ra xa nhau. Trong hai lần đầu, cô bé gồng cơ bắp của cô bé như hơi chùng xuống. Một dòng nước ấm chảy râm ran trong huyết mạch của tôi và con thú hưu trí trong người tôi từ từ bừng tỉnh dậy sau giấc ngủ dài. 

Delgadina, tâm hồn của tôi ơi, tôi thiết tha cầu khẩn cô ta. Nàng Delgadina. Cô bé cất tiếng rên sầu thảm, vuột khỏi cặp đùi của tôi, quay lưng lại và cuộn người như con ốc thu mình trong vỏ. Hợp chất đồng và kim loại pha với rễ cây nữ lang có lẽ cần tác dụng với tôi cũng như với cô bé, bởi vì đã chẳng có gì xảy ra với cô bé và với bất cứ ai. Nhưng tôi thấy việc ấy chả có gì quan trọng cả. Tôi tự hỏi đánh thức cô bé dậy làm gì khi bản thân mình cảm thấy nhục nhã, buồn bã, và nhất là quá lạnh lẽo. 

Tôi nghe tiếng chuông điểm rõ ràng vào lúc mười hai giờ đêm, thế là bắt đầu sáng sớm ngày 29 tháng Tám, ngày Khổ hạnh của Thán h Juan Bautista. Ai đó khóc to ngoài đường phố nhưng chẳng ai để ý đến hắn. Tôi cầu nguyện cho hắn, nếu như hắn cần, và cầu nguyện cho chính mình để tạ ơn những gì mình đã nhận được: Đừng ai tự lừa dối mình, đừng nghĩ rằng điều ta chờ đợi sẽ kéo dài hơn những gì ta thấy. Bé gái rên rỉ trong giấc mơ, và tôi cũng cầu nguyện cho nó: Rằng mọi sự sẽ diễn ra như cách nó phải xảy ra. Sau đó tôi tắt radio và đèn để đi ngủ. 

Sáng sớm tôi tỉnh dậy mà vẫn chưa nhớ là mình đang ở đâu. Bé gái vẫn ngủ say, quay lưng về phía tôi trong tư thế bào thai trong bụng mẹ. Tôi có cảm giác mơ hồ là trong đêm qua hình như cô bé đã trở dậy trong bóng tối và mình có nghe thấy tiếng nước chảy ào trong buồng tắm, nhưng đó cũng có thể chỉ là giấc mơ. Đây là chuyện mới đối với tôi. Tôi không biết các mẹo quyến rũ đàn bà, và thường chỉ biết chọn người yêu một đêm một cách tình cờ theo biểu giá hơn là theo sự hấp dẫn, và chúng tôi làm tình không chút tình yêu, nhiều lần chưa cởi bỏ hết xiêm y, và luôn luôn trong bóng tối để tưởng tượng mình khá hơn. Tối hôm đó tôi phát hiện ra niềm thích thú thực sự khi ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng. 

Tôi trở dậy vào lúc năm giờ sáng, lo lắng vì phải giao bài báo chủ nhật cho toà soạn trước mười hai giờ trưa. Tôi làm vệ sinh thường nhật vẫn với nỗi đau bỏng rát của tuổi dậy thì, và khi giật nước xả tôi cảm thấy bao nỗi hận thù trước đây của mình đều bị cuốn vào cống hết. Khi cảm thấy sảng khoái và đã ăn vận chỉnh tề xong, tôi quay lại phòng ngủ thì bé gái vẫn nằm ngửa ngủ say dưới ánh sáng dịu dàng của buổi sớm mai chiếu xuyên qua giường, hai cánh tay rộng mở bắt chéo nhau và vẫn hoàn toàn làm chủ trinh tiết của mình. Tất cả tiền bạc còn lại, của tôi bà của nó, tôi để cả trên gối và tôi vĩnh biệt mãi mãi bé gái bằng một nụ hôn trên trán. Vào buổi sáng sớm, căn nhà, cũng như mọi hộp đêm khác, gần với thiên đường hơn cả. Tôi rời khỏi nơi đó bằng cửa sau vườn nhưng không gặp ai. dưới ánh nắng chói chang ngoài phố, tôi bắt đầu cảm thấy sức nặng của chín mươi năm đè lên mình, và bắt đầu đếm từng phút một số phút giây ban đêm còn lại để đến với cái chết.

——————————–

1 Virgo: Xử nữ, người mang mệnh Xử nữ, cung thứ sáu của hoàng đạo, tương ứng từ ngày 22 tháng Tám đến 23 tháng Chín.
2 Garibaldi: chiến sĩ yêu nước Italia ( 1807- 1882) đã từng chiến đấu chống nước Áo vì sự thống nhất của Italia.
3 Ciceron: chính khách, nhà tư tưởng và diễn giả nổi tiếng thời La Mã cổ đại, sống từ năm 106 đến 43 trước công nguyên.
4 Nguyên văn: xứ Arcadia – một vùng quê của Hi Lạp mà các nhà thơ cổ biến thành xứ sở của thơ ngây và hạnh phúc.

 

CHƯƠNG 2

Tôi viết những dòng hồi ức này trong thư phòng bé nhỏ mà bố tôi để lại với những vách tủ đựng sách đang bị mục rỗng vì sự nhẫn nại của bầy mối mọt. Nhưng dù sao đi nữa, để lam nốt những công việc còn lại trên thế gian này tôi vẫn còn đủ các loại từ điển, cùng hai loại tiểu thuyết đầu tiên trong bộ Những sự kiện lịch sử quốc gia của Benito Perez Galdos, va với Núi thần của Thomas Mann vốn từng dạy tôi hiểu tính hài hước của người mẹ đã mất vì bệnh lao phổi. 

Khác với các loại đồ đạc khác và khác hẳn cả bản thân tôi, chiếc bàn mà tôi đang viết hình như ngày càng khỏe mạnh hơn bởi vì nó được ông nội tôi, vốn là thợ mộc trên tàu thuỷ, làm ra bằng các loại gỗ quý. Kể cả khi không cần viết lách gì, sáng nào tôi cũng sắp xếp lại bàn làm việc vì tôi là một người kỹ tính đến mức đã bỏ mất bao cơ hội tình yêu. Ngang tầm với tay, bao giờ tôi cũng để các cuốn sách tòng phạm với mình trong tội viết lách: đó là hai tập Từ điển có minh họa đầu tiên của Viện hàn lâm hoàng gia in năm 1903; cuốn Kho báu của ngôn ngữ Tây Ban Nha của Don Sebastian de Covarrubias; cuốn Ngữ pháp của Don Andres Bello, và để giải đáp những thắc mắc về ngữ nghĩa vẫn thường xảy ra, tôi có cuốn Từ điển tư tưởng rất mới mẻ của Don Julio Casares, và đặc biệt là để tìm những từ đồng nghĩa và phản nghĩa có cuốn Từ vựng của ngôn ngữ Italia của Nicola Zingarelli, để luôn giúp tôi nhớ ngôn ngữ của mẹ mà tôi đã học từ khi còn nằm trong nôi, và cuốn Từ điển tiếng La Tinh vốn là mẹ của hai ngôn ngữ kia nên tôi coi như tiếng mẹ đẻ của mình. 

Ở bên trái bàn viết của tôi luôn để năm tờ giấy khổ lớn để viết các bài báo chủ nhật, v à chiếc cốc bằng sừng đựng phấn thơm mà tôi thích hơn chiếc túi bằng giấy khô hiện đại. Ở bên phải, có ống mực và ống đựng chiếc bút mạ vàng bởi vì đến lúc này tôi vẫn dùng bút thuờng viết theo lối chữ La Mã do mẹ Florina de Dios dạy cho chứ không viết theo chữ nắn nót chính thức của chồng bà vốn là một công chứng viên và một kế toán tận tụy đến hơi thở cuối cùng. Từ lâu toà soạn báo đã bắt chúng tôi phải viết bằng máy đánh chữ để dễ tính khoảng trống trên báo và dễ sửa bản kẽm, nhưng tôi không bao giờ bỏ được thói xấu viết tay rồi sau đó mới cặm cụi mổ cò trên máy. Tôi được hưởng thứ đặc quyền chẳng hay ho gì này vì là nhân viên lâu năm nhất ở toà báo. Ngày hôm nay, tuy đã hưu trí nhưng chưa hề thất bại, tôi vẫn hưởng đặc quyền thiêng liêng được viết ở tại nhà, với ống điện thoại để ngoài để không bị ai quấy rầy, và nhất là không bị ai đứng đằng sau lưng nhòm ngó, kiểm duyệt những gì mình đang viết. 

Tôi sống không chó, không chim, không người giúp việc ngoại trừ bà Damiana trung thành luôn giải thoát cho tôi những chuyện rắc rối ít ngờ tới và mỗi tuần vẫn đến nhà tôi một lần xem có việc gì phải làm không, mặc dù mắt của bà ta đã kém nhưng trí não thì còn rất sâu sắc. Khi nằm trên giường chờ chết, mẹ còn nhắc tôi phải lấy vợ sớm với một người phụ nữ da trắng, và rằng chúng tôi phải có ít nhất ba đứa con, trong đó phải có một đứa bé gái mang tên của mẹ như mẹ đã từng mang tên của mẹ và bà ngoại mình. Tôi vẫn thường xuyên nhớ lời mẹ dặn, nhưng lại có ý niệm rất mềm dẻo linh hoạt về tuổi trẻ nên cứ tự cho là không bao giờ muộn trong việc lấy vợ. Cho đến một buổi trưa nóng nực tôi đi nhầm cửa phòng trong căn nhà mà gia đình Palomares de Castro có ở bãi biển Pradomar, và bất ngờ thấy Ximena Ortiz, cô con gái út của họ đang nằm loã thể ngử trưa trong phòng. Cô ta nằm nghiêng quay lưng ra phía cửa nhưng bỗng quay đầu nhìn qua vai nhanh đến mức tôi không kịp trốn chạy. Chà chà, xin lỗi nhé, tôi chỉ kịp thật thà nói câu đó. Cô ta mỉm cười, quay hẳn người về phía tôi nhanh như loài hoẵng và phơi bày hết toàn thân. Không gian thật thân mật. Không hoàn toàn chỉ có da thịt mà trên và. nh tai cô cài một bông hoa độc nhiều cánh màu vàng như nàng Olimpia trong tranh của Manet và đeo vòng vàng ở cổ tay phải và một chuỗi vòng cổ bằng các hạt ngọc nhỏ. Tôi chưa từng tưởng tượng mình lại có thể đuợc thấy một điều gì làm bối rối đến như vậy trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, và ngày hôm nay tôi có thể khẳng định là lúc đó mình đã có lý. 

Tôi đóng mạnh cửa ra vào, xấu hổ vì sự vụng về của bản thân và cố quên đi sự việc này. Nhưng Ximena Ortiz lại ngăn cản tôi làm việc đó. Nàng liên tục gửi các lời nhắn qua các bạn gái chung của hai người, những bức thư khiêu khích, những lời đe dọa dã man, trong khi tin đồn chúng tôi yêu nhau phát điên dù chưa thổ lộ ra thì đã lan truyền khắp nơi. Không thể chịu nổi. Nàng có đôi mắt của mèo hoang, một thân hình bốc lửa dù mặc quần áo hay không và một mái tóc dày màu vàng óng với lối búi tóc kiểu đàn bà làm tôi khóc vì tức giận trên gối. Vẫn biết không bao giờ dẫn đến tình yêu, nhưng sự hấp dẫn quỷ quái của nàng đối với tôi thật nồng cháy đến mức tôi phải tìm cách giảm nhiệt bằng việc tiếp xúc với những người đàn bà mắt xanh tầm thường khác. Tôi không bao giờ dập tắt được ngọn lửa kỷ niệm về nàng khi nằm trên giường ở Pradomar, và thế là tôi phải hạ vũ khí, chính thức xin cầu hôn, trao nhẫn cưới và công bố ngày tổ chức đám cưới thật to trước lễ Pentecôte 1

Tin này làm bùng nổ mạnh hơn ở Khu phố người Hoa so với ở các câu lạc bộ. Lúc đầu người ta trêu đùa nhưng sau đó trở thành quan điểm đối lập với mọi quan niệm hàn lâm vì nó coi hôn nhân là một trạng thái khôi hài hơn là một việc thiêng liêng. Giai đoạn yêu đương của hai chúng tôi cũng diễn ra đúng nghi thức cửa nền đạo đức Gia tô giáo trên sân thượng treo đầy hoa phong lan rừng xứ Amadôn và cây dương xỉ. Tôi thường đến vào lúc bảy giờ tối với bộ veston lanh màu trắng, và tất nhiên với một món quà là đồ thủ công hoặc kẹo sô-cô-la Thụy sĩ, rồi nói chuyện nửa mật khẩu nửa thật đến mười giờ dưới sự giám sát. của bà cô Argenida luôn ngủ gà ngủ gật ngay từ cái nháy mắt đầu tiên như trong các tiểu thuyết thời thượng. 

Chúng tôi càng biết kỹ về nhau thì Ximena càng trở nên háu trai, cuồng nhiệt, nàng luôn cởi bớt áo lót và váy trong cho nhẹ người nhất là khi gió nóng tháng Sáu thổi về, và cũng dễ mường tượng sức tàn phá của nàng khi chúng tôi đứng trong bóng tối. Hai tháng sau khi yêu nhau, chúng tôi không còn chuyện gì để nói, nàng đề xuất ra đề tài con cái chỉ bằng cách đan các đôi giày nho nhỏ bằng len cho trẻ sơ sinh. Tôi, người yêu tinh tế, cũng học đan cùng nàng và thế là chúng tôi trải qua những giờ phút vô tích sự trước lễ cưới, tôi thì đan các đôi giầy be bé bằng len màu xanh cho con trai còn nàng thì đan len màu hồng cho con gái rồi thách đố xem ai sẽ đúng, cứ thế cho đến khi đủ cho hơn nửa trăm đứa con. Trước khi đồng hồ điểm mười giờ tôi lên xe ngựa rồi đi thẳng đến khu phố người Hoa để qua đêm trong sự yên bình của Chúa. 

Lễ hội tiễn đưa tuổi độc thân của tôi được diễn ra ở khu phố người Hoa sôi nổi hơn nhiều so với cũng lễ ấy cứng nhắc ở Câu lạc bộ. Sự đối lập đã giúp tôi biết được trong hai thế giới trên thực tế đâu là thế giới mình, nhưng tôi vẫn nuôi ảo tưởng rằng cả hai thế giới ấy đều là của mình tùy theo thời khắc cụ thể, bởi vì từ bất cứ thế giới nào tôi cũng thấy, trong tiếng thở dài xa dần thế giới kia như hai con tàu gặp nhau rồi xa nhau ngoài biển khơi. Buổi khiêu vũ đêm trước ngày hợp hôn trong nhà thờ “Dưới quyền năng của Chúa” gồm cả một nghi lễ cuối cùng dưới sự điều khiển của cha cố người xứ Galaxia rất lúng túng trong chuyện thông tục này. Ông ta bắt tất cả đàn bà con gái phải mang khăn che mặt và vòng hoa bưởi để thành hôn với tôi trong lễ thánh hóa hoàn vũ. Đó là một đêm nhiều chuyện phạm thánh thần vì có đến hai mươi mốt trong số các cô có mặt đã hứa yêu và luôn vâng lời tôi còn tôi đền đáp lại cho họ bằng niềm hạnh phúc và sự nuôi dưỡng cả sau khi đã xuống mồ. 

Tôi không ngủ được vì điềm báo sẽ có chuyện vô phương cứu chữa. Từ sáng sớm tôi bắt đầu đếm từng bước thời gian của chiếc đồng hồ ở nhà thờ lớn, cho đến khi nó điểm bảy tiếng chuông đáng sợ là lúc tôi phải có mặt ở nhà thờ. Tiếng chuông điện thoại bắt đầu vang lên từ lúc tám giờ sáng, kéo dài và lỳ lợm, khẩn thiết suốt cả tiếng đồng hồ. Không những không trả lời mà tôi còn không dám thở lớn. Mấy phút trước lúc mười giờ, bắt đầu có tiếng gọi cửa, lúc đầu là bằng nắm đấm, rồi sau đó bằng tiếng kêu của những giọng người quen và đáng ghét. Tôi sợ là cửa sẽ bị đổ sập vì một tai nạn nghiêm trọng nào đó bất chợt xảy ra, nhưng khoảng mười một giờ thì căn nhà trở lại bầu không khí im lặng rợn tóc gáy thường có xảy ra sau những tai họa lớn. Lúc ấy tôi mới khóc thương nàng và thương mình rồi thành tâm cầu nguyện đừng bao giờ gặp lại nàng trong suốt những ngày còn lại của đời mình. Có lẽ một vị thánh nào đó đã nghe nửa chừng lời nguyện cầu của tôi nên ngay trong đêm đó Ximena Ortiz đã bỏ đi nước ngoài và mãi mãi hai mươi năm sau mới trở về nước, có chồng môn đăng hộ đối và bảy đứa con mà đáng ra phải là con của tôi. 

Sau chuyện đáng sỉ nhục đó, tôi phải vất vả lắm mới giữ được chỗ làm việc và chuyên mục thường xuyên trên tờ Diario de La Paz. Nhưng chuyên mục của tôi bị đẩy xuống tận trang mười một chẳng phải vì do đó, mà chính là vì lúc này thế kỷ XX đang ập đến đầy khí thế mạnh mẽ. Những bước tiến bộ đã trở thanh huyền thoại trong thành phố. Tất cả đều thay đổi; những chiếc máy bay bắt đầu bay trên trời và một doanh nhân nọ từ trên một chuyến bay của chiếc phi cơ Junker đã quẳng một bao chở đầy thư tín xuống đất để sáng tạo ra nghề bưu chính hàng không. 

Điều duy nhất còn y nguyên là những bài của tôi đăng trên báo. Những thế hệ mới công kích kịch liệt những bài đó, coi như một thứ xác ướp của quá khứ cần chôn vùi, nhưng tôi vẫn duy trì chúng với cùng giọng điệu, không chút nhân nhượng, không chút nhân nhượng, chống lại bầu không khí. Tôi hoàn toàn điếc với tất cả. Lúc này chuyên mục đã ra đời được bốn mươi năm, nhưng những biên tập viên trẻ vẫn coi là chuyên mục vớ vẩn là đứa con hoang. Chủ bút tờ báo thời kỳ đó đã gọi tôi đến văn phòng để nhắc nhở phải viết theo giọng điệu của trào lưu mới. Với thái độ trịnh trọng, ông ta nói với tôi: Thế giới đang tiến lên. Vâng, tôi nói với ông ta, đang tiến lên, nhưng vẫn quay quanh mặt trời. Tôi vẫn duy trì bài báo chủ nhật vì người ta không tìm ra ai có thể thu tin và biên tập lại tin điện như tôi. Ngày hôm nay tôi nhận thấy là hồi ấy mình đã có lý và vì sao lại như vậy. Những người trẻ tuổi lúc đó trong vòng xoáy của cuộc mưu sinh đẫm chìm trong ảo mộng về tương lai, cho đến khi thực tế dạy họ biết rằng tương lai không phải như họ mơ tưởng và thế là họ phát hiện ra sự hoài niệm nhớ thương. Đó chính là những bài báo chủ nhật của tôi, như là một di chỉ khảo cổ trong đống đổ nát của quá khứ, và họ nhận ra rằng, những bài đó không chỉ dành cho những người già mà cả cho những người thanh niên không sợ tuổi già. Những bài đó lại được quay về đăng trên trang chính luận và trong trường hợp đặc biệt, được đăng ngay trên trang nhất. 

Ai hỏi tôi cũng luôn trả lời thật: các cô gái điếm đã không để tôi có đủ thời gian lấy vợ. Tuy nhiên tôi phải thừa nhận rằng lời giải thích này mình chỉ kịp nghĩ ra đúng vào sinh nhật thứ chín mươi, khi vừa ra khỏi nhà của Rosa Cabarcas và quyết chí không bao giờ khiêu khích số phận nữa. Tôi tự cảm thấy mình đã biến thành ngươi khác. Ma quỷ đã biến nhầm tôi thành một kẻ mạnh mẽ tựa như đám lính đang gác sau chấn song sắt bao quanh công viên. Tôi thấy Damiana bò lau sàn phòng khách và cặp đùi còn rất trẻ trung so với tuổi tác của bà ta đã khơi dậy trong tôi những rung cảm của một thời xa xăm trước đây. Chắc bà ta cũng cảm thấy như vậy nên dùng váy che kín lại. tôi không kìm nén được sự cám dỗ muốn hỏi bà ta: Damiana ơi, cô có thể nói với tôi điều này được không: cô đang nhớ đến chuyện gì vậy? Tôi chẳng nhớ gì cả, bà ta nói, nhưng câu hỏi của ôn g lại gợi tôi nhớ chuyện ấy. Tôi cảm thấy nghẹn trong ngực. Tôi chưa bao giờ biết yêu, tôi nói với bà ta. Bà ta đáp lại ngay tức thì: Tôi thì có đấy. Và nói nốt câu chuyện trong khi không ngưng công việc: Tôi đã khóc thầm suốt hai mươi hai năm vì ông đấy. Trái tim tôi đập rộn ràng. Tôi tìm một lối ra xứng đáng, và nói với bà ta: lẽ ra chúng ta đã là một cặp xứng đôi vừa lứa rồi. Bây giờ ông mới nói điều đó với tôi thì quá dở, bà ta nói, bởi vì ông không còn làm gì được nữa, thậm chí cũng không làm được việc an ủi ông. Khi ra khỏi nhà, bà ta nói với tôi một cách tự nhiên hơn: Có lẽ ông sẽ không tin điều tôi nói đây, nhưng quả thật đến lúc này tôi vẫn tiếp tục là một thiếu nữ trinh nguyên, nhờ ơn Chúa. 

Ngay sau đó tôi phát hiện ra là bà ấy đã cắm đầy hoa hồng đỏ vào các lọ hoa và bày khắp nơi trong nhà, và một danh thiếp trên gối: Chúc ông sống đến trăm tuổi. Lòng trĩu nặng vì buồn, tôi ngồi vào viết tiếp bài báo chủ nhật bị bỏ dở nửa chừng từ ngày hôm trước. Tôi viết một hơi trong chưa đầy hai tiếng đồng hồ thì xong và phải khéo lắm mới móc hết tim gan trong lòng mình ra mà không để ai nhận thấy tiếng khóc thầm. Nhờ niềm hưng khởi muộn mằn, tôi quyết định giã từ công việc với lời thông báo rằng bài báo này đặt dấu chấm hết hạnh phúc cho một chuyên mục vốn sống dai dẳng một cách xứng đáng suốt bao năm qua và không hề gây ra điều tiếng nào khiến tôi phải chết. 

Tôi có ý định là để bản thảo bài viết ở cửa toà soạn rồi quay về nhà ngay. Nhưng không thể. Toàn bộ nhân viên toà báo đã có mặt đầy đủ để tổ chứa lễ sinh nhật cho tôi. Toà nhà đang sửa chữa lại, khắp nơi đầy dàn giáo và từng đống gạch vụn lạnh lẽo, nhưng người ta đã tạm dừng công việc này lại để cho toà soạn tổ chức buổi lễ. Trên một chiếc bàn gỗ, bày đầy đồ uống để chúc rượu và nhiều tặng phẩm gói trong giấy hoa. Sửng sốt vì ánh điền liên tục của các loại máy ảnh, tôi đã được chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm. 

Tôi rất vui mừng được gặp nhiều nhà báo của đài phát thanh và các báo khác trong thành phố: La Prensa, bbáo buổi sáng của phái bảo thủ, El Nacional, báo buổi chiều theo khuynh hướng giật gân vốn tìm cách làm dịu sự căng thẳng trật tự xã hội bằng các truyện tình cảm được đăng tải từng kỳ. Việc họ cùng có mặt chẳng có gì là lạ cả bởi vì thành phố này, trong lúc các vị tướng soái cứ gây chiến tranh bằng xã hội luận với nhau thì lính tráng vẫn duy trì nguyên tình hữu nghị. 

Trong buổi lễ còn có mặt, hoàn toàn ngoài giờ làm việc thường ngày, người phụ trách công tác kiểm duyệt báo chí, Don Jeronimo Ortega, người mà chúng tôi vẫn gọi là Người đàn ông đáng ghét lúc chín giờ bởi vì ông ta luôn luôn đến đúng vào giờ đó và buổi tối cùng với chiếc bút chì đẫm máu của tên bạo chúa bảo thủ. Ông ta ở đấy cho đến khi tin chắc rằng không có một chữ nào có hại trong số báo phát hành sáng hôm sau. Ông ta rất căm ghét cá nhân tôi vì tôi vốn tự cao về vốn kiến thức ngữ pháp hoặc cũng có thể tôi hay dùng các từ tiếng Italia mà không để trong ngoặc kép hoặc viết nghiêng trong các trường hợp cụ thể mà tôi cho rằng tiếng Italia biểu cảm hơn tiếng Tây Ban Nha, đó cũng là một chuyện bình thường giữa hai ngôn ngữ anh em sinh đôi này. Sau bốn năm gầm gừ nhau, cuối cùng chúng tôi đành chấp nhận việc này như ý thức kém của riêng từng người. 

Các cô thư ký bê ra chiếc bánh ngọt với chín mươi ngọc nến đang cháy làm tôi lần đầu tiên phải nhớ đến số năm tuổi của mình. Tôi phải cố nén dòng nước mắt khi mọi người cùng ca bài chúc mừng sinh nhật và tôi lại nhớ đến đứa bé gái một cách hết sức vô lý. Đó không phải là một phút giây tức giận mà là lòng thương cảm muộn mằn đối với một sinh linh bé nhỏ mà tôi tưởng là không bao giờ còn nhớ đến nữa. Khi bài ca thánh thiện vừa xong thì ai đó đặt vào tay tôi con dao để cắt bánh ngọt. Vì sợ xảy ra chuyện đùa bỡn nên không ai mạo hiểm ứng khẩu bài diễn văn nào. Tôi cũng thà chết chứ không chịu đáp lại những bài diễn văn. Để kết thúc lễ mừng, trưởng ban biên tập mà tôi vốn không ưa lắm đã đưa chúng tôi trở lại thực tế hà khắc. Bây giờ đã đến lúc, thưa vị trưởng lão chín mươi tuổi, ông ta nói với tôi, bài báo của ông đâu? 

Sự thật là trong suốt buổi chiều tôi cảm thấy túi như đang âm ỷ cháy, nhưng niềm cảm xúc đang ngấm sâu vào trái tim tôi không còn lòng dạ nào dội nước lạnh vào buổi lễ mừng thọ bằng bài từ chức của mình. Tôi nói: Lần này thì không có bài. Ông trưởng ban biên tập tỏ ý bực tức với thiếu sót mà suốt từ thế kỷ trước vẫn được coi là không thể nào chấp nhận được. Xin ông hiểu cho duy nhất lần này, tôi nói với ông ấy, tôi có một đêm hết sức khó chịu nên sáng dậy đờ đẫn cả người. Đáng ra ông cũng có thể viết về việc này đấy chứ, ông ta chua chát nói đùa. Bạn đọc cũng muốn biết ngay tức thì cuộc sống ở tuổi chín mươi sẽ ra sao. Một trong những cô thư ký xen vào. Biết đâu đó lại là một bí quyết hay cũng nên, cô ta nói, và tinh quái nhìn tôi. Chán quá, tôi nghĩ, ngượng ngùng là một thói phản trắc. Một cô khác, mặt mày sáng rực, chỉ ngón tay về phía tôi. Tuyệt quá! Ông vẫn còn giữ được nét thẹn đỏ mặt rất lịch thiệp. Sự hỗn xược của cô ta làm tôi thêm ngượng ngập, mặt đỏ càng thêm đỏ hơn. Có lẽ hôm qua là một đêm chiến đấu dữ lắm đấy, cô thư ký lúc đầu nói: Thật đáng ghen tỵ lắm! Và cô ta dành cho tôi một nụ hôn để lại vết son trên má. Các tay phó nháy chụp liên tục. 

Trong lúc choáng ngợp, tôi đã trao bài báo cho trưởng ban biên tập và nói với ông ta lúc nãy chỉ là chuyện đùa còn bài đây mời ông cầm lấy, và tôi bỏ trốn trong loạt vỗ tay cuối cùng để không có mặt khi mọi người phát hiện ra bài báo chính là đơn từ chức sau nửa thế kỷ tù túng. 

Nỗi khát khao của tôi kéo dài suốt đêm khi về nhà tôi bóc các gói tặng phẩm sinh nhật. Những người thợ sắp chữ tặng tôi một máy pha cà phê chạy điện giống như ba cái mà tôi có trong những sinh nhật trước. Những thợ in typo tặng tôi giấy phép nhận một con mèo quý được nuôi trong trại mèo của quận. Phòng quản trị cấp cho tôi một khoản trợ cấp tượng trưng. C ác cô thư ký thì tặng tôi ba chiếc quần lót bằng lụa có in dấu son các nụ hôn, và một danh thiếp bày tỏ họ sẵn sàng giúp tôi cởi chúng ra. Tôi chợt nghĩ là một trong những điều hay của tuổi già là các cô bạn trẻ được thoả thích khiêu khích, kích động vì tưởng chúng tôi đã bị loại ra khỏi vòng chiến rồi. 

Tôi không bao giờ xác minh được ai là người đã gửi cho tôi đĩa hát với hai mươi bốn khúc khai tấu của Chonpin do nghệ sĩ Stefan Askenase trình diễn. Phần lớn các biên tập viên tặng tôi các cuốn sách thời thượng. Khi tôi chưa bóc hết các hộp tặng phẩm thì Rosa Cabarcas đã gọi điện thoại đến để hỏi một câu mà tôi hoàn toàn không muốn nghe: Chuyện gì đã xảy ra giữa ông và con bé vậy? Chẳng có chuyện gì cả, tôi nói mà không cần suy nghĩ. Thậm chí không thèm đánh thức nó dậy mà ông cho rằng không có chuyện gì à? Rosa Cabarcas nói. Phụ nữ không bao giờ tha lỗi cho thứ đàn ông coi thường đồ trưng diện lần đầu tiên của họ. Tôi thanh minh với bà ta rằng con bé không thể quá mệt mỏi chỉ vì việc đơm cúc áo, và có lẽ nó giả vờ ngủ vì sợ. Điều nghiêm trọng duy nhất, bà Rosa nói, là con bé cứ nghĩ đúng là nó là đồ không xài đuợc nữa, là thứ bỏ đi, và tôi cũng không thích là người rêu rao điều này ở mọi nơi. 

Tôi không cho bà ta cái thú vui được hù dọa tôi. Mà dù có là như vậy đi nữa, tôi nói với bà ta, thì tình trạng của con bé thật đáng thương nên không thể dùng nó dù là ngủ hay là thức: đó là thứ da thịt của bệnh viện. Rosa Cabarcas hạ giọng: Lỗi là do quá vội vàng trong đối xử, nhưng có cách sửa chữa lỗi lầm rồi, ông sẽ thấy. Bà ta hứa sẽ bắt con bé nhận tội,và nếu cần thì bắt nó trả lại tiền. Ông thấy thế nào? Bà bỏ ngay trò đó đi, tôi nói với bà ta, ở đây chẳng có quyền gì xảy ra cả, và ngược lại sự việc vừa qua còn chứng tỏ tôi không còn đủ khả năng làm ba thứ trò quỷ đó nữa. Trên phương diện này, đứa bé gái đã có lý: tôi không dùng được nữa, là đồ bỏ đi rồi. Tôi dập điện thoại và tự thấy lòng mình tràn ngập một thứ tình cảm mà trong cả cuộc đời chưa được hưởng, đó là được giải thoái khỏi tình cảm nô lệ áp đặt cho tôi từ lúc mới mười ba tuổi. 

Bảy giờ tối, tôi được mời làm khách danh dự trong buổi hoà nhạc tại hội trường Viện Mỹ thuật do hai nhạc sĩ Jacques Thibault và Alfred Cortot trình diễn tuyệt vời violon và piano bản sonat của Cesar Frank và trong giờ giảo lao tôi còn được nghe những lời khen ngợi thật lòng. Nhạc sĩ bậc thầy Pedro Biava, người thầy vĩ đại của chúng tôi còn lôi tôi đi từng buồng để giới thiệu tôi với các nhạc công khác. Trong tình trạng phấn kích tôi còn nói lời chúc mừng họ vì bản sonat của Schumann mà thực ra chưa hề được trình diễn khiến ai đó phải vụng về cải chính công khai. Sự nhầm lẫn hai bản sonat vì thiếu hiểu biết âm nhạc của tôi đã làm bầu không khí lúc đó trở nên nặng nề, v2 còn trở nên tệ hại hơn khi tôi định sửa chữa sai lầm trong bài tường thuật buổi hòa nhạc được đăng báo hôm chủ nhật. 

Lần đầu tiên trong dời tôi cảm thấy mình có thể giết chết ai đó. Đầy tức giận đớn đau trong lòng tôi trở về nhà bên tai vẫn vẳng những câu trả lời quỷ quái mà chúng tôi chưa kịp nói ra, thế là kể cả việc đọc sách và nghe nhạc cũng không xoa dịu được lòng tôi. Vừa may, bà Rosa Cabarcas đã lôi tôi ra khỏi tình trạng chán chường bằng một câu hét trong điện thoại: tôi rất hạnh phúc được đọc bài báo về ông, bởi vì trước đây tôi không tin là ông mới có chín mươi tuổi, cứ tưởng là một trăm tuổi cơ. Tôi ngại ngùng đáp lại: Thế tức là bà đã thấy tôi quá hom hem phải không? Ngược lại, bà ta nói, tôi rất ngạc nhiên thấy ông còn rất phong độ. Rất hay là ông không giống mấy ông lão già râu xanh luôn nói tăng tuổi để mọi người tưởng mình còn sung lắm. Rồi bà ta đổi giọng ngay: Này, tôi dành cho ông của lạ đây. Tôi thực sự kinh ngạc: Cái gì vậy? Đứa bé gái bà ta nói. 

Tôi không kịp suy nghĩ. Cảm ơn, tôi nói với bà ta, nhưng ba thứ trò ấy đã thành chuyện xưa rồi. Bà ta nói xa xôi: Tôi sẽ gửi đến tận nhà cho ông, bọc trong giấy Tàu và sẽ được hấp nóng bằng gỗ cây đàn hương, tất cả đều cho không lấy tiền. Tôi vẫn cương quyết từ chối, và bà ta đưa ra một lời giải thích hấp dẫn khiến tôi thấy là chân thực. Bà ta nói rằng hôm thứ sáu vừa qua đứa bé gái ở trong tình trạng quá mệt mỏi vì đã phải khâu bằng tay hai trăm cái cúc áo. Rằng đuúng là nó đã rất sợ bị cưỡng đoạt đẫm máu, nhưng bây giờ đã được giáo huấn là phải biết hy sinh. Rằng tối hôm ngủ với tôi nó có trở dậy đi vệ sinh nhưng thấy tôi ngủ quá say nên nó thương hại không dám đánh thức và sáng sớm khi nó dậy thì tôi đã đi rồi. Tôi bực mình vì kiểu lừa trẻ con vô tích sự này. Dù gì, bà Rosa Cabarcas nói tiếp, thì con bé cũng rất hối hận. Tôi nghiệp nó quá, mà nó đang ngồi trước mặt tôi đây này. Ông muốn tôi chuyển nó đến không? Không lạy Chúa, tôi nói với bà ta. 

Tôi bắt đầu viết thì cô thư ký toà báo gọi điện thoại. Cô ta nói là ông chủ bút muốn gặp tôi vào hồi mười một giờ trưa ngày hôm sau. Tôi đến đúng giờ. Tiếng ồn ào của việc sửa nhà không làm tôi khó chịu, bầu không khí như loãng ra theo nhịp búa đập, vì bụi xi măng và khói hắc ín, nhưng ban biên tập đã học đuợc cách suy nghĩ trong cảnh tượng hỗn loạn thường ngày đó. Nhưng văn phòng của chủ bút thì ngược lại, vẫn lạnh cóng và tĩnh lặng, như ở một xứ sở lý tưởng chứ không phải là đất nước chúng tôi. 

Marco Tulio, người chủ bút thứ ba, với vẻ trẻ thơ, đã đứng dậy khi thấy tôi bước vào nhưng vẫn không ngưng cuộc nói chuyện điện thoại, giơ tay qua bàn viết bắt tay tôi và chỉ ghế mới tôi ngồi. Tôi đã nghĩ là không có ai nói ở đầu dây điện thoại phía bên kia mà chẳng qua ông ta nghĩ ra trò này để gây ấn tượng với mình nhưng ngay sau đó tôi phát hiện ra ông ta đang nói chuyện với viên thống đốc, và đúng là một cuộc nói chuyện khó khăn giữa hai kẻ thù địch phải giữ thái độ thân mật. Ngoài ra, tôi tin rằng ông ta cố tỏ ra cứng rắn trước mặt tôi mặc dù vẫn phải đứng như khi nói chuyện với nhà chức trách. 

Rõ ràng ông ta còn toát lên vẻ thanh khiết. Ông ta mới có hai mươi chín tuổi nhưng đã nói được bốn thứ tiếng và ba bằng thạc sĩ quốc tế, khác hẳn với chủ bút đầu tiên, tức là ông nội, vốn trở thành người làm báo thực nghiệm khi đã gom đuợc một số vốn kha khá nhờ nghề buôn nô lệ đàn bà da trắng. Ông ta có kiểu cách dễ chịu, người hơi mập và trầm tĩnh và điều duy nhất có nguy cơ ảnh hưởng đến vẻ oai phong của ông chính là giọng nói không thật. Ông ta vận áo khoác thể thao, trên ve áo cài bông hoa phong lan rực rỡ, mọi thứ trên người ông đều mang dáng vẻ tự nhiên, nhưng không hề có nhân viên văn phòng. Đã mất gần hai tiếng đồng hồ chăm chút chuyện ăn mặc trước khi đến đây, tôi bỗng cảm thấy hổ thẹn vì sự nghèo nàn và lại càng thêm tự giận chính mình. 

Hơn nữa, nọc độc chết người nằm ngay ở bức ảnh chụp toàn bộ nhân viên cơ quan đúng hôm kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập báo, trong đó người ta đánh dấu chữ thập trên đầu những người sẽ lần lượt bị chết. Tôi là người thứ ba tính từ bên phải qua, đội mũ rơm vành thẳng, thắt cravat nút thật to với một viên ngọc gắn trên chiếc ghim cài, với bộ ria mép kiểu đại tá dân sự mà tôi vẫn để cho đến năm bốn mươi tuổi, và cặp kính viễn thị gọng kim loại mà sau nửa thế kỷ tôi không cần dùng nữa. Tôi đã thấy bức ảnh này treo ở nhiều văn phòng khác nhau, nhưng chỉ đến lúc đó tôi mới cảm nhận được thông điệp của nó: trong số bốn mươi tám người đầu tiên chỉ còn lại bốn người chúng tôi còn sống, trong số đó người trẻ nhất đang thụ án tù hai mươi năm vì tội giết hại nhiều người. 

Nói chuyện điện thoại xong, viên chủ bút kinh ngạc thấy tôi đang nhìn tấm ảnh, rồi mỉm cười. Những dấu thập ngoặc không phải do tôi vẽ, ông ta nói. Tôi thấy nó rất chướng. Ông ta ngồi xuống bên bàn viết và đổi giọng: Xin cho phép tôi được nói rằng trong số những người tôi quen biết, ông là người khó lường trước nhất. Và trước sự ngạc nhiên của tôi, ông nói thẳng tuột: Tôi nói điều này chính là vì việc xin từ chức của ông. Tôi chỉ kịp nói: Đó là đời mà. Ông ta cãi lại rằng chính vì l ẽ đó mà giải pháp này là không thích hợp. Ông ta thấy bài báo là rất tuyệt, và những gì với về tuổi già là đoạn hay nhất mà trước đây ông chưa từng được đọc, và vì vậy thật là vô nghĩa nếu két thúc bài báo bằng một quyết định giống như cái chết dân sự. Cũng còn may, ông ta nói, Người đàn ông đáng ghét lúc chính giờ đã đọc bài báo đúng lúc trang xã luận vừa lên khuôn và hắn ta thấy không thể chấp nhận được. Không tham khảo ý kiến của bất cứ ai, hắn đã gạch chéo từ trên xuống dưới dằng nét bút chì Torquemada. Sáng nay, khi biết sự việc tôi đã ra lệnh gửi công văn phản đối đến viên thống đốc. Đó là trách nhiệm của tôi, nhưng nói riêng với ông, tôi rất cảm ơn tính khí độc đoán của tên nhân viên kiểm duyệt. Tức là tôi không sẵn sàng chấp nhận đình chỉ mục báo. Tôi tha thiết đề nghị ông, ông ta nói, không được từ bỏ con tàu đang ở giữa biển khơi. Và ông ta kết luận bằng một phong cách vĩ đại: chúng ta còn rất nhiều điều phải nói về âm nhạc. 

Thấy ông ta cương quyết như vậy nên tôi không muốn dùng lời lẽ quanh co làm trầm trọng thêm những bất đồng. Trên thực tế, lúc bấy giờ tôi cũng chưa tìm được một lý do chính đáng nào để từ bỏ công việc nặng nhọc này và cụng hoảng sợ trước ý nghĩ một lần nữa phải nói nhất trí với ông chủ bút chỉ để tranh thủ thời gian. Tôi phải cố kiềm chế để ông ta không nhận ra niềm xúc động vo sỉ đang chực làm tôi ứa nước mắt. Thế là một lần nữa, cũng như mọi lần, tôi lại quyết định làm cái công việc thường xuyên từ bao năm nay. 

Tuần lễ sau đó, trong tình trạng nghi ngờ hơn là mừng vui, tôi đến trại nuôi mèo để nhận con mèo, tặng phẩm của những người thợ in. Tôi vô duyên trong việc nuôi thú vật cũng như với những đứa bé trước khi biết nói. Tôi thấy chúng như lũ câm từ linh hồn. Toi không ghét chúng nhưng không thể chịu được chúng vì mình không thể học được cách thương lượng với chúng.Tôi thấy hoàn toàn phi tự nhiên khi một người hiểu chó hơn là hiểu vợ mình, lại còn dạy nó ăn và không ăn theo giờ giấc nhất định, ha y dạy nó trả lời câu hỏi và cũng chia sẻ nỗi buồn. Nhưng nếu không đi nhận con mèo của thợ in lại thành ra bất nhã. Hơn nữa nó là một con mèo giống xứ Angora, có bộ lông màu hồng bóng mượt và đôi mắt sáng, tiếng kêu gần như sắp nói thành lời. Họ còn cho tôi một chiếc giỏ mây cùng giấy chứng nhận xuất xứ của giống mèo và một cuốn sách hướng dẫn nuôi mèo như cuốn dạy cách lắp ráp chiếc xe đạp. 

Một toán quân cảnh kiểm tra giấy chứng minh của tất cả mọi người trước khi cho phép vào công viên San Nicolas. Tôi chưa bao giờ thấy chuyện tương tự cũng chưa bao giờ hình dung ra điều gì khó chịu như triệu chứng của tuổi già. Đó là một đội tuần tra bốn người dưới sự chỉ huy của một viên sĩ quan trẻ măng. Họ là những người gốc nhà quê, rắn rỏi và ít lời, toát ra mùi chuồng trại. Viên sĩ quan theo dõi tất cả mọi người với cái vẻ của dân miền núi Andes vừa xuống bãi biển. Sau khi xem xét giấy chứng minh và thẻ nhà báo của tôi, ông ta liền hỏi tôi mang gì trong giỏ mây. Một con mèo, tôi nói. Anh ta muốn xem. Tôi cẩn thận mở nắp giỏ vì sợ con mèo chạy mất, nhưng một nhân viên lại muốn xem dưới giỏ có giấu gì không nên bị con mèo cào vào tay. Viên sĩ quan liền can thiệp. Đúng là một con mèo quý, anh ta nói và xoa vào nó rồi thì thầm gì đó. Con mèo không cắn nhưng cũng không để ý đến anh ta. Nó bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Anh ta hỏi. Không biết, tôi nói, người ta vừa tặng tôi. Tôi hỏi ông điều này vì nó già quá rồi, có lẽ phải mười tuổi đấy. Tôi định hỏi vì sao anh ta biết và hỏi thêm nhiều chuyện khác nữa, nhưng bất chấp tính cách lịch duyệt và cách ăn nói hoa mỹ của anh ta, tôi cũng chẳng có bụng dạ nào muốn nói chuyện. Tôi thấy hình như là một con mèo hoang vốn có nhiều ở khắp nơi, anh ta nói. Ông nhìn xem này, có vẻ nó không quen ông mà ngược lại chính ông lại quen với nó, để yên cho đến khi nó tin ông đã. Anh ta đậy nắp giỏ lại và hỏi tôi: Ông làm nghề gì? Nhà báo. Từ bao lâu rồi? Từ một thế kỷ nay rồi, tôi nói. Tôi không nghi ngờ điều này, anh ta nói. Bắt chặt tay tôi và trước khi chào từ biệt, anh ta còn nói một câu vừa có thể là một lời khuyên cũng có thể là một lời đe doạ: 

– Ông phải cẩn thận đấy. 

Buổi trưa tôi ngắt điện thoại để trốn trong âm nhạc với một chương trình tuyệt hay: khúc rapsodia cho kèn clarinet và dàn nhạc của Wagnet, cho kèn saophone của Debussy và ngũ tấu đàn dây của Bruckner, và như lạc vào chốn thiên đường. Rỗi bỗng nhiên tôi thấy tối sầm lại.Tôi cảm thấy có gì đó đang ngọ ngoạy dưới gầm bàn, hình như không phải là một vật sống mà một bóng ma đang cà vào chân làm tôi hét to và nhảy bật dậy. Dó chính là con mèo với cái đuôi dài rất đẹp với dáng vẻ chậm chạp và bí hiểm. Tôi rợn róc gáy khi nghĩ rằng mình ở nhà một mình với một sinh linh sống mà lại không phải là người. 

Khi chuông nhà thờ lớn điểm bảy tiếng, thì trên bầu trời rực màu hồng chỉ có một ánh sao duy nhất sáng long lanh, một chiếc tàu thủy hú tiếng còi từ biệt buồn bã, và tôi cảm thấy trong họng nghèn nghẹn tất cả những mối tình có thể đã từng có hoặc không hề có. Tôi không chịu được nữa. Tôi nhấc điện thoại lên với trái tim để ngay đầu lưỡi, từ từ quay bốn số để khỏi nhầm, rồi khi tiếng chuông thứ ba vừa đổ tôi đã nhận ra giọng nói quen. Này, bà ơi, tôi thở dài nói, thứ lỗi cho sự thô bạo sáng nay nhé. Bà ta bình thản đáp: Ông khỏi lo, tôi chờ ông gọi từ sáng đến giờ. Tôi cảnh báo: Tôi muốn đứa bé gái phải chờ tôi trong tình trạng mà Chúa đã đưa nó đến thế giới này và không bôi bất cứ thứ gì trên mặt đấy nhé. Bà ta cười ùng ục trong họng. Sẽ đúng như điều ông muốn, bà ta nói, nhưng như thế thì ông sẽ mất cái thú được cởi từng thứ một ra như các ông già khác vẫn khoái làm, mà tôi không biết tại sao. Tôi thì biết rõ tại sao, tôi nói với bà ta. Bởi vì họ càng ngày càng già đi. Bà ta coi như đã xong hợp đồng. 

– Được thôi – bà tà nói – như vậy là đúng mười giờ tối nay, trước khi món cá rán bị nguội.

——————————–

1 Pentecôte: lễ hạ trần – theo Gia tô giáo; lễ năm mươi ngày sau lễ Vượt qua – theo đạo Do Thái.

 

CHƯƠNG 3

Con bé có thể tên là gì nhỉ? Bà chủ nhà không nói cho tôi biết. khi nói về nó bà ta chỉ kêu là:be gái. Và thế là tôi biến từ đó thành một tên cúng cơm, đại khái giống như cách gọi đứa bé gái mắt tròn hoặc con thuyền buồm nhỏ xinh. Ngoài ra, bà Rosa Cabarcas cũng có thói quen đặt cho mỗi cô gái điếm một cái tên khác nhau tuỳ thuộc vào khách hàng. Tôi thích nhìn mặt từng cô để đoán tên, và ngay từ đầu tôi đã tin chắc rằng cô bé này phải có cái tên dài đại loại như filomena, Saturnina hoặc Nicolasa. Tôi đang nghĩ ngợi về chuyện tên này thì cô bé xoay người và quay lưng lại phía tôi, để lại trên giường một vũng nước rộng bằng thân thể, trông như máu. Tôi hốt hoảng mất một lúc mới xác định đuợc đó chỉ là vũng mồ hôi đọng trên tấm drap trải giường. Rosa Cabarcas đã khuyên tôi đối xử cẩn trọng với cô bé vì nó vẫn chưa hết giật thót từ buổi gặp gỡ đầu tiên. Hơn nữa: chính nghi thức long trọng vừa rồi chỉ làm nó thêm sợ hãi nên đã phải tăng nồng độ thuốc valerian bằng rễ cây nữ lang, thế là nó ngủ say sưa đến mức không ai nỡ đánh thức mà không hát ru. Tôi quay ra dùng khăn thấm mồ hôi cho cô bé và thầm thì hát bài ca của Delgadina, người con gái út được vua cha yêu chiều. Tôi thấm đến đâu thì phần thân thể ướt đẫm mồ hôi của cô bé càng lộ ra đến đó hoà trong tiếng hát của tôi: Delgadina, Delgadina, em sẽ là vật làm tin mà anh yêu dấu. Tôi rất khoái công việc này vì cứ lau khô xong phía này thì thân thể của bé gái lại ướt đẫm ở phía khác làm cho bài hát không thể nào kết thúc được. Delgadina ơi, em hãy tỉnh dậy, mặc váy lụa đi em, tôi tiếp tục hát ru vào tai cô bé. Cuối cùng, đến đoạn những người hầu cận của vua phát hiện ra cô đã chết khát trên giường thì tôi cảm thấy cô bé hình như sắp tỉnh dậy khi nghe thấy tên gọi. Như vậy tên của cô bé chính là: Delgadina. 

Tôi quay lại giường với chiếc quần lót có in các nụ hôn của các nữ đồng nghiệp và nằm xuống bên cạnh cô bé. Tôi ngủ một mạch đến năm giờ sáng trong tiếng thở đều đều êm ái của đứa bé gái. Không kịp rửa mặt, tôi vội vàng mặc quần áo, và chỉ đến lúc đó tôi mới nhìn thấy dòng chữ được viết bằng son môi trên tấm gương trong buồng tắm: Con hổ không ăn nơi xa. Tôi biết rõ là đêm trước chưa có câu này và đã không có ai lọt vào trong phòng suốt đêm, thế chắc là tặng phẩm mừng sinh của quỷ sứ rồi. Tiếng sấm đáng sợ trùm lên tôi ngay cửa ra vào và căn phòng tràn ngập mùi đất ẩm ướt trước cơn mưa. Tôi không chạy trốn kịp. Trước khi gọi được xe taxi, trời đã đổ sập lên đầu tôi một cơn mưa rào tầm tã, vốn ít khi xảy ra trong thành phố từ tháng Năm đến tháng Mười khiến những đường phố đầy cát nóng trở thành dòng nước cuốn phăng tất cả ra phía bờ sông. Sau ba tháng hạn hán, cơn mưa bất thuờng trong tháng Chín đó vừa là may mắn vừa là đại họa. 

Vừa mở cửa vào nhà tôi đã gặp ngay cảm giác là mình không sống cô độc. Tôi kịp nhìn thấy ánh mắt con mèo vừa nhảy khỏi bộ ghế bành ra phía ban công. Trên dĩa của nó vẫn còn thức ăn mà tôi không dành cho nó. Mùi nước đái chua khẳm và phân còn nóng hổi của nó sực nức trong phòng. Tôi đã để công sức nghiên cứu về nó như đã từng học tiếng La tinh. Theo sách hương dẫn thì loài mèo thường bới đất để giấu phân của mình, và ở những nhà không có vườn như nhà của tôi, chúng thường làm việc này trong những chậu cây cảnh hoặc bất cứ góc khuất nào. Vì vậy người ta khuyên ngay từ ngày đầu tiên nên chuẩn bị sẵn một hộp đựng cát và hướng dẫn nó đi vào đó, và chính tôi đã làm đúng lời hướng dẫn này. Người ta cũng nói rằng điều đầu tiên phải làm ở nhà mới là đánh dấu mọi ngóc ngách nơi con mèo thường đi tiểu, và tôi cũng làm như vậy, nhưng sách lại không hướng dẫn cách dạy nó đi đúng chỗ như thế nào. Tôi đã theo sát để làm quen với thói quen gốc của nó, nhưng đã không thể phát hiện ra những nơi nó giấu phân, nơi nó nghỉ và lý do những cáu bẳn bất thường của nó. Tôi muốn dạy nó ăn đúng giờ, dùng thùng cát để trên sân thượng, không leo lên giường khi tôi ngủ và không đánh hơi các món ăn để ở trên bàn, và tôi cũng không thể làm cho nó hiểu được rằng nó có quyền coi căn nhà là của mình nhưng không thể coi căn nhà như một thứ chiến lợi phẩm chiến tranh. Thế là tôi đành để nó muốn làm sao thì làm. 

Vào lúc chiều tà, lại thêm cơn mưa rào nữa ập đến với những cơn gió mạnh tựa như muốn phá tung căn nhà. Toi hắt xì hơi liên tục, đầu đau nhức và sốt cao, nhưng lại cảm thấy mạnh mẽ hơn bao giờ hết và cũng chẳng hiểu vì sao. Tôi bày chảo ra khắp sàn nhà để hưng nước mưa rơi từ những chỗ dột trên mái nhà và thấy có thêm nhiều chỗ dột mới từ mùa đông năm ngoái. Từ chỗ dột lớn nhất nước bắt đầu tràn ngập phía bên phải của phòng đọc sách. Tôi vội vàng tìm cách cứu ngay các tác giả cổ điển Hy Lạp và La Tinh đang sinh sống ở phía đó, nhưng khi lấy các cuốn sách ra tôi gặp ngay một dòng nước phun cực mạnh từ lỗ thủng ống nước trong tường. Tôi dùng giẻ cố bịt lại được tý nào hay tý đó cho kịp cứu các cuốn sách. Mưa gió gào thét cuồng loạn ngoài công viên. Bỗng một ánh chớp ma quái lèm theo tiếng sấm kinh hoàng đã làm cho bầu không khí sặc mùi lưu huỳnh,và gió mạnh đập các cửa kính ở ban công và bão biển làm tung hết chốt cửa cũng ào đầy vào nhà. Tuy nhiên, chưa đầy mười phút, trời bỗng tạnh mưa. Ánh nắng chói chang làm khô ngay những đường phố ngập đầy gạch vụn lạnh cóng và trời lại nóng trở lại. 

Khi cơn mưa rào qua đi, tôi lại tiếp tục có cảm giác không chỉ có một mình ở trong nhà. Tôi chỉ có cách tự giải thích duy nhất là mọi sự việc có thật thì người ta thường dễ quên đi, nhưng có những việc không có thật thì cứ tồn tại trong ký ức y như nó đã từng xảy ra vậy. Cứ mỗi lần nhớ đến trận mưa rào là tôi lại tự thấy không đơn độc trong nhà mà luôn luôn có mặt Delgadina. Tôi cảm thấy nàng rất gần gũi vào ban đêm thậm chí còn ngửi thấy hơi thở của nàng trong phòng ngủ và tiếng mạch đập khẽ khàng nơi má của nàng trên chiếc gối của tôi. Chỉ có như vậy tôi mới hiểu được tại sao mình đã làm được bao nhiêu việc trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Tôi nhớ là nàng trong bộ đồ thêu hoa đã trèo lên chiếc ghế ở phòng đọc sách, tỉnh táo tiếp lấy từng cuốn sách để cứu nó khỏi bị dột ướt. Tôi đã thấy nàng chạy đi chạy lại khắp nơi trong nhà nước ngập đến đầu gối để chống chọi lại cơn mưa gió. Tôi còn nhớ là sáng hôm sau nàng còn chuẩn bị ; bữa điểm tâm không hề có và chuẩn bị cả bàn ăn trong khi tôi lau sàn nhà và sắp xếp lại đồ đạc sau cơn hồng thủy. Không bao giờ tôi quên được ánh mắt tối sẫm của nàng khi chúng tôi cùng ăn điểm tâm: Tại sao mãi đến tận khi già cả thế này anh mới quen em? Tôi còn nói thật với nàng: Tuổi tác không phải là số năm mà người ta có mà chính là cái mà người ta cảm thấy ở trong cơ thể mình. 

Từ đó tôi cứ ghi nhớ mãi hình ảnh rõ ràng của nàng trong ký ức đến mức muốn làm gì nàng cũng được. Tôi thay đổi màu mắt của nàng tuỳ theo trạng thái tâm hồn của chính mình: màu nước khi tôi thức dậy vào buổi sáng, màu mật khi tôi cười và màu lửa khi tôi cãi nhau với nàng. Tôi khoác trang phục cho nàng tuỳ theo tuổi tác và điều kiện phù hợp với tâm lý từng lúc của tôi: nàng mặc bộ đồ cô dâu say đắm ở tuổi hai mươi, y phục của loại gái gọi ở tuổi bốn mươi, như nữ hoàng xứ Babilon ở tuổi bảy mươi và như nữ thánh ở tuổi một trăm. Chúng tôi song ca những bản tình ca của Puccini, điệu bolero của Agustin Lara, điệu tango của Carlos Gardel, và đã một lần chúng tôi xác định được rằng những ai không hát thì không thể hình dung ra niềm hạnh phúc được hát dân ca. Hôm nay, tôi biết đó không phải là ảo giác mà chính là điều huyền diệu của mối tình đầu của tôi ở tuổi chín mươi. 

Khi căn nhà đã dọn dẹp xong, tôi liền gọi điện cho Rosa Cabarcas. Chúa ơi! Bà ta thốt lên khi nghe thấy tiếng nói của tôi, tôi tưởng ông chết đuối rồi chứ. Tôi không hiểu nổi sao ông lại đòi ngủ với con bé mà không thèm đụng đến nó cơ chứ. Ông có toàn quyền không thích nó, nhưng tối thiểu cũng phải hành xử như người lớn. Tôi cố giải thích nhưng bà ta đã đổi đề tài: Dù sao tôi cũng đã chuẩn bị cho ông một cô khác lớn tuổi hơn một chút, đẹp và cũng còn trinh nguyên. Bố của con bé muốn đổi nó lấy một căn nhà, nhưng cũng có thể mặc cả giảm bớt giá. Tim tôi nghẹn lại. Ngay lập tức tôi phản đối, tôi muốn con bé cũ cơ, và cứ như mọi khi, không được để thất bại, cãi vã, không kỷ niệm xấu. Đường dây điện thoại im ắng, và cuối cùng cũng có tiếng nó.³i nhẫn nhục như tự nhủ một mình: Được thôi, đúng như thầy thuốc vẫn nói đây đúng là chứng bệnh điên loạn già nua. 

Mười giờ đêm tôi lại đi với một anh chàng lái xe có ưu điểm kỳ lạ là không tò mò hỏi gì cả. Tôi mang theo một chiếc quạt điện nhỏ và một bức tranh của Orlando Rivera, tấm Hình tượng thân yêu, và một chiếc búa cùng một chiếc đinh để treo nó lên tường. Trên đường đi, tôi còn dừng xe lại để mua bàn chải và thuốc đánh răng, xà bông thơm, nước hoa, mấy vỉ thuốc cam thảo. Tôi cũng định mua một lọ hoa thật đẹp và một bó hoa hồng vàng để xua đuổi đám hoa giấy, nhưng không tìm được cửa hàng nào còn mở cửa nên đành bứt trộm một bó hoa dại mới mọc trong vườn nhà ai đó. 

Theo chỉ dẫn của bà chủ nhà chứa, tôi đi vào từ cửa sau gần đường ống dẫn nước, để không ai nhìn thấy. Tay lái xe cảnh báo tôi: Xin thầy cẩn thận, trong nhà này dễ bị giết chết lắm. Tôi trả lời anh ta: Nếu chết vì tình yêu thì chẳng có gì phải quan tâm. Sân vườn chìm trong sương mù nhưng từ phía các cửa sổ vẫn le lói những tia sáng của sự sống và tiếng nhạc vận dập dìu vang vọng từ sáu phòng ngủ. Ồn ào nhất là từ căn phòng của tôi với tiếng hát của ngài Pedro Vargas, giọng nói nam trung nổi tiếng của châu Mỹ, đang ca một bài bolero của nhạc sỹ Miguel Matamoros. Tôi cảm thấy như đang đi vào cõi chết. Tôi nín thở đẩy cửa và thấy Delgadina nằm trên giường y như trong ký ức của mình: trần trụi và đang nghiêng về phía trái tim trong giấc ngủ bình an thánh thiện. 

Trước khi đi nằm, tôi dọn dẹp lại bàn trang điểm, đặt chiếc quạt điện mới thay cho chiếc đã bị han gỉ và treo bức tranh lên chổ mà cô bé nằm trên giường vẫn có thể nhìn thấy rõ. Tôi nằm xuống bên cạnh cô bé và nhìn ngắm từng phần da thịt của em. Vẫn là cô bé đi thơ thẩn trong nhà tôi: vẫn là những bàn tay xoa người tôi trong bóng tối, vẫn là đôi bàn chân bước nhẹ nhàng như chân con mèo con, vẫn là mùi mồ hôi thấm đượm trên khăn trải giường của tôi, trên chiếc tạp dề. Thật kỳ quặc: nhìn ngắm và xoa xoa thân thể bằng da bằng thịt của em, tôi lại cảm thấy không thật bằng hình bóng nàng trong ký ức của chính mình. 

Có một bức tranh treo trên tường phía trước, tôi nói với cô bé. Đó là Hình tượng, do một người đàn ông mà chúng ta rất yêu mến, người nghệ sĩ múa của các nhà chứa giỏi nhất từ trước đến nay, người có trái tim nhân hậu làm quý sứ cũng phải xót thương, vẽ ra đấy. Ông đã vẽ bằng sơn của tàu thuỷ với cây cọ có cán làm bằng mảnh xác máy bay bị rơi trên núi Sierra Nevada ở Santa Marta và lông bằng lông con chó của ông. Người phụ nữ được ông vẽ chính là nữ tu hành mà ông đã bắt cóc từ một tu viện rồi cưới làm vợ mình. Tôi treo ở đây để khi em tỉnh dậy sẽ nhìn thấy ngay. 

Một giờ sáng, khi tôi tắt đèn, cô bé vẫn không thay đổi thế nằm, và hơi thở yếu đến mức tôi phải cầm tay xem mạch để cảm thấy đúng là em vẫn còn sống. Máu lưu thông trong huyết quản của em dễ dàng như một bài ca lan đến mọi ngóc ngách của thân thể để rồi quay về trái tim sau khi đã được tình yêu lọc sạch sẽ. 

SÁng sớm. trước khi đi ra khỏi phòng, tôi vẽ trên tờ giấy những chỉ vân tay của cô bé và hướng dẫn cách đọc theo Nữ thần Sahibi để tự tìm hiểu tâm hồn của chính mình. Và đúng là như vậy: một người chỉ nói điều mình nghĩ. Em là người lao động chân tay tuyệt giỏi. Em đã nhầm khi chờ đợi sự giúp đỡ của ai đó đã chết mà em có dịp tiếp xúc: sự giúp đỡ mà em đang đi tìm nằm chính nơi tay mình. Chưa có mối nhân duyên nào nhưng em sẽ sống thọ và sẽ lấy chồng. Bây giờ đang có một người đàn ông da nâu nhưng không phải là người mà em sẽ gắn bó cả cuộc đời. Em có thể có đến tám đứa con nhưng sẽ chỉ quyết định có ba đứa. Khi ba mươi lăm tuổi, nếu làm theo chỉ dẫn của trái tim chứ không theo khối óc thì em sẽ kiếm được rất nhiều tiền và ở tuổi bốn mươi sẽ được nhận di sản thừa kế. Em sẽ được đi rất nhiều nơi. Em có hai cuộc sống và hai số phận, và có thể tự điều khiển được số phận của mình. Vốn bản tính tò mò, em thích được trải nghiệm tất cả, nhưng sẽ thấy hối hận nếu không đi theo sự hướng dẫn của trái tim 

Lòng rối bời vì tình yêu, tôi bắt tay vào việc dọn dẹp những đổ nát do cơn mưa bão vừa gây ra, và cũng nhân dịp này tiến hành sữa chửa hàng loạt thứ mà bấy lâu nay cứ chần chừ chưa làm vì hết tiền hoặc vì lười nhác. Tôi tổ chức lại phòng đọc theo thứ tự các cuốn sách đã đọc. Cuối cùng tôi quyết định kết liễu chiếc máy chơi piano tự động vốn được coi là di sản lịch sử với hơn một trăm cuộn giấy đục lỗ các bài hát cổ điển và mua một máy hát quay đĩa đã qua sử dụng nhưng còn tốt hơn chiếc máy của tôi với đôi loa có âm thanh rất chuẩn làm cho căn nhà tôi như rộng thêm ra. Tôi gần như ở bên bờ vựa phá sản nhưng bù lại được tận hưởng điều kỳ diệu là ở tuổi của mình mà vẫn còn sống. 

Căn nhà hồi sinh từ tro tàn và tôi đang bơi trong mối tình của Delgadina với niềm háo hức và hạnh phúc như chưa từng có trong cuộc đời trước đây của mình. Do có nàng mà lần đầu tiên tôi đương đầu với chính sự tồn tại tự nhiên của mình trong khi tuổi chín mươi cứ lặng lẽ trôi qua. Tôi phát hiện ra rằng chính nỗi ám ảnh muốn đặt mỗi vật vào đúng chỗ của chúng, mỗi chuyện vào đúng thời điểm, mỗi lời nói đúng với phong cách của nó chẳng phải là một phần thưởng xướng đáng cho đầu óc ngăn nắp thứ tự, mà ngược lại, nó chỉ là một hệ thống vờ vịt do tôi tự nghĩ ra để che giấu tính cách lộn xộn của chính mình mà thôi. Tôi cũng phát hiện ra rằng về bản chất mình không phải là người có ý thức kỷ luật mà chẳng qua là cách phản ứng lại tính lười nhác của chính bản thân, rằng tôi tỏ ra rộng lượng chỉ để che giấu cá tính tầm thường, rằng tôi được tiếng là cẩn trọng chẳng qua vì chậm nghĩ, rằng tôi là kẻ dĩ hoà vi quí vì cố kìm nén nỗi tức giận, rằng tôi chỉ làm việc đúng giờ vì sợ người ta biết mình ít quan tâm đến thời gian của kẻ khác. Sau cùng, tôi phát hiện ra rằng tình yêu không phải là một trạng thái của tâm hồn mà là dấu hiệu của duyên số. 

Tôi bỗng trở thành một người khác. Tôi cố đọc lại các tác phẩm cổ điển mà các thầy giáo đã hướng dẫn từ thời niên thiếu, nhưng không làm nổi việc này. Tôi lặn ngụp trong nền văn học lãng mạn mà trước đây tôi rất ghét dù bị mẹ cưỡng bức phải đọc, và nhờ các tác phẩm này mà tôi ý thức được rằng sức mạnh vô địch thúc đẩy thế giới phát triển không phải là những mối tình hạnh phúc mà chính là nhờ những mối tình trắc trở. Khi khả năng cảm nhận và thưởng thức âm nhạc của mình bị khủng hoảng, tôi tự thấy mình đã lạc hậu và già nua mất rồi, và tôi mở rộng trái tim cho bất cứ một thứ khoái lạc nào vô tình bắt gặp. 

Tôi tự hỏi tại sao mình lại có thể quy hàng vòng xoáy muôn thưở do chính mình gây ra và làm mình sợ hãi. Tôi như trôi nổi trên những áng mây lầm lạc và đứng trước gương tự hỏi không biết mình là ai. Tình trạng mê muội của tôi tệ hại đến mức trong một cuộc biểu tình bằng gạch đá và chai lọ của sinh viên, tôi phải cố lấy hết sức còm cõi của mình để ngăn không chạy lên hàng đầu với tấm bảng ghi rõ sự thật về tâm trạng của mình: Tôi đang yêu điên cuồng. 

Mất hồn vì cô bé Delgadina say ngủ, tôi đã vô tình thay đổi dần tinh thần của các bài báo chủ nhật của mình. Dù về bất cứ đề tài gì, thì tôi cũng chỉ viết cho cô ấy, cười, khóc trong các bài báo cũng vì cô ta, và trong từng câu chữ cũng đều có giọt đời tôi tuôn chảy. Thay vì công thức báo chí truyền thông vẫn theo từ bao năm nay, tôi viết các bài đó như những bức thư tình mà mỗi người đọc có thể tự coi là của chính bản thân mình. Tôi đề nghị cho đăng các bài này không bằng chữ nhà in mà bằng chính nét chữ viết tay của tôi. Trưởng ban biên tập thì cho rằng đây lại là một trò vô tích sự của tuổi già, nhưng viên chủ bút thì thuyết phục lại ông ta bằng câu nói mà đến tận bây giờ vẫn còn vang vọng trong toà soạn: 

– Ông chớ nhầm: những người điên hiền lành thường đi trước thời đại đấy nhé. 

Đông đảo công chứng đã hưởng ứng ngay lập tức và nhiệt tình, những bức thư si tình tới tấp bay về toà báo. Một số bức được tài phát thanh sử dụng trong bản tin thời sự khi không có đủ tin tức cần thiết vào phút chót, và người ta còn sao lại bằng cách in rônêo hoặc giấy than thành các tờ bướm bán cùng với thuốc lá nhập lậu ở các góc phố đường San Blas. Ban đầu rõ ràng những bài báo này chỉ là nỗi đam mê được tự giãi bày tình cảm của tôi, nhưng dần dà quen nếp say mê để trở thành giọng điệu của một người đàn ông chín mươi tuổi không chịu học cách suy nghĩ của người già. Cộng đồng trí thức, theo thói quen, tỏ ra e ngại, sợ sệt và chia rẽ, trong khi đó các nhà đoán tướng chữ ít suy tư thì cãi nhau ỏm tỏi khi phân tích các nét chữ của tôi. Chính họ đã làm chia rẽ các linh hồn, đốt nóng các cuộc tranh luận và làm cho nỗi chớ mong hoài niệm trở thành mốt sống của mọi người. 

Khoảng cuối năm, tôi thương lượng với bà Rosa Cabarcas cho phép để lại trong phòng ngủ chiếc quạt điện, các đồ dùng ở bàn trang điểm và những thứ khác mà tôi sẽ mang đến để cho căn phòng có thể ở lâu dài được.Tôi vẫn đến vào mười giờ đêm nhưng luôn mang theo một thứ gì đó cho cô bé, hoặc cho sở thích của cả hai, và dành dăm phút đồng hồ lôi những đồ được giấu kín ra trang hoàng lại sân khấu ban đêm của hai chúng tôi. Trước khi ra đi, bao giờ cũng trước năm giờ sáng, tôi lại cất giấu chúng trong chỗ được khoá kỹ đề trả lời căn phòng cho mục đích nguyên thuỷ bẩn thỉu là chốn dung thân của những mối tình buồn bã của đám khách vãng lai. Một sớm mai nọ, tôi bỗng nghe thấy Marcos Perez, phát thanh viên sáng giá nhất của đài phát thanh, đọc bài báo chủ nhật của tôi trong bản tin định kỳ vào thứ hai hàng tuần. Khi đã nén được cơn buồn nôn, tôi kinh sợ nói: Delgadina thế là em đã biết rồi nhé, sự nổi tiếng như là một bà già to béo không ngủ với ta n hưng khi ta bừng tỉnh dậy đã thấy bà ta luôn đứng nhìn ở cuối giường. 

Ngày nọ tôi ở lại ăn sáng với Rosa Cabarcas, người mà tôi đã không còn coi là già khom nữa dù cái vẻ tang tóc nghiêm nghị và chiếc mũ đen vẫn sùm sụp che khuất hàng mi của bà ta. Những bữa điểm tâm của bà ta vốn nổi tiếng là linh đình, với những món ăn trộn đầy hạt tiêu. Vừa cắn miếng đầu tiên, miệng tôi đã bỏng rát và nước mắt nước mũi chảy đầm đìa: Tối nay, chẳng cần trăng tròn tôi cũng sẽ cảm thấy bỏng rát lỗ đít. Xin ông đùng than thở nữa, bà ta nói. Nếu ông cảm thấy bỏng rát ấy là nhờ Trời ông vẫn còn cái đó đấy. 

Bà ta tỏ ra ngạc nhiên khi tôi nhắc đến tên Delgadina. Tên con bé đâu phải như vậy, bà ta nói, nó tên là…Bà đừng nói nữa, tôi ngắt lời bà ta, đối với tôi nó chính là Delgadina. Bà ta nhún vai: Được thôi, dù sao thì nó cũng đã là của ông rồi, nhưng tôi thấy cái tên này hơi có vẻ lợi tiểu đấy. Tôi kể lại chuyện dòng chữ con hổ mà cô bé viết trên tấm gương. Chắc chắn không phải là con bé, Rosa nói vì nó có biết đọc biết viết gì đâu.Thế thì của ai vậy? Bà ta nhún vai: Có thể là của ai đó trước đây đã chết trong phòng. 

Tôi tận dụng bữa ăn sáng để dồn ép Rosa Cabarcas bằng những đề nghị tối thiểu cho hạnh phúc và sắc đẹp của Delgadina. Với vẻ láu lỉnh học trò, bà ta chấp nhận ngay không hề đắn đo. Buồn cười thật nhỉ! Bà ta nói với tôi. Tôi cảm thấy như ông đang cầu hôn con bé vậy. À mà này, bà ta bỗng nói, sao ông không cưới nó làm vợ luôn đi? Tôi như bị trời trồng. Nói thật nhé, bà ta nhấn mạnh, làm thế ông sẽ thấy rẻ hơn đấy. Cuối cùng thì ở tuổi của ông vẫn đề là dùng được hay không dùng được, nhưng ông đã nói với tôi là việc này ông đã giải quyết xong rồi mà. Tôi ngắt lời bà ta: Tình dục là liều thuốc an ủi khi người ta không có đủ tình yêu. 

Bà ta bật cười Ái chà, thưa nhà thông thái, tôi vốn biết từ xưa đến nay ông luôn luôn là một đấng nam nhi, và bây giờ tôi rất vui mừng vì ông vẫn giữ được phong độ đó trong khi các kẻ thù của ông đã phải buông vũ khí. Người ta nói nhiều về ông cũng có lý thật. Thế bà đã nghe nói nhiều về ông Marcos Perez chưa? Mọi người đều nghe lời ông ta đấy, tôi nói với bà ta để chuyển đề tài. Nhưng bà ta lại nhấn mạnh: Nhưng ngày hôm qua trong mục Một tý trong một giờ của tất cả mọi người giáo sư Mamacho y Cano cũng nói rằng thế giới bây giờ không còn giống như trước đây nữa bởi vì không còn nhiều đấng nam nhi như ông. 

Cuối tuần đó tôi thấy Delgadina bị sốt và ho. Tôi liền đánh thức bà Rosa Cabarcas dậy để đưa cho tôi những phương thuốc dân dã tự chế, và bà ta đưa một túi thuốc cấp cứu đến phòng ngủ. Ba ngày sau, Delgadina vẫn tiếp tục ốm mệt nên không đi làm công việc thường nhật là đơm cúc áo được. Thầy thuốc đã cho cô bé một toa thuốc dân dã chống cảm cúm bình thường và dự báo sẽ dứt cơn trong một tuần lễ, nhưng ông ta rất hoảng sợ vì tình trạng suy dinh dưỡng của nó. Tôi không gặp cô bé nữa vì cho là cần phải như vậy, và tranh thủ thời gian sửa sang lại căn phòng. 

Tôi lại mang đến một bức tranh vẽ bằng bút mực của Cecilia Porras để minh hoạ cho tập truyện ngắn Tất cả chúng ta đều đang chờ đợi của Alvaro Cepeda. Tôi còn mang đến sáu tập Juan Cristóbal của Romain Rolland để chăn dắt những đêm không ngủ của mình. Như vậy là khi có thể quay lại thì Delgadina sẽ thấy phòng ngủ xứng đáng với niềm hạnh phúc dài lâu: bầu không khí đã được chất chống côn trùng trộn hương thơm làm cho trong sạch, tường được sơn màu hồng, bóng đèn màu sặc sỡ, hoa tươi cắm đầy các lọ hoa, những cuốn sách ưa thích của tôi, những bứt tranh đẹp của mẹ tôi. Tôi thay chiếc đài bán dẫn cũ bằng cái mới có băng sóng ngắn để nghe được chương trình nhạc bác học cho Delgadina có thể ngủ giữa dòng âm thanh các bài tứ tấu của Mozart, nhưng có một đêm tôi phát hiện ra là nó đã điều chỉnh sang đài phát thanh chuyện phát các chương trình ca nhạc bolero thời thượng. Đó chắc chắn là sở thích âm nhạc của cô bé, và tô.´i chấp nhận không chút đau khổ vì thời trai trẻ tôi cũng đã hết lòng yên mến điệu nhạc này. Ngày hôm sau, trước khi về nhà tôi dùng sơn môi viết lên chiếc gương soi: Bé em của anh, chúng ta đang đơn độc trên thế giới. 

Thời kỳ này tôi có ấn tượng là lạ là cô bé đang lớn lên trước tuổi. Tôi nói điều này với Rosa Cabarcas và bà ta thấy điều đó là tự nhiên. Ngày năm tháng Mười Hai tới nó sẽ tròn mười lăm tuổi đấy, bà ta nói với tôi. Ứng đúng vào cung Nhân mã đấy 1. Tôi cứ băn khoăn không biết điều này có thực không để làm lễ sinh nhật. Tặng cô bé quà gì được nhỉ? Một chiếc xe đạp, Rosa Cabarcas nói: Hàng ngày con bé phải đi xuyên qua thành phố hai lần để đến chỗ đơm cúc áo đấy. Bà ta chỉ cho tôi chiếc xe đạp nó đang dùng để ở sân sau. Tôi thấy nó chẳng khác gì một đống sắt vụn, hoàn toàn không xứng đáng với người phụ nữ đang được yêu thương. Nhưng tôi rất xúc động vì đó đúng là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ Delgadina hiện hữu trong đời thực. 

Khi mua chiếc xe đạp tốt nhất cho cô bé, tôi không kìm được ý thích đi thử một vài vòng trong sân kho. Trả lời câu hỏi của người bán hàng về tuổi tác, tôi nói theo kiểu lấp lửng của người già: Tôi sẽ có chín mươi mốt tuổi. Anh nhân viên nói đúng điều tôi mong muốn: Nhưng trông ông trẻ hơn hai mươi tuổi đấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nỗi làm sao mình vẫn giữ được thói quen nghịch ngợm thời học trò và cảm thấy sung sướng lâng lâng trong lòng. Tôi bắt đầu hát. Lúc đầu chỉ hát nho nhỏ cho chính mình nghe, rồi hát thật to như muốn vỡ lồng ngực với vẻ cao ngạo của Caruso, vừa đạp xe chạy giữa những cửa hàng sắc màu loè loẹt và cảnh buôn bán điên rồ của khu chợ bình dân. Mọi người vui thích nhìn tôi, gọi tôi rối rít, khuyến khích tôi tham gia vào cuộc đua xe lăn vòng quanh đất nước Colombia. Tôi giơ tay vẫy chào mọi người như một thủy thủ hạnh phúc và vẫn không ngừng hát ca. Trong tuần lễ đó, để chào đón tháng Mười Hai, tôi viết một bài báo mạnh bạo khác: Làm thế nào để cảm thấy hạnh phúc kh.i ngồi trên xe đạp ở tuổi chín mươi. 

Đêm sinh nhật cô bé, tôi hát cho Delgadina nghe toàn bộ bài ca và hôn toàn thân cô cho đến khi không còn đủ hơi sức nữa mới thôi: dọc theo sống lưng, từng đốt xương một, cho đến mông đít trắng xanh nhợt nhạt, bên sườn có vết sẹo, bên sườn có trái tim không mệt mỏi của em. Tôi hôn đến đâu thì thân thể cô bé nóng dần lên đến đó và toát lên mùi hương đồng cỏ nội. Cô bé cũng đáp lại những nụ hôn của tôi bằng những rung động mới ở từng tấc da thịt, và ở mỗi chỗ trên da thịt của bé tôi lại thấy độ nồng ấm khác nhau, một hương vị riêng, một tiếng rên mới, và toàn thân bé như rung lên liên tiếp các nốt nhạc trong bản hợp âm rải và hai núm vú hé nở như hoa dù tôi không đụng đến. Tôi bắt đầu thiu thiu ngủ vào lúc sáng sớm khi cảm thấy tiếng rì rầm của đám đông ngoài biển và nỗi sợ hãi của hàng cây như xuyên qua trái tim mình. Lúc ấy tôi đi ngay vào buồng tắm và viết lên trên tấm gương: Delgadina của đời anh, những làn gió Giáng sinh đã thổi nến rồi. 

Một trong những kỷ niệm hạnh phúc nhất đời tôi chính là cảm giác xao xuyến trong lòng buổi sáng sớm ngày nọ khi vừa bước ra khỏi trường học. Chuyện gì đã xảy ra với tôi nhỉ? Cô giáo ngơ ngác nói với tôi: Chà, hoá ra em không biết đó là những làn gió biển à? Tám mươi năm sau, một lần nữa tôi lại cảm thấy làn gió khi tỉnh dậy trên giường của Delgadina, cũng trong một sáng tháng Mươi Hai đến rất đúng hẹn với bầu trời trong suốt, những cơn bão cát, những cơn lốc ngoài đường phố làm tốc mái nhà và tốc váy các cô bé học sinh. Lúc này, thành phố như vang vọng tiếng ma quỷ. Trong đêm lộng gió biển người ta vẫn nghe thấy tiếng hò hét từ khu chợ vọng lên đến tận những khu dân cư cao nhất như ở ngay góc phố. Nên cũng chẳng có gì lạ nếu lồng trong tiếng gió tháng Mười Hai ta vẫn nghe thấy tiếng những người đang tản mác đâu đó trong những hộp đêm xa xôi nhất. 

Tuy nhiên, những cơn gió biển cũng mang lại tin chẳng tốt lành gì là Delgadina không thể qua lễ Giáng sinh cùng tôi vì cô bé phải ở với gia đình mình. Nếu có điều gì làm tôi căm ghét nhất ở thế gian này thì đó chính là những ngày lễ bắt buộc trong đó người ta khóc vì vui sướng, những buổi bắn pháo hoa, những bài hát mừng trong lễ Nô-en, những dây hoa giấy chẳng liên quan gì đến đứa trẻ đã ra đời cách đây hơn hai nghìn năm trong một chuồng ngựa nghèo nàn. Tuy nhiên khi đêm đến, tôi không cầm nổi nỗi nhớ mong và tôi đã đến phòng ngủ không có cô bé say ngủ. Tôi ngủ rất ngon, và tỉnh dậy cùng với một con gấu nhồi bông đi được hai chân như gấu trắng bắc cựa cùng với một tấm danh thiếp ghi: Để tặng người bố xấu xí. Rosa Cabarcas đã có lần nói với tôi là Delgadina đang học đọc qua những bài giảng của tôi viết trên gương, và nét chữ đẹp của em khiến tôi thấy khâm phục. Nhưng chính bà ta lại làm tôi buồn vì cái tin quá tệ hại: con gấu là quà của chính bà ta, thế là tôi quyết định qua đêm đón Năm mới ở ngay nhà mình và lên giường từ lúc tám giờ tối rồi ngủ không hề vương vất chút cay đắng nào. Tôi cảm thấy hạnh phúc, bởi vì vào thời khắc mười hai giờ đêm, trong tiếng chuông vang vang bực tức, tiếng còi tầm của các nhà máy và xe cứu hỏa, tiếng thở than của các con tàu thủy, tiếng nổ của thuốc súng, của pháo, tôi cảm thấy Delgadina đi rón rén vào nhà, nằm xuống bên cạnh tôi và trao cho tôi một nụ hôn. Thật đến nỗi trên miệng tôi còn đọng mùi hương cam thảo của nàng.

——————————–

1 Nhân mã: Cung thứ chín trong hoàng đạo.

 

CHƯƠNG 4

Đầu năm mới, chúng tôi bắt đầu quen như hai người sống chung và cùng tỉnh táo, bởi vì tôi đã tìm được một âm độ giọng nói cẩn trọng khiến cô bé dù không tỉnh dậy nhưng vẫn nghe hiểu được, và trả lời tôi bằng ngôn ngữ tự nhiên của thân thể mình. Trạng thái tâm lý của cô bé được biểu lộ qua cách ngủ. Từ chỗ mệt mỏi kiệt sức và hoang dại thuở ban đầu, dần dần thể trạng nội tâm em thanh thản hơn làm cho sắc mặt cũng ngày càng đẹp và làm phong phú hơn giấc ngủ mơ. Tôi kể cho em về cuộc đời mình, đọc vào tai em bản thảo các bài báo chủ nhật trong đó hình ảnh của em, và chỉ duy nhất của em, ẩn hiện trong từng dòng mà không cần phải viết ra thành vă n. 

Tôi để trên gối đôi hoa tai bằng cẩm thạch vốn là của mẹ tôi trước đây. Lần gặp sau, cô bé đeo vào tai nhưng trông không đẹp. Tôi lại đưa những bông tai khác hợp hơn với màu da của em. Tôi giải thích: Những chiếc hoa tai đầu tiên không phù hợp với kiểu tóc em. Những chiếc bông tai này sẽ hợp với em hơn. Cô bé không đeo bất cứ loại nào trong những lần gặp sau đó, nhưng lần thứ ba thì đeo loại tôi đã chỉ dẫn. Thế là tôi hiểu ngay là cô bé không làm theo mệnh lệnh nhưng vẫn sẵn sàng dành cơ hội chiều theo ý thích của tôi. Những ngày đó tôi đã quen với lối sinh hoạt gia đình này, nhưng tôi không ngủ loã thể nữa mà mang theo bộ quần áo ngủ bằng lụa Trung Hoa đã lâu không dùng đến vì không có ai cởi cho tôi. 

Tôi bắt đầu đọc cho cô bé Hoàng tử bé của Saint-Exupéry, một tác giả người Pháp được độc giả khắp thế giới khâm phục hơn chính người Pháp. Lúc đầu tôi đọc truyện mua vui mà không đánh thức cô bé dậy, thậm chí phải đến hai ngày liền để đọc cho xong cuốn sách. Sau đó chúng tôi tiếp tục với Truyện ngắn của Perrault, và Lịch sử thiêng liêng, Nghìn lẻ một đêm với các bản in được lành mạnh hóa dành cho trẻ em, và tôi nhận thấy tuỳ theo mạch truyện mà giấc ngủ của em sâu hay nông. Khi cảm thấy em đã thực sự ngủ sâu, tôi liền tắt đèn ôm cô bé ngủ cho đến khi gà gáy sáng. 

Tôi cảm thấy hạnh phúc đến mức nhẹ nhàng hôn lên mí mắt của cô bé, và đêm nọ trong một loáng như ánh sáng vụt trên trời: cô bé mỉm cười lần đầu tiên. Sau đó, em lại vô cớ quay lưng lại phía tôi, và bực tức nói: Chính con bé Isabel làm cho những con ốc phải khóc. Kích thích bởi ảo giác một cuộc đối thoại, tôi liền hỏi lại em bằng chính giọng điệu đó: Thế những con ốc là của ai? Cô bé không trả lời. Tiếng nói của em mang đậm chất bình dân nhưng dường như không phải của em mà của ai đó nằm chính trong cơ thể của em nói ra. Mọi nghi ngờ nhanh chóng biến mất khỏi tâm hồn tôi: tôi thích em trong trạng thái say ngủ. 

Vấn đề duy nhất của tôi là con mèo. Nó chán ăn và cáu bẳn, hai ngày liền nằm co quắp ở góc nhà và hung hãn cào cấu khi tôi định bỏ nó vào giỏ mây cho Damiana đưa đến bác sĩ thú y. Ngay sau khi nhét được nó vào túi sợi cây xương rồng, Damiana liền đưa đi ngay. Một lúc sau, từ trại nuôi mèo bà ta gọi về xin lệnh của tôi để giết con mèo vì không còn cách nào khác. Tại sao? Bởi vì nó quá già, Damiana nói. Tôi bực bội nghĩ rằng ngay như mình cũng có thể bị rang sống trên lò nướng thịt mèo. Tôi cảm thấy bất lực giữa hai ngọn lửa: tôi chưa học được tình cảm yêu thương mèo, nhưng cũng không có trái tim đủ tàn nhẫn để ra lệnh giết con mèo chỉ đơn giản vì nó quá già. Sách hướng dẫn để đâu mất rồi nhỉ? 

Sự kiện này làm tôi xúc động mạnh đến nỗi tôi phải viết một bài báo cho số chủ nhật với đầu đề ăn cắp được của Neruda 1: Có đúng mèo là một con hổ nhỏ ở phòng khách hay không? Bài báo, một lần nữa, lại gây nên một cuộc tranh cãi rầm rộ chia bạn đọc thành hai phe, một phe ủng hộ một phe chống lại loài mèo. Trong năm ngày đầu đã thắng thế luận điểm cho rằng việc hạ thủ con mèo là hợp lý nhưng vì lý do bảo vệ sức khoẻ cộng đồng chứ không phải vì nó quá già. 

Sau cái chết của mẹ, tôi thường lo lắng rằng khi ngủ sẽ bị ai đó đụng đến người mình. Một tối nọ, tôi cảm thấy điều này, nhưng tiếng nói của ai đó làm tôi an tâm: Figlio mio poveretto 2. Tôi lại cảm nhận được điều này một lần nữa vào buổi sáng sớm trong phòng của Delgadina, và tôi sung sướng nghĩ rằng cô bé đã chạm vào người tôi. Nhưng không phải: người đó chính là Rosa Cabarcas đang đứng trong bóng tối. Ông mặc quần áo vào và đi theo tôi ngay, bà ta nói, đang có chuyện rắc rối to. 

Chuyện nghiêm trọng hơn nhiều so với sự tưởng tượng của tôi. Một trong những khách hàng sộp nhất của nhà chứa vừa bị đâm chết ngay trong phòng đầu tiên. Kẻ giết người đã bỏ trốn. Thi thể mập ú, không quần áo nhưng lại đi giày trông tái mét như con gà luộc đang nằm trong vũng máu ngay trên giường. Vừa bước chân vào tôi đã nhận ra ngay ông ta: J.M.B., một chủ ngân hàng lớn, nổi tiếng về thân xác khổng lồ, về tính thân thiện và cách ăn vận, và nhất là về nề nếp gia phong. Ở cổ có hai vết thương tím ngắt như hai vành môi và ở bụng có một vết đâm dài vẫn còn chảy máu. Thịt da vẫn còn mềm. Ngoài các vết thương, tôi có ấn tượng mạnh hơn cả là thấy chiếc bao cao su đã được lồng vào dương vật và hình như chưa kịp dùng trong hành động tình dục thì đã bị đâm chết. 

Rosa Cabarcas không biết ông ta đã đi với ai bởi vì ông ấy cũng có đặc quyền đi cửa sau phía vườn cây. Cũng không loại trừ kẻ đi cùng cũng là một người đàn ông. Bà chủ nhà chỉ muốn nhờ tôi giúp mặc lại quần áo cho thi thể. Bà ta tin chắc là tôi đang lo lắng nghĩ rằng chuyện chết chóc ở đây xảy ra như cơm bữa. Không có việc gì khó hơn là mặc quần áo cho một người chết, tôi nói với bà ta. Tôi làm việc này vì sự chăn dắt của Chúa Trời, bà ta đáp lại. Nếu có ai giữ hộ tôi cái xác chết thì công việc sẽ dễ dàng hơn. Tôi nhắc bà ta: Thế bà đã hình dung ra việc không ai lại tin một xác chết đầy vết đâm chém lại được mặc trong bộ quần áo của một công tử còn nguyên vẹn chứ? 

Tôi run lên vì lo sợ cho Delgadina. Tốt nhất là ông mang con bé đó đi theo, Rosa Cabarcas nói với tôi. Thà chết còn hơn, tôi nói với bà ta miệng đắng ngắt. Bà ta nhận ra ngay tất cả và không dấu sự khinh khi: Ông đang run cầm cập! Vì con bé đấy, tôi nói dù chỉ là phân nửa sự thật. Bà phải báo cho con bé ra đi trước khi có ai đó đến đây. Nhất trí thôi, bà ta nói, mặc dù ông sẽ chẳng gặp rắc rối nào đâu vì là nhà báo. Bà cũng thế, tôi nói với chút bực mình. Bà là người duy nhất thuộc phái tự do được quyền lãnh đạo chính phủ này. 

Thành phố này vốn được tiếng là yên bình và an toàn kể từ khi mới ra đời, ấy thế mà năm nào cũng có một vụ giết người dã man và đầy tai tiếng. Cái chết nọ cũng chưa phải là rất cả. Bản tin chính thức với tít lớn và đầy ắp chi tiết giải thích rằng ông chủ ngân hàng trẻ tuổi đã bị đâm nhiều nhát dao đến chết trên đường quốc lộ Pradomar vì lý do khó hiểu. Ông chưa từng có kẻ thù. Thông báo của chính quyền thì chỉ rõ nghi ngờ rằng những kẻ sát nhân có thể nằm trong số những người tỵ nạn từ quê ra các thành phố hiện đang gây nên một làn sóng tội phạm hình sự hoàn toàn xa lạ với ý thức công dân của tuyệt đại dân chúng. Ngay trong những giờ đầu tiên đã có hơn năm mươi người bị bắt. 

Tôi đến và cãi vã ồn ào với biên tập viên phụ trách tư pháp, một nhà báo điển hình của những năm hai mươi, đầu đội mũ lưỡi trai nhựa màu xanh và ống tay áo cài khuy, lúc nào cũng muốn đi trước mọi sự việc. Tuy nhiên, lúc này anh ta chỉ biết một vài chi tiết vụn vặt liên quan đến tôi ác, và tôi phải bổ sung thêm những chi tiết khác một cách hết sức thận trọng. Và thế là hai chúng tôi cùng viết một bản tin dài năm trang đánh máy được đăng tám cột trên trang nhất của báo với lời chú giải là theo nguồn tin đáng tin cậy, một thứ bóng ma muôn thuở mà nhà báo chúng tôi vẫn sử dụng. Nhưng Người đàn ông đán ghét vào lúc chín giờ- tức nhân viên kiểm duyệt vào lúc báo chuẩn bị lên khuôn – không hề run tay sửa lại nội dung cho giống y thông báo chính thức coi đó là vụ tấn công của bọn cướp đường thuộc đảng tự do. Tôi tự an ủi lương tâm bằng việc vác bộ mặt sầu thảm cùng đông đảo mọi người đi trong đám tang bỉ ổi và đông đúc nhất của thế kỷ. 

Tối hôm ấy, vừa về đến nhà là tôi đã gọi điện ngay cho Rosa Cabarcas để hỏi xem Delgadina có việc gì không nhưng không có ai trả lời suốt bốn ngày liền. Ngày thứ năm, tôi nghiến răng đến nhà bà ta. Các cửa ra vào đều bị niêm phong, không phải do cảnh sát mà là do ngành y tế. Những người hàng xóm không hay biết một tý gì. Không có một dấu hiệu nào về Delgadina khiến tôi phải bắt đầu cuộc tìm kiếm quyết liệt và nhiều khi quá lố bịch đến mức thở hổn hà hổn hển vì kiệt sức. Suốt trong nhiều ngày liên tục tôi ngồi ở bậc thang lên xuống tại công viên đầy bụi bặm nơi bọn trẻ con vẫn nghịch ngợm leo lên tượng đài Simón Bolivar, và quan sát tất cả những cô gái trẻ đi xe đạp. Họ đạp xe qua lại như những con nai tơ đẹp, gần gũi tưởng như nhắm mắt cũng chộp được. Khi đã hết hy vọng, tôi liền lẩn trốn vào nỗi an bình của điệu hát bolero. Cứ như một kẻ bị say chất men độc: mỗi lời bài hát đều gợi nhớ cô bé. Trước đây tôi luôn cần có sự im lặng để viết vì hồn tôi thấm đậm chất âm nhạc hơn là chất văn chương. Nhưng bây giờ thì ngược lại: tôi chỉ viết được trong tiếng nhạc belero. Hình ảnh em đầy ắp đời tôi. Trong suốt hai tuần lễ đó, những bài báo tôi viết đều trở thành những bức thư tình mẫu mực. Ngược hẳn với số đông độc giả trong các bức thư gửi đến, ông trưởng ban biên tập lại đề nghị tôi hạ nhiệt bớt lửa tình yêu trong khi chúng tôi nghĩ cách làm sao an ủi cho được những kẻ tình si. 

Từ cảnh bất anh trong lòng đã làm suy kiệt sức lực của tôi. Tỉnh dậy từ năm giờ sáng nhưng tôi vẫn nằm trong bóng tối chập choạng của phòng ngủ để hình dung ra Delgadina trong đời thực đang đánh thức các em dậy, mặc quần áo cho chúng đến trường, cho chúng ăn sáng nếu như có thứ để ăn, rồi sau đó đạp xe xuyên qua thành phố để thực hiện án phạt suốt ngày ngồi đơm cúc áo. Tôi kinh ngạc tự hỏi: Trong khi đơm cúc áo, người phụ nữ sẽ nghĩ gì nhỉ? Nghĩ đến tôi chăng? Liệu cô bé có đi tìm Rosa Cabarcas để lại được gặp tôi không nhỉ? Suốt cả tuần lễ tôi không thay quần lót, không tắm gội, không cạo râu, không đánh răng bởi vì tình yêu đến với tôi quá muộn để làm đẹp với ai được nữa. Damiana tưởng tôi bị ốm khi thấy tôi nằm loã thể trên võng vào lúc mười giờ sáng. Tôi nhìn bà ta với đôi mắt đắm đuối và rủ cả hai cùng loã thể luôn. Bà ta khinh khỉnh nói với tôi 

– Ông có nghĩ mình sẽ làm được gì nếu tôi đồng ý? 

< /div> 
Thế là tôi mới chợt hiểu nỗi đau khổ đang gặm nhấm người tôi đến mức độ nào. Tôi không còn nhận ra chính mình trong nỗi đau thơ dại. Tôi không dám rời khỏi nhà vì sợ lỡ mất những cú điện thoại gọi đến. Tôi ngồi viết mà không rời khỏi chiếc điện thoại, mỗi tiếng chuông reo lại làm tim tôi nhảy bắn lên vì nghĩ rằng đó là Rosa Cabarcas gọi đến. Thỉnh thoảng tôi lại ngừng công việc để gọi cho bà ta, và suốt ngày tôi gọi liên tục cho đến khi hiểu rằng chiếc điện thoại hoàn toàn vô cảm. 

Một buổi chiều mưa, vừa trở về nhà, tôi đã thấy con mèo nằm cuộn tròn ở ngay bực cửa ra vào. Trông nó bẩn thỉu, tàn tạ một cách đáng thương. Quyển sách hướng dẫn chỉ ra rằng nó đang bị ốm và tôi phải thực hiện một số biện pháp để cứu nó. Khi định đi nghỉ, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ là chính nó có thể dẫn tôi lần theo dấu vết của Delgadina. Tôi đem nó trong túi đi chợ đến tận nhà của bà Rosa Cabarcas, lúc này vẫn còn bị niêm phong nên không có một tí dấu hiệu sự sống nào. Con mèo hăng hái nhảy ra khỏi cái túi xuống vườn và mất hút trong lùm cây. Tôi gõ cửa và nghe thấy một tiếng nói của một quân nhân nào đó: Ai đến đây? Người lương thiện đây, tôi nói. Tôi đến tìm bà chủ quán. Ở đây không có bà chủ nào cả, tiếng nói lại vọng từ trong nhà ra. Tối thiểu cũng nhờ ông mở cửa để tôi tìm con mèo, tôi nài nỉ. Không có mèo nào cả, ông ta nói. Tôi hỏi: Ông là ai vậy? 

– Chẳng là ai cả – Giọng nói vọng ra. 

Tôi luôn hiểu rằng chết vì tình chẳng qua chỉ như tấm giấy pháp bằng thơ ca mà thôi. Buổi chiều hôm đó, khi trở về nhà, không có mèo và cô bé đi cùng, tôi nghiệm ra rằng mình không chỉ có thể sẽ chết mà thực ra thì đang chết dần chết mòn vì tình. Nhưng tôi cũng nhận thấy một sự thật ngược hẳn lại: niềm vui trong đau khổ của tôi vẫn không hề thay đổi. Tôi đã mất mười lăm năm để cố dịch bằng được một bài hát của Leopardi và mãi đến chiều hôm đó tôi mới cảm nhận một cách sâu sắc ý nghĩa của nó: Hồn tôi sao đớn đau, tình yêu sao đắng cay. 

Mọi người vô cùng lo lắng khi thấy tôi mặc quần áo lót và râu ria lởm chởm bước vào toà báo. Toà nhà mới được nâng cấp, mỗi người một ngăn, chung ánh sáng đèn chiếu từ trên trần, mới nhìn cứ tưởng như trong nhà hộ sinh. Bầu không khí im lặng giả tạo khiến ai cũng phải nói năng nhỏ nhẹ và đi lại rón rén. Ở tiền sảnh treo ba bức tranh sơn dầu vẽ ba chủ bút đảm đương chức vụ suốt đời, trông như các vị phó vương đã chết và những bức ảnh của các vị khách quý. Phòng hợp chính rộng rãi treo bức ảnh khổng lồ của toàn bộ ban biên tập hiện nay chụp hôm sinh nhật tôi. Tôi liên tưởng ngay đến bức chụp hồi tôi ba mươi tuổi và một lần nữa tôi sợ hãi nhận ra trong ảnh mình còn già đi nhanh và tệ hại hơn nhiều so với trong đời thực. Cô thư ký hôn tôi trong buổi mừng sinh nhật đã hỏi có phải tôi đang ốm không. Tôi sung sướng nói thật điều mà chắc cô ta không tin: Tôi đang ốm vì tình. Cô ta nói: Tiếc là không phải vì em! Tôi đáp lại: Biết đâu đấy. 

Tay biên tập viên phụ trách khối tư pháp vừa đi ra khỏi khoang làm việc vừa nói to rằng ở khu vực nhà hát thành phố có hai xác chết con gái chưa xác định được danh tính. Tôi giật mình hỏi lại: Cỡ mấy tuổi? Trẻ lắm, ông ta nói. Có thể là những người chạy loạn ở tỉnh lên bị bọn đao phủ của chính quyền đuổi theo giết chết. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tình hình căng thẳng này cứ lẳng lặng xâm nhập vào chúng ta như một vết máu loang mãi, tôi nói. Tuy đã đi xa, nhưng tay biên tập khối tư pháp vẫn hét to: 

– Không phải như vết máu, sư phụ ơi, mà là bãi cứt. 

Mấy ngày sau, tôi còn gặp điều tệ hại hơn nữa. Hôm đó, có một cô gái mang cái túi giống hệt túi đựng mèo hôm trước bất ngờ đi qua trước quán sách Mundo như một luồng gió lạnh. Tôi vội vàng đuổi theo cô ta, chen chúc giữa đám đông vào lúc mười hai giờ trưa nóng như đổ lửa. Cô ta rất đẹp, bước đi thật dài và mềm mại, khéo léo len lỏi giữa những người bộ hành đông đảo khiến tôi rất vất vả bám theo. Cuối cùng thì tôi cũng đuổi kịp và nhìn thẳng vào mặt cô ta. Cô bé lấy tay gạt mạnh tôi ra mà không thèm nói lời xin lỗi và tiếp tục bước đi. Không phải là cô bé mà tôi đang tìm kiếm, nhưng chính tính cách cao ngạo của cô ta còn làm tôi đau đớn hơn cả việc nếu cô ta chính là em bé của tôi. Ngay tức khắc tôi hiểu rằng mình không thể nhận ra Delgadina khi cô bé thức và mặc quần áo và rằng cô bé cũng không thể biết tôi là ai vì có bao giờ nhìn thấy đâu. Trong ba ngày điên rồ, tôi ngồi đan mười hai đôi tất màu xanh và hồng cho trẻ sơ sinh, cố gắng không nghe, không hát, không tơ tưởng đến những bài hát khiến tôi nhớ đến Delgadina. 

Tôi thực sự chẳng biết làm gì với nỗi đau tâm hồn và bắt đầu nhận ra mình đã già, bất lực trước tình yêu. Minh chứng đau đớn cho việc này chính là vụ tai nạn mà tôi đã chứng kiến: một chiếc xe buýt cán một cô gái đi xe đạp ngay giữa trung tâm khu thương mại. Khi xe cấp cứu vừa đưa cô bé đi khỏi, mọi người mới thấy hết cảnh nát vụn của chiếc xe đạp trong vũng máu tươi. Tôi xúc động mạnh không chỉ vì đám sắt vụn mà chính vì chiếc xe đạp có cùng nhãn hiệu, mẫu mã và màu sắc giống hệt chiếc mà tôi đã tặng Delgadina. 

Các nhân chứng đều xác nhận người đi xe đạp bị thương là một cô gái rất trẻ, cao và gầy, có mái tóc cắt ngắn xoăn tít. Hoàn toàn hoảng hốt, tôi vội nhảy lên chiếc taxi đầu tiên đi qua đế đến bệnh viện Tế bần, một căn nhà cổ lỗ tường bằng đất thổ hoàng trông chẳng khác gì nhà tù. Tôi phải mất nửa tiếng đồng hồ đề vào và nửa tiếng khác để ra khỏi khu vườn cây đầy mùi hương thơm của trái cây nơi một người đàn bà khốn khổ chặn ngang đường và nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nói: 

– Tao là người mà bây không đến tìm đây. 

Đ ến lúc đó tôi mới nhớ ra là ở trong vườn này những người điên hiền lành của cả quận được tự do đi lại. Tôi phải đưa thẻ nhà báo cho ban giám đốc bệnh viện, họ mới chịu cử một y tá dẫn đến phòng cấp cứu. Trong sổ nhập viện có ghi các số liệu: Tên họ Rosalba Rios, mười sáu tuổi, không rõ nghề nghiệp. Triệu chứng: vỡ hộp sọ, choáng. Chẩn đoán tiếp tục theo dõi. Tôi hỏi trưởng phòng cấp cứu liệu có thể đến tận nơi thăm cô ta được không với hy vọng là ông ta từ chối, nhưng họ lại vui vẻ dẫn đi ngay để mong tôi có bài viết về tình trạng tồi tàn của bệnh viện đang bị bỏ rơi. 

Chúng tôi đi qua căn phòng màu mè loè loẹt sặ mùi a-xít fénic với những bệnh nhân nằm chất đống trên giường. Cuối phòng, trong một buồng đơn để chiếc cáng bằng sắt trên đó nằm thẳng đơ cô gái mà chúng tôi đang tìm. Hộp sọ quấn đầy băng trắng, bộ mặt không còn nhận ra được nữa, sứt sẹo và tím bầm, nhưng chỉ nhìn đôi bàn chân tôi cũng biết là không phải cô bé cần tìm. Tôi bỗng tự hỏi: Mình sẽ làm gì nếu đúng là cô bé nhỉ? 

Dù trong lòng còn rối tinh lên vì chuyện tối hôm trước, nhưng ngày hôm sau tôi vẫn có đủ lòng can đảm đi đến tận nhà máy may áo sơ mi, nơi theo lời của Rosa Cabarcas là cô bé đang làm việc. Tôi xin phép ông chủ nhà máy cho đi xem các phân xưởng có thể sẽ thành hình mẫu của một dự án tầm cỡ châu lục của Liên hợp quốc. Ông chủ, một người Libăng da thô dày và ít nói đã mở toang vương quốc của mình với hy vọng sẽ được đầu tư thành một tấm gương toàn cầu. 

Trong một khung nhà rộng lớn ngập trong ánh điện, ba trăm thiếu nữ mặc áo blu trắng với vết tro bôi trên trán 3 đang mải miết đơm cúc. Khi biết chúng tôi vào, họ đều ngước nhìn lên như những cô học trò nhỏ và liếc nhìn chúng tôi trong khi viên quản đốc giảng giải về những đóng góp của họ cho nền nghệ thuật đơm cúc áo. Tôi quan sát bộ mặt từng cô và phấp phỏng lo sợ phát hiện ra Delgadina mặc đủ quần áo và đang thức. Nhưng chính một trong số các cô gái lại phát hiện ra tôi bằng ánh mắt thán phục đến dễ sợ và hỏi không chút nể nang: 

– Thưa ông, có phải chính ông là người viết các bức thư tình trên báo không ạ? 

Tôi chưa bao giờ hình dung nổi một bé gái say ngủ lại có thể gây ra chuyện khó xử cho mình như vậy. Tôi trốn chạy khỏi nhà máy không kịp chia tay với ai và cũng chẳng kịp suy nghĩ xem liệu trong số các thiếu nữ trinh nguyên kia có người con gái mình đang cố tìm hay không. Khi ra khỏi tôi chỉ có một tình cảm duy nhất trên đời là muốn khóc. 

Sau đúng một tháng thì Rosa Cabarcas gọi điện đến để đưa ra lời giải thích không tưởng tượng nổi: bà ta đã có những ngày nghĩ xứng đáng ở thành phố Cartagena sau vụ giết hại ông chủ ngân hàng. Tất nhiên là tôi không tin lời bà ta, nhưng cũng chúc mừng ba đã tai qua nạn khỏi và để bà ta huyên thuyên tiếp những điều dối trá trước khi hỏi điều đang làm tim tôi thổn thức: 

– Thế cô bé thì sao? 

Rosa Cabarcas im lặng một lúc lâu. Nó vẫn ở đó, mãi sau bà ta mới nói, nhưng lại cố tìm cách lảng tránh: Phải chờ thêm một thời gian nữa. Bao nhiêu lâu? Tôi vẫn chưa dự kiến được, rồi tôi sẽ báo cho ông biết. Tôi thấy bà sắp cúp máy liền nói ngay: Chờ tí đã, phải cho tôi chút ánh sáng chú. Không có tia sáng nào cả, bà ta nói, và kết luận: Ông phải cẩn thận đấy vì chuyện này có thể làm hại ông, và nhất là làm hại con bé. Tôi không phải là kẻ hay nhõng nhẽo đâu. Tôi năn nỉ bà ta cho phép dù một lần duy nhất tiếp cận đến sự thật. Dù sao đi nữa, tôi nói, tôi và bà điều là tòng phạm cả mà. Bà ta không hề lùi bước. Yên tâm đi, bà ta nói, con bé vẫn khoẻ mạnh và vẫn chờ tôi gọi điện, nhưng ngay lúc này chẳng có chuyện gì làm đâu và tôi cũng không nói gì thêm nữa. Xin chào ông. 

Tôi vẫn cầm chiếc điện thoạ i trên tay mà không biết tiếp tục nói gì được nữa, bởi vì đã quá biết không thể moi ở bà ta bất cứ chuyện gì bằng cách ép buộc. Quá trưa, tôi lại đi đến nhà bà ta, chỉ còn chờ trông vào điều may rủi. Căn nhà vẫn cửa đóng then cài cùng với dấu niêm phong của ngành y tế. Tôi nghĩ là Rosa Cabarcas đã gọi tôi từ một nơi khác, có thể từ thành phố khác, đó quả là một điềm xấu. Tuy vậy, lúc sáu giờ chiều, thời khắc ít ngờ nhất, bà ta đã xổ qua điện thoại đến tôi những ký hiệu riêng của mình: 

– Này, bây giờ được rồi đấy. 

Mười giờ đêm, toàn thân thân run rẩy và môi mím chặt để khỏi bật ra tiếng khóc, tôi mang theo những hộp sô- cô- la Thuỵ Sĩ, bánh mật hạnh nhân và kẹo cùng một giỏ hoa hồng cháy đỏ để phủ lên giường. Cánh cửa khép hờ, đèn sáng và từ chiếc đài bán dẫn vọng ra bản sonat số một cho violon và piano của Brahms. Delgadina nằm trên giường rực rỡ và khác lạ khiến mãi tôi mới nhận ra. 

Cô bé đã lớn hơn, nhưng không phải là về kích thước mà về nét già dăn hơn hai hoặc ba tuổi, và trông cũng loã thể hơn bao giờ hết. Đôi gò má như cao hơn, làn da sạm nắng biển, đôi môi mỏng, mái tóc cắt ngắn và xoăn tít khiến bộ mặt em có nét rạng rỡ của tượng Apolo của Praxíteles. Cặp vú của em cũng phổng phao hẳn lên không còn nằm gọn trong lòng bàn tay tôi được nữa, vòng eo cũng đã định hình, khung xương đã trở nên rắn rỏi và hài hoà hơn hẳn. Tôi say sưa với những thành tựu của tự nhiên nhưng lại hốt hoảng trước những nét giả tạo: lông mi giả, móng tay và móng chân sơn màu sẫm xà cừ và một mùi nước hoa sực nức chẳng có vẻ gì là tình yêu cả. Tuy nhiên, điều làm tôi nổi giận chính là mớ tài sản cô bé mang trên người: khuyên tai khảm ngọc bích, vòng đeo cổ bằng ngọc tự nhiên,một vòng đeo tay lấp lánh và thêu khéo léo, và đôi giày gót bằng. Bụng tôi ứ đầy làn hơi lạ. 

– Đồ con điếm! – Tôi thét lên. 

Quỷ dữ nói vào tai tôi một ý nghĩ đen tối. Và đúng là như vậy: trong đêm xảy ra tội ác, Rosa Cabarcas có lẽ đã không kịp và không đủ bình tĩnh quay lại báo cho cô bé, và cảnh sát đã thấy cô ta nằm một mình trong phòng, một đứa trẻ vị thành niên, bị ép buộc. Không ai dám hành sự như Rosa Cabarcas trong trường hợp này: bà ta bán trinh của đứa bé cho một trong những viên sếp sòng để đổi lấy sử an toàn của chính mình trong vụ giết người. Điều đầu tiên, tất nhiên là phải làm chìm đi vụ bê bối này. Thật là tuyệt vời làm sao! Một chuyến đi hưởng tuần trăng mật cho cả ba người, cô bé và kẻ nọ thì trên giường còn Rosa Cabarcas thì trên sân thượng khách sạn sang trọng hưởng niềm hạnh phúc đước thoát tội. Mù quán vì sự tức giận quái dị, tôi lần lượt ném mọi thứ trong phòng vào tường: bóng đèn, chiếc dài, chiếc quạt điện, tấm gương, ly, cốc. Tôi không làm vội vã nhưng liên tục, hết sức ồn ào và với niềm say sưa trong khuôn phép cuộc đời. Đứa bé nảy bật lên ngay sau tiếng nổ đầu tiên, nhưng không nhìn tôi mà cuộn tròn mình lại quay lưng về phía tôi và cứ nằm như thế trong cơn co giật sợ hãi cho đến khi dứt tiếng đập phá. Đám gà mái trong vườn và lũ chó cũng làm tăng thêm tiếng hỗn loạn ầm ĩ. Dù tức giận mù quang, tôi vẫn còn đủ minh mẫn và hứng khởi để sẵn sàng châm lửa đốt nhà thì vừa lúc Rosa Cabarcas trong bộ đồ ngủ bình thản xuất hiện ngay cửa ra vào. Bà ta không nói gì. Bà ta nhìn ước lượng mức độ cảnh tàn phá và thấy rõ bé gái đang nằm cuộn tròn như con ốc, đầu giấu trong hai cánh tay: sợ hãi nhưng còn nguyên vẹn. 

– Trời ơi! – Rosa Cabarcas kêu lên – Sao tôi không có được một tình yêu như kiểu này! 

Bà ta thương hại nhìn tôi từ đầu đến chân rồi ra lệnh: Đi nào. Tôi đi theo bà ta đến tận phòng. Rosa Cabarcas im lặng đưa cốc nước và ra hiệu cho tôi ngồi đối diện và lắng nghe tôi tâm sự. Nào, bà ta nói, bây giờ thì ông phải cư xử như một người lớn, và nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra? 

Tôi nói với bà ta nhữn g gì mà tôi coi là sự thật vừa phát hiện ra. Rosa Cabarcas im lặng nghe, không hề tỏ ra ngạc nhiên nhưng cuối cùng thì mặt mày cũng rạng rỡ hẳn lên. Tuyệt thật, bà ta nói. Tôi thường nói rằng ghen tuông biết nhiều hơn sự thật. Và bà ta liền nói thẳng tuột mọi chuyện đã xảy ra trong thực tế. Đúng là trong đêm xảy ra tội ác, bà ta nói, vì quá hốt hoảng nên tôi đã quên mất con bé say ngủ trong phòng. Một trong những khách hàng sộp, viên luật sư của người bị sát hại, không những làm việc phân phát quà cáp và hối lộ cho những nơi cần thiết mà còn mời Rosa Cabarcas đi nghĩ ở một khách sạn sang trọng ở thành phố Cartagena để chờ cho vụ xì-can-đan chìm xuồng. Ông hãy tin lời tôi, Rosa Cabarcas nói, trong suốt thời gian đó không lúc nào tôi quên được ông và con bé. Ngày hôm kia tôi mới về đến đây thì gọi điện ngay cho ông, nhưng không ai trả lời. Ngược lại, bé gái thì đến ngay tức thì, nhưng trông nó quá ư thảm hại nên tôi phải tắm táp cho nó hộ ông, phải sắm quần áo và đưa nó đi mỹ viện để người ta sửa sang lại cho nó như một bà hoàng. Ông thấy rõ rồi đó: trông nó tuyệt hảo. Tại sao có quần áo sang trọng ư? Đó là trang phục mà tôi phải thuê cho các em út của mình khi đi khiêu vũ với khách. Đồ trang sức ư? Đó là của tôi cả đấy: chỉ cần sờ vào là ông thấy nó toàn bằng kim cương giả và bằng sắt tây. Thôi, đừng giở trò vớ vấn nữa.Và và ta kết luận: Ông đến đó ngay đi, đánh thức con bé dậy, xin lỗi nó và giữ lấy nó luôn đi. Ông và con bé xứng đáng được hưởng hạnh phúc hơn ai hết đấy. 

Tôi nỗ lực phi thường để tin lời bà ta, nhưng tình vẫn thắng lý. Đồ gái điếm! Tôn nói, trong lòng rừng rực lửa tức giận. Đó chính là các ngươi! Tôi hét to: Đồ gái điếm cứt đái! Tôi không thèm biết gì về bà và bất cứ một mụ đàn bà hư đốn nào khác ở trên thế gian này nữa, càng không cần biết gì về con bé đó. Từ cửa ra và tôi ra dấu vĩnh biệt. Rosa Cabarcas không nghi ngờ điều này. 

Cầu chúa lôi ông đi – bà ta nhếch mép buồn bã nói, và quay ngay về đời thực. Dù sao tôi cũng sẽ gửi ông bản khai thiệt hại mà ông đã gây ra ở trong phòng ngủ.

——————————–

1 Pablo Neruda ( 1904 – 1973 ): Nhà thơ lớn của Chilê, giải Nobel văn học năm 1971.
2 Figlio mio poveretto: Tiếng Ý trong nguyên bản, có nghĩa “Đứa con trai nhỏ tột nghiệp của tôi’.
3 Lễ tro: Nghi thức xức tro trên đầu biểu hiện sự ăn năn sám hối khởi đầu mùa chay của đạo Gia tô.

 

CHƯƠNG 5

Đang đọc Những ngày mười lăm tháng tháng Ba thì tôi bắt gặp một câu buồn thảm mà tác giả cho rằng là của Julius Cesar: Ta không thể kết liễu cuộc đời trong thân phận một con người mà những kẻ khác vẫn tin là ta phải như vậy. Tôi không thể xác minh được nguồn gốc thật sự của câu này có hay không ở trong các tác phẩm của Julius Cesar hoặc là trong các tác phẩm của nhà chuyên viết tiểu sử của ông, từ Suetonio đến Carcopino, nhưng câu này rất đáng nhớ. Trong mấy tháng tiếp theo của cuộc đời tôi, chính thuyết định mệnh của ông đã truyền cho tôi lòng quyết tâm còn đang thiếu không những để viết cuốn hồi ký này mà còn để bắt đầu lại không chút sượng sùng mối tình với Delgadina. 

Không một giây phút nào lòng tôi bình yên, ăn uống kém hẳn, và sút cân đến mức quần mặc rộng thùng thình. Những cơn đau trước chạy lung tung trong người nay ở hẳn trong xương cốt, tính khí thay đổi thất thường, đêm thì tỉnh như sáo nhưng không thể đọc và cũng không nghe nổi âm nhạc; ngày thì ngược lại đầu óc cứ mê mê tỉnh tỉnh nhưng lại không thể nào ngủ được. 

Niềm an ủi bỗng từ trên trời rơi xuống. Trên chuyến xe buýt chật như nêm chạy tuyến Lome Fresca, một bà ngồi bên cạnh mà tôi không biết lên từ bến xe nào đã ghé vào tai tôi nói nhỏ: Ông vẫn còn chiến đấu được đấy chứ? Đó chính là Casilda Armenta, một mối tình kiểu ăn bánh trả tiền ngày xưa, người đã phải chịu đựng tôi như một khách hàng thường xuyên từ cái thời bà ta còn là một cô gái trẻ kiêu kỳ. Khi đã về hưu, ốm dở, không đồng xu dính túi, bà ta đã lấy một người Hoa làm nghề trồng rau, nhờ vậy được mang họ, được giúp đỡ và có thể được hưởng chút tình yêu. Bảy mươi ba tuổi, thân thể đã trở lại như xưa, vẫn đẹp và vẫn đầy cá tính mạnh mẽ, và cũng giữ nguyên tính phóng túng của nghề nghiệp cũ. 

Bà ta đưa tôi về nhà, một khu nhà vườn trồng rau kiểu người Hoa trên đồi bên đường dẫn ra biển. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế bố kiểu bãi biển ở ngay sân thượng mờ tối giữa những cây dương xỉ và thiến tuế, và những lồng chim treo lủng lẳng trên giá. TRên sườn đồi, những người Hoa đội nón lá đang trồng rau dưới cái nắng chói chang và xa xa hai mũi đá dấu dòng sông chảy lan ra tận mấy dặm ngoài biển khơi xanh xám của cửa biển Ceniza. Đang ngồi nói chuyện, chúng tôi bỗng nhìn thấy chiếc tàu chở khách vượt đại dương sơn màu trắng toát từ từ tiến vào cửa sông và chúng tôi im lặng dõi theo nó cho đến tận khi nghe rõ tiếng còi buồn thảm như tiếng rống của con bò đực ở cảng sông. Bà ta thở dài. Ông có nhận thấy điều gì không? Hơn nửa thế kỷ qua, đây là lần đầu tiên tôi không đón tiếp ông trên giường. Chúng ta đã là người khác rồi, tôi nói. Không để ý đến lời tôi, bà ta vẫn tiếp tục nói: Mỗi khi ở trên đài phát thanh người ta nói điều gì đó về ông, nào là khen ông được mọi người quý mến, nào ông là bậc thầy về tình yêu, tôi lại nghĩ trên đời này không ai hiểu được nét duyên và mánh lới của ông bằng tôi. Thực sự, bà ta nói, không có ai chịu đựng được ông tốt hơn tôi. 

Tôi không chịu được nữa. Bà ta cũng cảm thấy điều đó khi nhìn thấy đôi mắt đẫm lệ của tôi, và chỉ đến lúc đó có lẽ bà ta mới phát hiện ra rằng tôi không còn là người như trước đây nữa và tôi cũng cố nhìn bà ta với lòng can đảm của một kẻ không còn tin ở chính mình. Bây giờ tôi già rồi, tôi nói với bà ta. Chúng ta đều già cả rồi, bà ta thở dài. Có thể bên trong ta không cảm thấy nhưng bên ngoài thì ai cũng thấy rõ điều này. 

Không thể không mở lòng mình, và vì vậy tôi liền kể cho bà ta nghe toàn bộ câu chuyện đang đốt cháy tâm can mình, từ lần gọi điện thoại đầu tiên cho bà Rosa Cabarcas trước hôm sinh nhật chín mươi tuổi, cho đến cái đêm bi thảm đập vỡ mọi thứ trong phòng ngủ và không bao giờ quay trở lại đó nữa. Bà ta chăm chú nghe chuyện tầm phào của tôi mà như đang sống trong đó vậy, suy ngẫm một lúc lâu rồi mỉm cười: 

– Ông muốn làm gì thì làm, nhưng không được để mất con bé này – Bà ta nói với tôi – Không có gì bất hạnh bằng chết trong cô đơn. 

Chúng tôi đi đến cảng Colombia trên chuyến tàu hỏa bé nhỏ như đồ chơi và chạy chậm như ngựa đi bước một. Chúng tôi ngồi ăn trưa trước bến cảng làm bằng gỗ đã mục nát, nơi mà trước khi nạo vét cửa biển Ceniza, tất cả tàu bè khắp nơi trên thế giới đều phải cập vào để mọi người có thể vào được đất nước Colombia. Chúng tôi ngồi dưới bóng cây cọ và được các cô hầu bàn da đen to lớn phục vụ món cá rán với cơm dừa và chuối xanh. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật trong cơn buồn ngủ nặng nề vào lúc hai giờ chiều rồi lại tiếp tục trò chuyện cho đến khi biển chìm trong ráng đỏ rực rỡ của chiều tà. Quả thực tôi thấy rất tuyệt vời. Ông hãy nhìn nơi chúng ta đến để hưởng tuần trăng mật này, ba ta nói đùa. Rồi tiếp tục nói nghiêm chỉnh: Hôm nay quay nhìn lại trước đây, tôi thấy cả một hàng bài ngót ngàn người đàn ông đã nằm chung giừơng với tôi, và có lúc tôi đã hết lòng mong ước được thực sự có hẳn một người dù là kẻ tệ hại nhất. Nhờ ơn Chúa tôi đã kịp gặp được ông chồng người Trung Hoa. Cứ như kết hôn với ngón tay út, nhưng ông ấy là cửa riêng tôi. 

Bà ta nhìn vào mắt tôi như thăm dò phản ứng trước điều vừa kể, rồi nói tiếp: Thế thì ngay bây giờ ông phải đi tìm cô bé tội nghiệp đó, dù những gì người ta nói rất đúng về ghen tuông, dù gì đi nữa thì ông không được để ai cướp mất điều tốt đẹp của mình. Còn điều này nữa, không có lãng mạn kiển ông nội đâu nhé. Nói thật nhé, bà ta chân tình kết thúc: ông đừng để đến chết mà vẫn chưa được hưởng sự tuyệt diệu của việc chăn gối trong niềm yêu thương sau đắm. 

Ngay hôm sau, tôi run run quay số điện thoại. Một phần vì sự căng thẳng trước cuộc gặp lại Delgadina, một phần vì không biế t bà Rosa Cabarcas sẽ đáp lại ra sao. TRước đó chúng tôi đã tranh cãi quyết liệt vì bà ta đã tính quá mức những thiệt hại mà tôi đã gây ra ở phòng ngủ. Tôi đã phải bán đi một trong những bức tranh thân thương nhất của mẹ mà giá trị có thể là cả một gia tài, nhưng lúc cần thiết nó chỉ đáp ứng được một phần mười kỳ vọng của tôi. Tôi phải cộng thêm toàn bộ số tiền tiết kiệm rồi đưa đến cho Rosa Cabarcas với phương châm bất di bất dịch: Bà cầm lấy hoặc là từ bỏ luôn. Đó là một hành động tự sát, bởi vì chỉ cần bán đi một trong những bí mật của tôi, bà ta cũng đã có thể làm tiêu tan danh tiếng của tôi rồi. Nhưng bà ta không đá hậu mà chỉ giữ lại những bức tranh còn lại sau cái đêm đập phá của tôi. Tôi là kẻ bại trận ngay lần chơi đầu tiên: tôi không còn Delgadina, không có Rosa Cabarcas và cũng hết cả tiền tiết kiệm. Tuy nhiên, tôi cũng nghe thấy tiếng chuông điện thoại một lần, hai lần, ba lần và cuối cùng là bà ấy: Xem nào? Tôi không cất nổi lên lời. Tôi cúp điện thoại. Tôi nằm vật xuống võng, cố trấn tĩnh bằng những vần thơ tình khổ hạnh của Satie, và mồ hôi đổ ra ướt đầm cả nhưng dây võng. Cho đến tận ngày hôm say tôi vẫn không có đủ can đảm để gọi điện thoại. 

– Thôi được, này mụ đàn bà kia – Tôi nói một cách cứng cỏi – Ngày hôm nay thì tôi muốn. 

Tất nhiên là Rosa Cabarcas đã đoán biết trước tất cả. Chà, ngài thông thái buồn bã của tôi ơi, bà ta thở dài với vẻ luôn đắc thắng, ông đã mất hút suốt hai tháng liền rồi nay quay lại chỉ để nói điều ảo tưởng. Bà ta kể cho tôi nghe rằng đã hơn tháng nay chưa gặp lại Delgadina, nhưng hình như cô bé đã hồi phục sau cú sốc đêm phá bĩnh của tôi nên không hề đề cập gì chuyện đó và cũng không hỏi han gì về tôi nữa, rằng cô ta rất hài lòng với công việc mới, dễ chịu hơn và được trả lương cao hơn so với việc đơm cúc. Một đợt sóng lửa rừng rực đốt cháy lòng tôi. Chỉ có thể là làm điếm thôi, tôi nói. Rosa Cabarcas đáp lại ngay: Ông đừng ngu muội như thế, nếu làm thế thì nó đã ở đây rồi. Hoặc giả nó có thể ở nơi nà. o tốt hơn được không? Cách lý giải nhanh chóng của bà ta làm tôi càng thêm nghi ngờ: Làm sao tôi có thể biết là con bé không ở đó? Trong trường hợp này, ba tà đáp trả, tốt nhất là ông không nên biết đến điều đó nữa. Không ư? Tôi lại căm ghét bà ta một lần nữa. Rosa Cabarcas, để tỏ ra đã chịu, hứa sẽ đi lùng sục tìm con bé. Cũng không có nhiều hy vọng đâu, bởi vì điện thoại nhà bà hàng xóm mà tôi vẫn nhờ để gọi cho nó đã bị cho nó đã bị cắt rồi và tôi thì chẳng hề có một ý niệm gì về nới cứ trú của con bé. Nhưng cũng không đến mức phải chết vì tuyệt vọng, mẹ kiếp, bà ta nói, một giờ nữa tôi sẽ gọi cho ông. 

Một giờ mà hóa ra ba ngày, nhưng bà ta đã tìm được cô bé trong tình trạng sẵn sàng khỏe mạnh. Tôi sượng sùng trở lại và hôn lên từng phần da thịt của em, như vậy sám hối, suốt từ mười hai giờ đêm cho đến khi gà gáy sáng. Một lời xin lỗi dài mà tôi hứa sẽ còn lặp đi lặp lại mãi mãi và một lần nữa lại bắt đầu từ đầu. Căn phòng bị phá bỏ rồi bị dùng vào những việc tệ hại nên làm mất hết những gì trước đây tôi đã đặt vào đó. Bà ta cứ để nguyên như vậy và bảo tôi muốn nâng cấp lên thì phải tự làm lấy vì vẫn chưa trả hết nợ. Tuy nhiên, tình hình kinh tế của tôi rơi xuống tận đáy rồi. Tiền hưu trí càng ngày càng ít. Vài ba thứ ở trong nhà có thể bán được – trừ những đồ trang sức thiêng liêng của mẹ – thì chẳng còn giá trị thương mại, không có thứ gì quá cũ để trở thành đồ cổ. Ở thời kỳ hoàng kim, viên tỉnh trưởng đã từng đưa ra một lời đề nghị hết sức hấp dẫn để mua toàn bộ khối sách của các tác giả cổ điển Hy Lạp, La tinh và Tây Ban Nha của tôi cho thư viện của tỉnh, nhưng lúc đó tôi không có lòng nào bán chúng đi. Sau này, tình hình chính trị thay đổi và tình hình thế giới ngày càng tệ đi nên không có ai trong chính quyền nghĩ đến nghệ thuật và văn học nữa. Mệt mỏi vì không tìm được một giải pháp trong sạch, tôi đút túi tất cả số trang sức mà Delgadina đã trả lại và đi tìm cách bán ở những ngõ hẻm tối tăm gần khu phố chợ. Với vẻ một nhà thông thái đãng trí, tôi lượn lờ vài lần trước những quán ăn dơ bẩn tồi tàn chậ.t cứng khách, những cửa hàng bán sách cũ và cửa hàng cầm đồ, nhưng lòng tự trọng của mẹ tôi, Florina de Dios đã ngăn bước: tôi không dám. Thế là tôi quyết định ngẩng cao đầu vào bán cho cửa hàng vàng bạc lâu đời và có uy tín nhất thành phố. 

Anh chàng nhân viên cửa hàng đeo kính một tròng vào mắt, vừa xem xét đồ trang sức vừa hỏi tôi về một vài việc. Anh ta có phẩm chất, phong cách và tính cẩn trọng của một vị thầy thuốc. Tôi giải thích cho anh ta biết rằng tất cả số đồ trang sức này đều là di vật thừa kế của mẹ tôi. Anh ta nheo mắt tán thành sau mỗi lời giải thích và sau cùng gỡ kính một tròng ra. 

– Tôi lấy làm tiếc – anh ta nói – nhưng tất cả điều làm bằng đít chai. 

Trước sự kinh ngạc của tôi, anh giải thích với vẻ thương cảm nhẹ nhàng: Cũng còn may là vàng vẫn đúng là vàng và bạch kim vẫn đúng là bạch kim. Tôi sờ túi quần để kiểm tra lại xem có đúng là đã mang theo hóa đơn mua hàng trước đây không rồi nói không chút hằn học: 

Nhưng tất cả đã được mua ở cửa hàng đáng kính này hơn một trăm năm trước đấy. 

Anh ta không hề tỏ ra lúng túng. Trong các đồ trang sức thừa kế, anh ta nói, cũng thường bị mất những phần quý giá nhất; bị những kẻ ngang ngược trong gia đình thay đổi hoặc bị các thợ kim hoàn lưu manh nào đó hoán đổi, và chỉ khi có ai đó muốn bán mới phát hiện ra sự gian lận.Nhưng xin phép ông mấy phút, anh ta nói và mang toàn bộ đồ trang sức đi vào sau cánh cửa cuối phòng. Một lúc sau quay lại, mời tôi ngồi chờ ở ghế mà không giải thích gì cả và tiếp tục làm việc. 

Tôi quan sát cửa hàng. TRước đây tôi đã cùng mẹ đến đây một vài lần, và vẫn còn nhớ câu nói cửa miệng của bà: Đừng nói với bố nhé. Trong đầu tôi bỗng loé lên một ý nghĩ:Liệu Rosa Cabarcas va Delgadina có thoả thuận bán đ ồ thật và trả lại tôi đồ giả không? 

Khi mối nghi ngờ đốt cháy lòng thì tôi được cô thư ký mời đi theo qua chiếc cửa cuối phòng đến văn phòng nhỏ có dãy tủ đứng to. Một gã khổng lồ ăn mặc lôi thôi đứng bật dậy sau bàn làm việc và nhiệt tình bắt chặt tay tôi, xưng hô thân mật như bạn cũ. Chúng mình đã cùng học trường cấp ba với nhau, ông ta nói thay cho lời chào hỏi. Tôi nhớ ra ngay: Ông ta vốn là cầu thủ bóng đá giỏi nhất trường và là vô địch của những nhà chứa đầu tiên của chúng tôi. Đã khá lâu không gặp lại ông ta và thấy tôi hom hem già cả nên ông ta nhầm với một bạn học từ thuở nhỏ. 

Trên mặt kính bàn làm việc đã mở sẵn một quyển hồ sơ lưu trữ có ghi lại lai lịch các đồ trang sức của mẹ tôi. Một danh mục chính xác với ngày mua và các chi tiết do chính bà đã thay đổi các viên đá quý của hai thế hệ những những người đàn bà đẹp và trọng danh dự của dòng học Cargamantos, và đã bán đồ thật cho chính cửa hàng này. Chuyện này đã xảy ra từ thời người cha của ông chủ hiện nay còn cai quản cửa hàng, còn ông ta và tôi còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng ông ta đã trấn an tôi tôi: Những trò láu cá này vẫn thường xảy ra ở những gia đình lớn khi bị hoạn nạn, họ phải làm để giải quyết một nhu cầu cấp bách mà không phải hy sinh lòng tự trọng và danh tiếng. TRước thực tế phũ phàng, tôi thà giữ tất cả lại như một kỷ niệm về người mẹ Florina de Dios khác mà trước đây mình chưa biết. 

Đầu tháng Bảy, tôi cảm thấy khoảng cách thực sự của cái chết. Trái tim tôi loạn nhịp và tôi bắt đầu nhìn thấy và cảm thấy những điềm dữ cuối cùng ở khắp nơi. Điềm rõ nhất là trong buổi hoà nhạc ở Bảo tàng Mỹ thuật. Hệ thống điều hoà không khí bị hỏng và những người tinh tuý nhất của nền nghệ thuật và văn chương đã bị hấp nóng trong một căn phòng chật cứng người, nhưng điều kỳ diệu của âm nhạc vẫn tạo nên bầu không khí thiên đường. Cuối cùng, khi bản nhạc Allegreto poco mosso bắt đầu cũng là lúc người tôi run bắn lên vì ý tưởng rõ ràng đây là buổi hoà nhạc cuối cùng mà số phận dành cho mình trước khi chết. Tôi không cảm thấy đau đớn và sợ hãi mà chỉ thấy xúc động mãnh liệt vì mình đã được sống với buổi hoà nhạc này. 

Cuối cùng thì tôi, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, cũng mở được lối ra giữa các vòng tay và máy chụp ảnh, và vô tình gặp Ximena Ortiz, trông như một nữ chúa một trăm tuổi trên xe lăn. Bản thân sự có mặt của bà đã như một lời tuyên án trọng tội đối với tôi. Bà vận bộ đồ lụa màu trắng ngà, mềm mại như chính làn da của mình, mang vòng ngọc chính hiệu quấn ba vòng quanh cổ, mái tóc màu xà cừ cắt ngắn đúng mốt những năm hai mươi với một đuôi tóc hình cánh én một bên má, và đôi mắt ánh vàng rạng rỡ dưới vầng thâm quầng tự nhiên ở đuôi mắt. Mọi thú như điều trái ngược với tin đồn là trí não của bà đã trống rỗng vì mất hết trí nhớ. Đứng chết lặng trước bà ta, tôi cố kìm làn hơi lửa đang bốc lên mặt và lặng lẽ cúi chào. Bà ta mỉm cười như một nữ hoàng rồi nắm tay tôi. Tôi chợt nhận ra đây là định mệnh mà mình không thể bỏ qua để có thể gỡ miếng xương bị hóc từ bấy lâu nay. Từ bao năm nay tôi đã mơ tới giây phút này, tôi nói với bà ta. Hình như bà ấy không hiểu. Thật vậy à!, bà ta nói. Thế ông là ai? Tôi không bao giờ biết được lúc đó bà ta thật sự đã quên hay đó là sự trả thù cuối cùng của đời bà. 

Niềm tin là mình có thể chết đến với tôi cũng một dịp như thế này mấy hôm trước sinh nhật thứ năm mươi, vào một đêm hội hoá trang khi tôi đang nhảy điệu tan-gô với một người đàn bà ghê gớm mà tôi chưa bao giờ thấy mặt, béo hơn tôi đến bốn mươi cân Anh1 và cao hơn tôi đến hai tấc, nhưng lại để tôi lôi đi nhẹ nhàng như chiếc lồng chim trước gió. Khi nhảy múa, chúng tôi ôm nhau chặt đến mức tôi cảm thấy cả dòng máu đang chảy trong huyết quản của bà ta. Tôi như bị ru ngủ vì hơi thở nặng nề, mùi hôi nách nồng nặc, cặp vú khổng lồ của bà ta, và lần đầu tiên bị rung động mạnh, tôi như bị ngã bổ chửng vì tiếng hò hét của cái chết. Đó như một lời phán truyền dã man vang ngay bên tai tôi: Bây muốn làm gì thì làm, nhưng trong năm nay hoặc trong một trăm năm nữa bây sẽ chết vĩnh viễn. 

Bà ta giật mình bỏ tôi ra: Cái gì thế? Không có gì đâu, tôi nói với bà ta nhưng cố kìm giữ trái tim mình: 

– Tôi run vì bà. 

Từ hôm đó tôi bắt đầu tính toán cuộc đời không phải bằng từng năm mà mười năm một. Mười năm của tuổi năm mươi có giá trị quyết định bởi vì tôi nhận ra là mọi người đều ít tuổi hơn mình. Mười năm của tuổi sáu mươi rất căng thẳng vì tôi nghĩ rằng mình không còn đủ thời gian để mắc sai lầm nữa. Mười năm của tuổi bảy mươi thật đáng sợ vì nhiều lúc đã tưởng đó là những tháng ngày cuối cùng. Tuy nhiên, khi tỉnh dậy thấy mình còn sống trong buổi sáng đầu tiên của những năm chín mươi tuổi trên giường hạnh phúc với Delgadina, tôi vui vẻ thấy rằng cuộc đời không phải như dòng sông ngầu đục của Heraclite 2, mà là một dịp duy nhất được xoay trên que xiên ngang và tiếp tục được nướng tiếp ở mặt khác trong chín mươi năm nữa. 

Tôi lại trở nên mau nước mắt. Bất cứ tình cảm thương yêu nào cũng làm tôi nghẹn ngào trong cổ họng mà không phải lúc nào cũng nén được, và tôi nghĩ đến chuyện từ bỏ niềm vui đơn độc chăm sóc giấc ngủ của Delgadina không chỉ vì biết mình sắp chết mà còn vì nỗi đau, thương cô bé sẽ sống thiếu mình trong những năm còn lại của đời em. Một trong những ngày bất định đó, tôi đãng trí đi đến đường phố cao quý Notorios và kinh ngạc thấy cái nhà trọ rẻ mạt nơi mà lúc chưa đầy mười hai tuổi, tôi bị cưỡng bức học bài học đầu tiên nghệ thuật làm tình nay chỉ còn là một đống gạch vụn. Thời trước nó đã từng là một căn nhà của một hãng tàu biển lộng lẫy bậc nhất thành phố với những hàng cột đá hoa cương trắng có viền các lá đồng giả vàng, quây quanh một khu vườn có vòm thuỷ tinh bảy màu rạng rỡ như trong nhà kính. Ở tầng trệt, có cửa ra vào kiểu gô-tích là trụ sở trong suốt hơn một thế kỷ của Phòng công chứng thời thuộc địa, cũng chính là nơi suốt cả đời đầy mơ ước hão huyền bố tôi đã làm việc, phát tài phát lộc và rồi phá sản. Các gia đình ngụ cư đầu tiên đã dần dần từ bỏ các tầng trên, nhường chỗ cho đội quân những cô gái làm tiền mạt hạng lên xuống suốt đêm cho đến tận sáng với các khách hàng chộp được ở các quán nhậu bên cảng sông gần đó với cái giá một đồng rưỡi peso. 

Một lần, khi chưa đầy mười hai tuổi, còn mặc quần đùi và giày học trò trường tiểu học, không nén được tò mò xem các tầng trên có gì trong khi bố đang vật lộn với một trong vô vàn cuộc họp bất tận, tôi đã đi lên trên và thấy một quang cảnh thần tiên. Những người đàn bà đã bán rẻ thân xác của mình cho đến tận sáng bạch, đang đi lại trong nhà từ mười giờ trưa dưới cái nóng hầm hập của vòm thuỷ tinh nên đành phải loã thể và luôn miệng hét kể lại những cuộc phiêu lưu đêm hôm trước. Tôi vô cùng sợ hãi. Chỉ còn cách trốn ngay theo lối vừa lên, nhưng ngay lập tức một người đàn bà trần như nhộng, thịt chắc nịch sặc mùi xà phòng rẻ tiền ôm choàng lấy tôi từ phía sau lưng, nhấc bổng lên đưa về buồng ngăn bằng bìa giữa tiếng reo hò và hoan hô cuồng nhiệt của những người đàn bà loã lồ khác đang thuê nhà ở đó. Bà ta đè ngửa tôi xuống chiếc giường dành cho bốn người, cởi quần của tôi với tài khéo léo bậc thầy, rồi nằm lên người tôi, nhưng nỗi sợ hãi chạy lạnh buốt trong người khiến tôi không thể tiếp nhận bà ta trên cương vị người đàn ông. Đêm hôn đó, trên giường ở nhà mình, xấu hổ vì cuộc cưỡng bức buổi sáng, tôi chỉ ngủ được có hơn một tiếng đồng hồ còn thì trằn trọc với niềm khát khao được gặp lại bà ta. Buổi sáng hôm sau, trong khi những kẻ thức khuya còn đang ngủ rốn thì tôi run run trèo lên buồng đánh thức bà ta dậy, vừa khóc to thành tiếng với tình yêu cuồng điên cho đến khi bà ta, không chút thươn g xót, đưa mình đến cửa vào đời thực, Bà ta tên là Castorina và là nữ hoàng của cái nhà đó. 

Cuộc tình trong nhà trọ này giá một đồng đối với những mối tình chớp nhoáng vãng lai, nhưng rất ít người trong chúng tôi biết rằng với giá này cũng có thể kéo dài đến hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Từ đó, Castorina đã dẫn dắt tôi vào cái thế giới chết tiệt nơi bà ta mời các khách hàng nghèo cùng dùng bữa ăn điểm tâm kha khá, cho họ mượn xà phòng, chữa đau răng cho họ, và trong những trường hợp khẩn cấp hơn, còn cho họ một cuộc tình từ thiện. 

Không còn ai nhớ đến Castorina bất tử nữa, vốn đã chết không biết từ lúc nào, nhưng bà ta là một người đàn bà đi lên từ những góc phố khốn cùng ở cảng sông để chiếm giữ ngai vàng thiêng liêng của mẹ thánh lớn nhất, bà ta cũng thường mang miếng vải bịt kiểu cướp biển che một mắt bị mất trong cuộc đánh lộn ở quán nhậu. Tay vệ sĩ cuối cùng của bà ta, một người da đen hạnh phúc sinh ở tỉnh Camaguay, Cuba, được gọi là Jonas, vốn là một trong những nhạc công thổi kèn trompét có tiếng ở thủ đô La Habana cho đến khi bị tai nạn xe lửa mất sạch hàm răng luôn cười rạng rỡ. 

Sau chuyến đi thăm cay đắng đó, tôi cảm thấy tim mình đau nhói mà trong suốt ba ngày không một loại thuốc của thầy lang vườn nào làm dịu bớt. Tôi vội đến khám ông bác sĩ, thành viên một dòng tộc nổi tiếng, cháu nội của người thầy thuốc đã khám cho tôi lúc bốn mươi hai tuổi. Tôi giật mình tưởng gặp lại chính ông thầy thuốc trước đây vì viên bác sĩ cũng già khọm như ông nội ở tuổi bảy mươi với cái đầu sớm bị hói và đôi kính cận dày cộp và với vẻ buồn bã thảm hại. Viên bác sĩ khám tỉ mỉ toàn thân tôi chăm chú cứ y như một thợ kim hoàn. Ông nghe ngực, lưng, xem mạch, phản xạ của đầu gối, đáy mắt, màu của mi dưới. Khi ngơi tay, trong khi tôi thay đổi vị trí nằm trên bàn khám thì ông ta đưa ra những câu hỏi nhanh và mơ hồ khiến tôi không kịp nghĩ câu trả lời. Sau một giờ đồng hồ, ông nhìn tôi và cười sung sướng. Tốt thôi, ông ta nói, tôi tin là mình chẳng có việc gì làm với ông cả. Thế nghĩa là sao? Nghĩa là thể trạng quá tốt so với tuổi của ông. Kỳ lạ thật, tôi nói, ông nội của ông cũng nói câu y như thế này khi tôi bốn mươi hai tuổi, làm như thời gian chưa từng trôi không bằng. Ông gặp ai thì người ta cũng luôn nói như vậy, ông ta nói tiếp, bởi vì bao giờ ông cũng có một tuổi nào đó. Để khiêu khích buộc ông ta nói lời phán quyết đáng sợ, tôi nói: Tuổi vĩnh viễn duy nhất chính là cái chết. Đúng vậy, ông ta nói, nhưng không dễ đến được tuổi ấy với một thể trạng khoẻ mạnh như ông bây giờ. Tôi rất lấy làm tiếc là không thể làm hài lòng ông được. 

Đó là những kỷ niệm rất cao đẹp, nhưng đêm trước ngày sinh, 29 tháng Tám, tôi cảm thấy sức nặng kinh hồn của một thế kỷ đang lặng lẽ chờ mình khi tôi khó nhọc leo lên cầu thang ở nhà. Lúc đó, một lần nữa tôi lại nhìn thấy mẹ, Florina de Dios, trên giường của tôi cũng chính là giường của bà đã dùng cho đến tận khi chết, mẹ lại cầu nguyện cho tôi y như lần cuối cùng tôi gặp bà, hai giờ trước khi bà mất. Tôi lo lắng hiểu việc này có thể là điềm báo hiệu cuối cùng là mình sẽ không qua khỏi tuổi chín mươi nên vội vàng gọi điện thoại yêu cầu Rosa Cabarcas phải đưa ngay cô bé của tôi đến trong đêm nay. Tôi lại gọi bà ta lần nữa vào lúc tám giờ tối và bà ta vẫn nhắc lại là không thể được. Phải làm bằng được, bằng bất cứ giá nào, tôi sợ hãi hét lên và dập máy điện thoại quên cả chào. Nhưng mười lăm phút sau bà ta gọi điện lại: 

– Được rồi, con bé đã ở đây. 

Tôi đến vào lúc mười giờ hai mươi phút, và lật hết những con bài cuối cùng cho Rosa Cabarcas, đó chính là những quyết định của tôi đối với bé gái sau cái kết cục đáng sợ của chính mình. Bà ta cứ nghĩ là tôi vẫn còn ấn tượng về vụ người đàn ông bị đâm chết nên nói đùa: Nếu ông chết thì dứt khoát không phải là ở đây, ông hãy hình dung như vậy. Nhưng tôi lại nói với bà ta: Bà cứ nói chuyến tàu hoả ở cảng Colombia sẽ đè lên người tôi đi, nhưng tôi thừa biết đống sắt vụn đáng thương đó lại không đủ khả năng giết hại ai cả. 

Chuẩn bị sẵn sàng cho đêm đó, tôi nằm ngửa chờ đợi kết cục đau buồn của những giây phút đầu tiên của tuổi chín mươi mốt. Tôi nghe tiếng chuông nhà thờ vọng lại từ nơi xa, cảm thấy hương thơm ngào ngạt của tâm hồn Delgadina ngủ say bên cạnh, nghe thấy tiếng la hét nơi chân trời xa, tiếng khóc thổn thức của ai đó có lẽ đã chết ngay trong phòng này một thế kỷ trước. Tôi liền tắt đèn và với lòng can đảm cuối cùng, tôi lồng các ngón tay mình với các ngón tay cô bé để dắt tay nhau cùng đi. Tôi đếm mười hai tiếng chuông với mười hai giọt lệ cuối cùng của mình cho đến khi gà bắt đầu gáy sáng, và sau đó là những hồi chuông vinh quang, những tràng pháo hoa ngày lễ hội phấn khởi chào mừng tôi đã khoẻ mạnh và an toàn vượt qua tuổi chín mươi. 

Những lời nói đầu tiên của tôi dành cho Rosa Cabarcas: Tôi sẽ mua của bà toàn bộ khu nhà, gồm cửa hàng và vườn tược. Bà ta nói với tôi: Chúng ta hãy làm một cuộc thách đố kiểu người già: ai trong hai ta mà sống sót thì sẽ được hưởng toàn bộ tài sản của người kia, và điều này sẽ được ký kết tại phòng công chứng. Không được, bởi vì nếu tôi chết thì mọi tài sản của tôi phải thuộc về cô bé. Thì cũng như vậy thôi, Rosa Cabarcas nói, tôi sẽ chăm sóc cô bé và sau đó tôi sẽ để lại toàn bộ tài sản, của ông và của tôi, cho nó; tôi có ai khác ở trên đời này nữa đâu. Trong khi đó, chúng ta sẽ sửa lại căn phòng của ông cho thật tươm tất, nhà tắm thật tốt, có điều hoà nhiệt độ, có sách của ông, có âm nhạc của ông. 

– Bà nghĩ rằng cô bé sẽ nhất trí chứ? 

Ái chà, nhà thông thái buồn bã ơi, đúng là ông đã già nhưng không ngu muội – Rosa Cabarcas cười ngặt nghẽo nói – Đứa bé đáng thương đó đang mê muội vì yêu thương ông đấy. 

Tôi đi ra phố ngập tràn ánh nắng và lần đầu tiên tôi nhận ra chính mình ở chân trời xa của thế kỷ thứ nhất của cuộc đời. Căn nhà của tôi, im lặng và hoàn toàn gọn gàng nề nếp, bắt đầu hưởng sắc màu của bình minh hạnh phúc. Damiana hát to dưới bếp và con mèo sống lại cạ đuôi vào giày tôi rồi đi theo tôi đến tận bàn viết. Giấy tờ héo mòn, lọ mực, chiếc bút lông ngỗng của tôi đều đã được sắp xếp gọn gàng trở lại, khi ánh nắng mặt trời lấp lánh giữa hàng cây bàng ngoài công viên và chiếc tàu thủy chạy trên sông chở thư tín vốn bị chậm một tuần vì hạn hán, đã kéo còi ồn ã đi vào cảng. Cuối cùng thì đó chính là đời thực, với trái tim tôi mạnh khỏe nhưng đã bị tuyên án sẽ chết vì tình yêu đẹp đẽ trong cơn hấp hối hạnh phúc vào một ngày nào đó ở tuổi ngoài một trăm của tôi. 

Tháng 5 năm 2004.

——————————–

1 Bốn mươi cân Anh: Khoảng hai mươi kí lô.
2 Heraclite ( khoảng 576 – 480 TCN ): Nhà hiền triết của Hi Lạp cổ đại.

 nguon : vietmessenger.com

29/08/2010

TUỔI SẮT ĐÁ ( AGE OF IRON )- J.M.COETZEE

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 07:20

Dịch giả: Anh Thư

Lời mở đầu

Nguyên tác: Age of iron

Tặng V.H.M.C. (1904-1985).
Z.C. (1912-1988).
N.G.C. (1966-1989).

Ở thành phố Captown, Nam Phi, một bà cụ bị ung thư sắp chết. Bà tên là Curren, một giáo sư văn chương cổ điển. Suốt đời bà phải chống lại sự dối trá tàn ác của chê độ phân biệt chủng tộc, tránh xa những chuyện khủng khiếp. Nhưng đến một lúc bà đành phải cam chịu và chấp nhận cơn điên khùng đã mất hết tính người của chế độ ấy.
Trong một bức thư gởi cho con gái đã bỏ chạy sang Mỹ, bà kể lại những chuyện quái đản xảy ra trong những ngày bà sắp qua đời. Bà đã chứng kiến một vụ đốt cháy thị trấn của người da đen gần nơi bà ở, trong đó bà thấy xác chết đã bị bắn nát của đứa con trai người giúp việc bà trước đây. Một thiếu niên da đen đi hoạt động phải trốn chạy trong nhà bà cũng bị các lực lượng an ninh bắt giết. Những ngày cuối cùng của đời mình, bà chỉ còn biết sống cùng một anh chàng vô gia cư nhưng nát rượu đã tìm đến chỗ bà trú ngụ và bà chỉ còn biết chia xẻ với anh ta những điều uất ức và nỗi thất vọng trong cuộc sống con người.

CHƯƠNG 1

Phía sau nhà để xe có một lối đi nhỏ, chắc con còn nhớ, con và các bạn con thỉnh thoảng vẫn đến đó chơi. Bây giờ chỗ đó hoang vắng, không dùng làm gì, chỉ có gió thổi lá rụng thành đống mục nát.
Hôm qua đi đến cuối đường, mẹ chợt trông thấy một túp nhà bằng hộp giấy, bên ngoài che tấm vải nhựa, bên trong có người đang nằm co, một người mẹ nhận ra đã từng gặp anh ta trên đường phố.  Anh ta cao lớn, gầy guộc, da sần sùi, răng khấp khểnh, mặc bộ đồ màu xám rộng lùng thùng với chiếc mũ đã tuột vành. Anh ta nằm nhưng vẫn đội mũ, vành gấp lại để gối đầu. Một kẻ vô gia cư. Cũng như nhiều kẻ vô gia cư khác, anh ta lang thang ở những nơi đỗ xe trên phố Mill, xin tiền những khách mua hàng, uống nước ở chân cầu, ăn những thứ người ta vứt lại trong đồ hộp. Cứ đến tháng Tám thì những người vô gia cư như anh ta rất khổ, vì đó là tháng mưa. Nằm trong hộp giấy, anh ta duỗi thẳng người ra như con rối, miệng há hốc. Quanh người anh ta xông lên một mùi hôi kinh tởm, mùi nước đái, rượu ngọt, áo quần ẩm mốc, và mùi gì nữa chả biết. Tóm lại là không sạch.
Mẹ đứng nhìn anh ta một lúc, vừa nhìn vừa ngửi. Chính anh ta đích thân tìm đến chỗ mẹ vào những ngày này đây.
Hôm ấy mẹ được tin của bác sĩ Syfret. Tin không tốt, nhưng là tin gửi cho mẹ và của riêng mẹ mà thôi, không thể từ chối được. Mẹ phải nhận và đem về, không dám lắc đầu hay khóc lóc. Mẹ nói “Cám ơn bác sĩ đã thành thật”. Bác sĩ bảo “Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết chuyện này”. Nói thế nhưng sau vẻ  bề ngoài thân thiện ấy mẹ biết ông ta đã thoái thác. Việc ai nấy lo. Ông ta chỉ hết lòng với người còn sống thôi, với người sắp chết thì không.
Bước ra khỏi xe, mẹ đã bắt đầu thấy sợ. Đóng cửa nhà xe lại, mẹ run khắp người, phải cắn chặt răng nắm chặt túi xách để giữ bình tĩnh. Cũng chỉ đến lúc ấy mẹ mới nhìn ra đám hộp giấy và anh ta.
–         Anh làm gì ở đây thế? – mẹ nói giọng hơi gắt – không ở đây được đâu. Anh phải đi đi.
Anh ta không động đậy, vẫn nằm nguyên trong hộp, giương mắt nhìn không hiểu sao ở đây lại có đôi tất mới, áo choàng xanh, váy loà xoà, mớ tóc bạc xén thành vệt đỏ hỏn ở da đầu một bà già, trông như trẻ con vậy.
Anh ta rụt chân lại, từ từ ngồi dậy. Không nói một lời, anh ta quay lưng về phía mẹ, rũ miếng vải nhựa đen, rồi gập đôi, gập bốn, gập tám. Anh ta lấy ra chiếc túi (in chữ HÀNG KHÔNG CANADA) và kéo khóa đóng lại. Mẹ đứng sang bên. Anh ta đứng dậy, đi qua mặt mẹ, bỏ lại đống hộp giấy, cái chai không và mùi nước đái. Quần trễ xuống, anh ta xắn lên. Mẹ chờ cho anh ta đi hẳn, còn nghe thấy tiếng anh ta bỏ miếng vải nhựa bên kia hàng rào.
Vậy là chỉ trong một giờ đã có hai chuyện, cái tin mẹ đã sợ từ lâu, và anh ta đến như để do thám, chả biết sẽ báo trước điều gì. Tin đám cú vọ ăn xác thối đến rất nhanh. Mẹ không biết có thể tránh mặt chúng được bao lâu nữa. Bọn chuyên sục sạo ở Cap Town không hề bớt một tên nào. Chúng đi chân đất mà không lạnh, ngủ ngoài trời mà không đau ốm, đói khát mà không hao mòn. Chúng được rượu hâm nóng từ bên trong. Lửa rượu thiêu cháy những gì là truyền nhiễm lây lan trong máu chúng. Sau bữa tiệc chúng vét sạch. Bọn ruồi nhặng bay tứ tung, mắt thao láo, không biết thế nào là thương xót. Những kẻ thừa kế đấy.
Mẹ đi rất chậm vào ngôi nhà trống. Mọi âm hưởng trong nhà đã tan biến hết. Bước chân của mẹ trên sàn nghe nhạt nhẽo buồn tẻ. Mẹ thèm khát được thấy con ở đây biết chừng nào. Để con ôm mẹ, an ủi mẹ! Mẹ đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa thật sự của ôm ấp. Ôm ấp để được ôm ấp. Ôm ấp để  cho con cháu được nằm trong vòng tay của tương lai, để được sống sau khi chết, để có được niềm vui. Mỗi khi ôm con, mẹ đều nghĩ thế. Con trẻ sinh ra để có mẹ. Sự thật là từ nay cho đến khi kết thúc cuộc đời, mẹ chỉ biết nói với con thế thôi. Mẹ mong con biết chừng nào! Mẹ ước gì có thể đi lên gác, đến chỗ con, ngồi ở giường con, vuốt tóc con, thầm nói vào tai con như mẹ vẫn nói mỗi sáng trước khi con đi học “Đến giờ rồi, dậy đi con!” Con sẽ quay lại, người con nóng hổi, hơi thở thơm mùi sữa, mẹ bế con và bảo “Hãy ôm chặt mẹ đi nào!” Đó là câu nói thầm kín mẹ chẳng bao giờ nói ra. Nó chỉ có nghĩa là mẹ mong được con đáp lại bằng câu “Mẹ không được buồn, mẹ sẽ không chết, mẹ vẫn sống mãi trong lòng con”.
Sống! Con là cuộc sống của mẹ, mẹ yêu con như yê bản thân của cuộc sống. Mỗi sáng bước ra khỏi nhà, mẹ nhấp nước lên đầu ngón tay giơ cao trước gió. Nghe gió lạnh từ tây bắc thổi đến, từ chỗ con đang ở, mẹ đứng lâu hít thở, tập trung suy nghĩ, hy vọng qua hàng vạn dặm núi sông có hơi thở của con đến với mẹ, đem theo cả mùi sữa còn đọng trên đầu, trên cổ.
Từ nay trở đi, bổn phận của mẹ là phải cưỡng lại ý nghĩ về cái chết. Yêu con, yêu cuộc sống, tha thứ cho cuộc sống, mẹ sẽ ra đi không chút nào ân hận. Mẹ sẽ ôm lấy cái chết của riêng mẹ thôi.
Mẹ viết những dòng này để làm gì nhỉ? Trả lời: mẹ viết cho con nhưng không phải cho con, mà viết cho mẹ, viết cho con trong lòng mẹ. Cả buổi chiều mẹ bận rộn dọn dẹp các ngăn kéo, vứt bỏ những giấy tờ không cần thiết. Chập tối mẹ ra ngoài. Túp lều giấy sau nhà để xe đã được dựng lại như trước, bên ngoài  trùm miếng vải nhựa đen. Người đó vẫn nằm cong queo bên trong. Bên cạnh anh ta là một con chó đang vểnh tai, vẫy đuôi. Con chó lông đen, đốm trắng, chỉ to hơn con chuột một tí.
Mẹ nói “Này, không được đốt lửa ở đây, nghe chưa? Tôi không muốn ai đốt lửa ở đây, cũng không muốn có chuyện rắc rối”.
Anh ta ngồi dậy, xoa chân, mắt nhìn lơ láo như không biết mình đang ở đâu. Mặt anh ta dài như mặt ngựa, da dẻ sần sùi, mắt quẫng thâm, rõ ràng là đôi mắt của người nghiện rượu. Mắt anh ta xanh kỳ lạ, có vẻ như đang đau ốm thật.
Mẹ hỏi “Anh có muốn ăn uống gì không?”
Anh ta theo mẹ vào bếp. Con chó theo sau. Mẹ cắt cho anh ta miếng bánh kẹp thịt. Anh ta cắn miếng bánh nhưng hình như đã quên nhai, đứng dựa lưng vào bậu cửa. Ánh đèn chiếu vào cặp mắt xanh ngơ ngác. Con chó rên ư ử. Lát sau mẹ sốt ruột nhắc “Tôi phải dọn dẹp đây”, rồi bước ra, đóng cửa bếp. Anh ta không nói gì, lẳng lặng bỏ đi. Ra đến góc đường, mẹ thấy anh ta quăng miếng bánh. Con chó nhảy lên đớp.
Vào thời của con làm gì có lắm người vô gia cư như thế này. Bây giờ họ là một phần của đời sống ở đây rồi. Họ có làm gì cho mẹ phải sợ không? Không. Họ chỉ thỉnh thoảng ăn xin, trộm cắp, vứt bẩn, làm ỗn, và say rượu, chẳng có gì ghê gớm. Có sợ là mẹ sợ bọn trẻ miệng còn hôi sữa mà tham lam như cá mập. Có lẽ cánh cửa nhà tù cũng đang đợi chúng. Còn trẻ măng mà sao chúng coi rẻ tuổi niên thiếu, coi rẻ thời buổi kỳ diệu, coi rẻ thời tâm hồn chúng đang độ lớn. Tâm hồn và các bộ phận trong cơ thể chúng như đã tàn tạ, không phát triển. Còn những anh em da trắng của chúng bên kia ranh giới chia cắt cũng thế, mỗi ngày càng chui rúc và ngủ kỹ trong kén. Đâu còn những buổi học bơi, cưỡi ngựa, tập múa ba lê, đánh cầu trên sân cỏ. Cuộc sống của chúng lặng lẽ trôi sau những bức tường rào có chó dữ canh gác bên ngoài. Đâu còn những đứa trẻ đáng yêu tóc vàng, ngây thơ, mặt mày rạng rỡ dịu dàng như các thiên thần. Những gì chưa ra đời cũng bị lãng quên ở ngay nơi chúng sống. Chúng ngây thơ như những ấu trùng, béo trắng, ngâm trong mật để hút ngọt qua làn da mỏng manh. Tâm hồn chúng chết lịm trong thứ hạnh phúc trừu tượng.
Tại sao mẹ lại cho người đó ăn? Nếu con chó đó (có lẽ anh ta ăn cắp con chó ở đâu đó) mẹ cũng cho thế. Như mẹ thường cho con bú vậy. Có để mà cho và cho tất cả những gì mình có, chẳng phải là điều vẫn thôi thúc ta hay sao? Từ thân hình tàn héo như của một người già cũng muốn vắt cạn cho đến giọt sữa cuối cùng. Muốn cho đi. Muốn bồi bổ. Giá thử lúc này anh ta muốn bầu vú của mẹ để đổi lấy cái chết, mẹ cũng sẵn sàng cho được.
Sáng nay lúc đem cà phê đến, mẹ thấy anh ta đái xuống cống. Nhưng anh ta không tỏ ra ngượng ngập.
Mẹ hỏi “Anh muốn làm việc không? Ở đây có nhiều việc cho anh làm đấy”.
Anh ta không nói gì, vẫn uống cà phê, hai tay ôm lấy cái cốc.
Mẹ nói “Thế là anh phí phạm cuộc đời mình. Anh đâu còn là  trẻ con nữa? Anh sống như vậy sao được? Sao anh có thể lang thang suốt ngày mà không làm gì hết? Tôi không thể nào hiểu được”.
Đúng là mẹ không thể nào hiểu được. Mẹ rất ghét cái thói ươn hèn, gặp sao hay vậy, để mình dần dần tan rã.
Anh ta làm cho mẹ rất khó chịu. Lần đầu tiên anh ta nhìn thẳng vào mẹ rồi nhổ xuống đất, ngay cạnh chân mẹ, một bãi đặc quánh vàng khè lẫn màu nâu của cà phê. Rồi anh ta vứt chiếc cốc vào chỗ mẹ và bỏ đi.
Thế đấy. Anh ta không nhổ vào người mẹ, mà nhổ trước mặt để mẹ trông thấy mà suy nghĩ. Cách nói của anh ta thế đấy. Một thứ ngôn ngữ đi trước ngôn ngữ. Nhìn mẹ rồi nhổ. Cái nhìn gì lạ thế nhỉ? Cái nhìn đối với người đàn bà ở vào tuổi có thể làm mẹ anh ta. Đây, cà phê của bà đây!
Đêm qua không thấy anh ta ngủ chỗ cũ. Đống hộp giấy cũng không còn. Mẹ đi quanh chỗ đó bỗng nhìn thấy cái túi Hàng không Cananda ở lán củi, và một chỗ anh ta đã dọn để ngủ. Mẹ biết chắc thế nào anh ta cũng quay lại.
Viết được sáu trang rồi. Toàn viết về một người mẹ chưa gặp bao giờ và sẽ chẳng bao giờ gặp. Tại sao mẹ viết về anh ta? Vì anh ta cũng là mẹ mà không phải là mẹ. Vì mẹ thấy được mẹ trong cái nhìn của anh ta mà không thể nào viết ra được. Nếu không như vậy, những dòng mẹ viết đây chẳng là thế nào, chỉ là tiếng kêu rên trầm bổng. Viết về con chó của anh ta cũng là viết về mẹ. Viết về ngôi nhà cũng là viết về mẹ. Anh ta, ngôi nhà, con chó, dù viết thế nào mẹ cũng chỉ muốn những lời này giúp mẹ bước được tay đến chỗ con. Nếu là ở thế giới khác, mẹ chả cần đến những lời đó. Mẹ chỉ việc xuất hiện ở cửa nhà con và bảo “Mẹ đến thăm con đây”, thế là đủ. Mẹ sẽ ôm con và được con ôm mẹ. Nhưng ở thế giới này, lúc này, mẹ phải đến với con bằng những lời như vậy. Ngày ngày mẹ biến thành lời và gói nó vào trang giấy như gói kẹo, những chiếc kẹo vẫn dành cho con gái mẹ, cho ngày sinh của con, ngày con ra đời. Đó là những lời ngoài thân thể mẹ, là những giọt sữa của mẹ, để khi mở ra con sẽ nhận lấy, bú lấy, hấp thụ. Người ta bảo đó là những giọt sữa đã quá cũ, của người già, được gói lại bằng tình yêu, thứ tình yêu chỉ cảm thấy đối với người ta hiến dâng, để được ngấu nghiến hoặc vứt bỏ.
Mưa tầm tã suốt buổi chiều. Tối đến mới nghe tiếng lạch cạch ngoài cổng, và một phút sau có tiếng chân con chó chạy trên hiên.
Mẹ đang coi ti vi. Một vị mục sư hay phó mục sư nào đó đang thông báo cho cả nước. Mẹ đứng nghe. Mỗi khi họ nói mẹ đều đứng nghe để tỏ ra tự trọng (trước một tiểu đội hành quyết, ai mà dám ngồi?). Ons buig nie voor dreigmente nie, ý ông ta nói “Chúng ta không khuất phục sự đe doạ”. Trước sau các bài diễn văn của họ chỉ có thế.
Cánh màn sau lưng mở ra. Mẹ biết đó là anh ta, một người mẹ không biết tên. Anh ta nhìn thấy mẹ qua tấm gương. Mẹ vặn nhỏ tiếng đủ nghe, dù không nghe rõ lời cũng nghe được những tiết tấu Phi châu nện huỳnh huỵch xuống đất như tiếng búa. Anh ta với mẹ cùng nghe. Nỗi nhục của cuộc sống ở đây, dưới quyền họ, là mỗi khi mở tờ báo hay mở ti vi chẳng khác nào như quỳ xuống để họ đái lên mình. Sống dưới quyền họ là sống dưới những bụng phệ, những bọng đái của họ. Đã có lúc mẹ nhủ thầm “”Các người sắp đến ngày tận số rồi!”. Vậy mà đến tận bây giờ họ vẫn còn sống nhăn, sống lâu hơn mẹ.
Mẹ chuẩn bị đi mua hàng. Vừa mở cửa nhà xe thì mẹ lên cơn đau. Cơn đau giống như một con chó nhảy đến cắn vào lưng. Mẹ kêu lên, không cử động được nữa. Anh ta ở đâu xuất hiện và đưa mẹ vào nhà.
Mẹ nằm nghiêng trên ghế dài. Phải nằm nghiêng như thế mới đỡ đau. Anh ta đứng chờ. Mẹ bảo “Anh ngồi xuống đi…” Anh ta ngồi xuống. Cơn đau bắt đầu giảm. Mẹ nói “Tôi bị ung thư. Bệnh đã ăn vào xương tuỷ nên mới đau thế”.
Không chắc anh ta hiểu mẹ nói gì.
Im lặng một lúc. Rồi anh ta lên tiếng “Nhà này rộng lắm. Bà có thể cho ở trọ được đấy”.
Mẹ làm ra vẻ mệt mỏi.
Anh ta nói tiếp “Bà có thể cho sinh viên thuê phòng”.
Mẹ ngáp, tưởng như răng sắp rụng hết, phải đưa tay che miệng. Nếu là trước kia thì mẹ đã thấy ngượng. Bây giờ mẹ không ngượng nữa.
Mẹ nói “Tôi có một cô giúp việc. Cô ta đi thăm bà con đến cuối tháng mới về. Anh có bà con gì không?”
Nói lạ! Có bà con là thế nào? Tôi có bà con không? Anh có phải là bà con của tôi không? Không đâu. Có lẽ chỉ Florence mới đủ tư cách để nói cô ta có bà con.
Anh ta không đáp. Có vẻ như anh ta không có con, không có con ở đời này, mà cũng không có cả tuổi trẻ trong quá khứ nữa. Mặt anh ta xương xẩu, da sần sùi. Nếu nhìn vào đầu con rắn không thể hình dung nó già hay trẻ, thì cũng không thể thấy được bóng dáng một đứa trẻ đàng sau khuôn mặt anh ta. Mắt anh ta xanh lè như mắt động vật, đâu có thể nhìn vào đôi mắt ấy mà thấy được đứa trẻ?
Mẹ nói “Chồng tôi với tôi đã chia tay từ lâu. Ông ấy đã mất. Tôi có đứa con gái ở Mỹ. Nó ra đi năm 1976, đến nay vẫn chưa về. Nó lấy một anh chồng Mỹ. Sanh được hai cháu”.
Con gái mẹ. Con là da thịt của da thịt mẹ. Chính con đấy.
Anh ta rút bao thuốc lá. Mẹ nói “Xin đừng hút thuốc trong nhà”.
Mẹ lại nói “Anh tàn tật thế nào? Anh bảo là có phụ cấp tàn tật hả?”
Anh ta giơ bàn tay phải. Ngón cái và ngón trỏ duỗi ra, ba ngón kia cụp trong lòng bàn tay. Anh ta nói “Mấy ngón này không cử động được”.
Mẹ nhìn ba ngón cụp, móng tay đầy những ghét bẩn, bàn tay sần sùi, rõ ràng không phải do lao động.
–         Có phải do tai nạn không?
Anh ta gật. Cái gật chẳng nói lên điều gì.
Mẹ nói “Tôi sẽ thuê anh cắt cỏ”.
Suốt một giờ, anh ta thờ thẫn đem kéo ra cắt lá ở hàng rào và mấy đám cỏ đã mọc ngang đầu gối. Rồi anh ta bỏ đó. Anh ta nói “Loại việc này không phải của tôi”. Mẹ trả tiền một giờ làm cho anh ta. Lúc bỏ đi anh ta vấp chân vào khay thức ăn của mèo, làm vung vãi khắp nơi.
Nói chung anh ta chẳng được việc gì, chỉ làm phiền. Nhưng mẹ có chọn anh ta đâu. Anh ta tự đến đó thôi. Hoặc giả anh ta chọn nhà nào không có chó. Nhà này chỉ có mèo.
Có người lạ nên đám mèo nhốn nháo. Chúng vừa thò ra thì đã bị chó nhảy đến vồ, phải trốn đàng sau cửa. Hôm nay mèo không chịu ăn. Mẹ đoán chúng không ưa thức ăn để trong tủ lạnh. Mẹ pha ít nước nóng vào thịt. (Chả biết thịt gì, hải cẩu hay cá voi?) Chúng vẫn chăm chỉ lượn quanh, quệt đuôi vào đĩa. Mẹ bảo “Ăn đi!” và đẩy đĩa thức ăn đến. Con to giơ chân và không thèm đụng vào đĩa. Mẹ bực mình quát “Không ăn thì cút đi! Mệt với chúng mày lắm!” rồi mẹ ném cái dĩa vào chúng. Có điều lạ là tiếng quát vừa rồi khiến mẹ thấy thú vị. Tốt với người như thế đủ rồi! Tốt với mèo như thế cũng đủ rồi! Mẹ lại hét “Chúng mày chết hết cả đi!” Đám mèo bỏ chạy. Móng chân của chúng cào rách cả thảm nhựa.
Ai cần gì chứ? Khi có tâm trạng ấy mẹ chỉ muốn đặt tay lên bàn và lấy dao chặt đứt, không cần suy nghĩ. Mẹ cần gì cái thân thể đã phản bội mình? Nhìn bàn tay, nhìn quanh tìm dụng cụ, nhưng mẹ chỉ thấy cái móc dùng khều đồ vật. Cả đôi chân này, cả đôi nạng xa xa này, việc gì phải mang chúng đi khắp nơi? Việc gì phải mang chúng vào giường, để dưới chăn, ôm lấy nhau mà không ngủ được giữa bao nhiêu thứ bề bộn chung quanh? Rồi cái bụng này nữa, sao cứ sôi ùng ục? Rồi con tim này nữa, sao cứ đập hoài? Chúng còn liên quan gì đến mẹ nữa?
Trước khi chết, ốm đau là để cho cơ thể thích ứng dần với sự héo hắt. Dòng sữa nuôi nấng ta cạn dần, chua loét, xa rời bộ ngực và ta bắt đầu lắng chìm trong cuộc sống khác. Nhưng cuộc sống ban đầu này, cuộc sống trên cơ thể trái đất này, liệu có thể tốt hơn được không? Mặc dù bao nhiêu tăm tối, thất  vọng, điên khùng, mẹ vẫn không thể nào từ bỏ tình yêu đối với cuộc sống.

Lúc đau mẹ uống hai viên thuốc của bác sĩ Syfret rồi nằm trên ghế dài. Vài giờ sau mẹ tỉnh dậy, ngơ ngác, người lạnh toát, mẹ lần mò lên gác rồi để nguyên quần áo chui vào giường.
Nửa đêm mẹ chợt thấy hình như có ai trong phòng. Nhưng đoán chỉ có thể là anh ta. Anh ta hoặc mùi của anh ta, xuất hiện rồi biến mất.
Có tiếng cạch ở đầu cầu thang. Mẹ đoán anh ta vào phòng đọc sách, bật đèn. Mẹ cố nghĩ xem trên bàn có giấy tờ gì cần phải giấu đi không nhưng đầu óc lơ mơ không nghĩ gì được. Anh ta xem các kệ sách. Mẹ đóan anh ta sắp xếp lại cho gọn với đống báo cũ. Rồi anh ta ngắm những bức tranh trên tường. Tranh Sophie Schliemann ở kho tàng Agamemnon, tranh Demeter lấy cắp ở bảo tàng Anh. Rồi anh ta khẽ rút ngăn kéo bàn. Ngăn trên toàn những thư từ, biên lai, tem cũ và ảnh. Anh ta không quan tâm. Ngăn dưới có hộp xì gà đựng tiền lẻ các loại. Anh ta thò ngón tay cong queo lấy ra hai đồng năm peseta, đủ để đổi sang tiền rand, nhét vào túi.
Anh ta không phải là thiên thần. Chỉ như loại côn trùng nấp trong khe tường, chờ lúc tối đèn bò ra sục sạo.
Nghe anh ta ra đầu cầu thang, khẽ mở hai lần khoá. Mẹ muốn nói thầm cho anh ta nghe: anh chỉ là đồ rác rưởi, chỉ là thứ ký ức đã chết yểu, nhưng lúc ấy đầu của mẹ mụ đi, chẳng còn biết gì nữa.

Mẹ nằm cả ngày trên giường. Chẳng muốn làm gì, chẳng muốn ăn gì. mẹ đọc Tolstoy, không phải đọc chuyện nổi tiếng vê ung thư đâu, vì mẹ đã quá biết rồi, nhưng đọc chuyện về một thiên thần đến ở chung với anh thợ giày. Giả thử có cơ hội, mẹ sẽ đi bộ xuống phố Mill ti1m thiên thần riêng đem về nhà giúp mẹ được đấy. Nhưng không có đâu. May ra vùng ngoại ô có thiên thần nào đó ngồi hong nắng ngủ gật trên cột cây số, chờ cơ hội. Có lẽ ở trại những người thất nghiệp chứ ở phố Mill hay ngoại ô đều không có. Các thiên thần đã bỏ vùng ngoại ô mà đi cả rồi. Mỗi khi có người lạ ăn mặc rách rưới đến gỗ cửa thì đó chỉ là kẻ vô gia cư, một anh nghiện rượu , hay một tâm hồn lảng vảng nào thôi. Thế mà sao lòng ta vẫn thèm muốn được thấy ngôi nhà yên tĩnh rung lên cùng tiếng hát thiên thần như trong truyện cổ tích vậy.
Ngôi nhà đã mệt vì chờ đợi, đã chán không muốn gắn vào nhau nữa. Ván sàn đã không còn rung nữa. Dây điện cách ly đã khô cứng, dễ gẫy, các ống nước han rỉ. Ốc vít ở ống máng đã rời ra, tuột khỏi gỗ mục. Mái ngói đầy rêu. Ngôi nhà xây tử tế nhưng không có tình yêu, bây giờ lạnh lẽo, chây ì, sắp chết. Những bức tường tuy đã được mặt trời châu Phi chiếu rọi nhưng không bao giờ ấm lên được, dù những viên gạch được bàn tay của các phạm nhân xây nên đã luôn luôn toả sáng.
Hè năm ngoái, khi đám thợ đến lắp cống, mẹ thấy họ moi ra những ống cũ. Họ chui xuống hai thước, nhặt những gạch vỡ và sắt rỉ, cả móng ngựa nữa, nhưng không thấy có xương người. Công trường này chưa hề có bóng người, chỉ là chỗ của hồn ma và các thiên thần, chẳng có gì thú vị.
Mẹ viết thư này không phải để bộc lộ những gì trong lòng mẹ. Nó bộc lộ điều gì đó, nhưng không phải là trái tim của mẹ.

Sáng nay xe không nổ máy, mẹ phải yêu cầu anh ta, người đến ở nhờ, ra đẩy giúp. Mẹ ngồi trong, anh ta đẩy xe ra lối đi. Rồi anh ta đập tay vào mui xe hét to “Đi được rồi!” Máy nổ. Mẹ quay xe ra đường cái. Được một quãng, mẹ dừng lại nói với anh ta qua làn khói “Tôi phải đi Fish Hoek. Anh muốn đi không?”
Thế là hai người cùng đi, con chó ngồi ghế sau, ngồi chiếc xe Hillman màu xanh từ thời con còn nhỏ. Đã một lúc lâu mà hai người không nói câu nào. Xe chạy qua bệnh viện, trường Đại học, toà Giám mục. Con chó gác đầu lên vai mẹ hứng gió thổi vào mặt. Xe leo lên đồi Wynberg. Bên kia đồi là một con dốc dài, mẹ tắt máy cho xe tự lăn dọc bờ biển. Càng lăn nhanh, tay lái càng rung bần bật. Con chó khoái chí rên ư ử. Hình như lúc đó mẹ cũng mỉm cười, có lẽ nhắm mắt nữa.
Xuống đến chân đồi, xe chậm dần. Mẹ liếc nhìn anh ta. Anh ta vẫn ngồi im, thản nhiên. Khá đấy! Mẹ nghĩ bụng.
Mẹ nói “Hồi còn nhỏ, tôi thường nhảy xe đạp không phanh xuống cái dốc này. Xe đạp của ông nội tôi. Ông ấy hay đố tôi làm thế. Tôi chả biết sợ là gì. Trẻ con không quan niệm chết là thế  nào. Chẳng bao giờ chùng nghĩ rằng có lẽ mình không chết.
“Tôi thường nhảy xe đạp của ông anh đi xuống những dốc cao hơn thế này. Càng nhanh càng thấy khoái, cảm thấy như sự sống bung ra ngoài da thịt. Con bướm khi mới ra đời chắc cũng cảm thấy như vậy”.
với chiếc xe cũ kỹ này, ta vẫn có thể thoải mái và tự lăn dọc bờ biển. Nếu là xe mới, hễ tắt máy thì tay lái bị khóa lại. Hẳn anh cũng biết thế. Nhưng đôi khi người ta sai lầm hoặc quên đi, không để xe bám đường, thế là xe quay ngang và lao xuống biển.
Lao xuống biển. Vật lộn sau tay lái bị khóa chặt, trong khi ta cố ngoi lên nhìn bong bóng lấp lánh ánh mặt trời. Điều đó xảy ra không? Có nhiều người làm thế không? Nếu ta đứng trên đỉnh Chapman vào buổi chiều thứ bảy có thể thấy cảnh người ta lao xe xuống biển như thế được không?
Mẹ nói tiếp “Có một chuyện tôi muốn kể anh nghe. Hồi còn nhỏ, vào những năm đầu thế kỷ, gia đình tôi thường ra biển vào những ngày lễ Giáng sinh. Đó là thời của xe bò. Người ta đi xe bò suốt từ Uniondale ở miền Đông đến vịnh Plettenberg ở cửa sông Piesangs, đi hàng trăm dặm mà không biết phải mất bao nhiêu ngày. Người ta cắm lều nghỉ lại bên đường.
Một trong những chỗ dừng chân là đỉnh đèo. Ông bà tôi ngủ trong xe, mẹ tôi và các con nằm gầm xe. Chuyện là như thế này: trong đêm vắng trên đỉnh đèo, mẹ tôi chui vào chăn cùng các anh chị tôi, ngắm nhìn các ngôi sao trên trời qua khe bánh xe bò. Lúc ngắm nhìn, mẹ tôi tưởng các ngôi sao di chuyển. Không biết là các ngôi sao di chuyển hay bánh xe di chuyển, từ từ, rất chậm. Mẹ tôi nghĩ: làm thế nào bây giờ? Nếu xe di chuyển thì sao đây? Có nên báo cho mọi người biết không? Nếu cứ nằm yên để xe lăn xuống chân núi mà ông bà lại nằm trong đó thì sao? Nhưng nếu chỉ là tưởng tượng thế thôi, thì sao?
“Mẹ tôi sợ hãi, tim đập thình thình, nhìn sao di chuyển, nghĩ bụng không biết có nên gọi ai không. Nghe tiếng xe cọt kẹt, mẹ tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, trong giấc ngủ toàn mơ thấy chết. Đến sáng mẹ tôi tỉnh dậy thấy mọi thứ vẫn bình thường. Xe vẫn còn đó, ông bà vẫn còn đó, ai nấy khoẻ mạnh, chẳng có chuyện gì hết”.
Đã đến lúc anh ta phải nói gì đi chứ, hoặc nói về đồi núi, về xe hơi, xe đạp, về bản thân hoặc tuổi nhỏ. Nhưng anh ta vẫn lầm lì, im lặng.
Mẹ lại nói tiếp “Mẹ tôi không nói lại cho ai biết về những gì bà nghĩ đêm trước. Có lẽ mẹ tôi chờ đến khi đẻ tôi mới nói chăng. Tôi nghe bà kể lại nhiều lần bằng nhiều cách. Gia đình vẫn đi tiếp đến sông Piesangs. Ôi cái tên sao mà rực rỡ và đáng yêu thế! Tôi chắc đó phải là nơi đẹp nhất trần gian. Mấy năm sau khi mẹ tôi qua đời, tôi đến thăm vịnh Plettenberg và lần đầu trông thấy sông Piesangs. Không phải sông, chỉ là một lạch nước đầy rong rêu, tối đến đầy muỗi, một nơi để các đoàn người dừng chân, để trẻ con hò hét, để những người lớn đi chân đất mặc quần cụt mang bếp ga nướng xúc xích. Chẳng phải Thiên đường một tí nào. Cũng chẳng phải chỗ để hàng năm người ta đến chơi sau bao nhiêu ngày trèo đèo lội suối”.
Lúc này xe đã leo lên đường Boyes. Thật y như nhân vật Rocimante trong truyện, muốn cũng không làm được gì vì đã già yếu. Mẹ nắm chặt tay lái, cố thúc cho xe đi tới.
Lên đến Muizenberg, nhìn xuống vịnh Giả Tạo, mẹ dừng xe tắt máy. Con chó lại rên ư ử. Mẹ cho nó ra ngoài. Nó ngửi đống đá, bụi cây, rồi co chân đái. Mẹ và anh ta đứng nhìn, không nói gì.
Anh ta đã lên tiếng. Anh ta nói “Bà đi nhầm đường đấy. Lẽ ra phải xuống chân đồi”.
Mẹ cố tỏ ra không buồn nản. Xưa nay mẹ chỉ mong mọi người cho mẹ là tài giỏi. Bây giờ mới thấy mình bất tài hơn bao giờ.
Mẹ hỏi “Anh từ vùng Mũi đến đây à?”
“Phải”.
“Anh sống cả đời ở đó ư?”
Anh ta có vẻ khó chịu. Mẹ hỏi hai câu thế là quá nhiều.
Một con sóng to, dài hơn trăm thước, đang cuộn vào bờ. Một người lom khom lướt ván trên ngọn sóng. Bên kia vịnh, dãy núi Hottentots Hà Lan đứng sừng sững trên nền trời xanh trong. Có lẽ mắt mẹ thèm khát cảnh vật nên thấy thế. Biển. Núi. Mẹ muốn những hình ảnh biển và núi chôn sâu trong lòng để đi đâu cũng thấy. Sao mẹ có thể thèm khát tình yêu đối với cuộc sống này đến thế.
Đàn chim sẻ đến đậu trên bụi cây gần chỗ mẹ đứng. Chúng rỉa lông rồi bay đi. Người lướt ván khi nãy đã vào bờ, đi trên bãi  cát. Bỗng mẹ rướm lệ. Mẹ tự hỏi hay do mình chớp mắt. Sự thật là mẹ khóc. Mẹ gục đầu vào tay lái, chỉ hơi nức nở, rồi oà lên khóc như muốn trút hết mọi thứ trong tim trong phổi. “Xin lỗi”, rồi mẹ bình tĩnh nói tiếp “Xin lỗi, tôi chả hiểu tại sao mình lại thế”.
Lẽ ra mẹ không cần xin lỗi. Anh ta đâu có để ý chuyện đó.
Mẹ lau mắt, khịt mũi rồi bảo “Ta đi chứ?”
Anh ta mở cửa xe huýt một tiếng sáo. Con chó nhảy vào xe. Con chó biết nghe lời. Chắc anh ta lấy cắp con chó ở một gia đình tử tế.
Đúng là xe đi nhầm đường.
Anh ta bảo “Quay ngược lại”.
Mẹ thả phanh tay, lùi một quãng rồi rú ga. Xe rung lên rồi đứng lại. Mẹ bảo “Xe này chưa bao giờ đi lùi”.
Anh ta chỉ tay, lên giọng như anh chồng dạy vợ lái xe “Quay sang bên kia đường”.
Mẹ cho xe chạy một quãng xuống chân đồi, rồi sang bên kia đường. Bỗng một tiếng còi réo lên, chiếc xe Mercedes màu trắng vụt qua bên cạnh. Mẹ há hốc miệng “Tôi không trông thấy”.
–         Đi đi! – anh ta quát.
Mẹ ngạc nhiên nhìn anh chàng người lạ quát tháo. Anh ta vẫn nhìn mẹ quát nữa “Đi đi!”
Máy nổ. Mẹ im lặng quay xe lại. Đến góc phố Mill, anh ta đòi xuống.
Giày và chân anh ta bốc lên một mùi hôi thối. Phải có bít tất mới, có giày mới cho anh ta. Phải cho anh ta tắm rửa nữa. Mỗi ngày anh ta phải tắm, phải thay đồ lót, phải có giường nằm, phải có một mái nhà, phải ăn ba bữa và phải có tiền ở ngân hàng nữa. Phải cho anh ta quá nhiều. Như thế là quá nhiều đối với người đang thèm chui vào lòng mẹ để tìm an ủi.
Cuối buổi chiều anh ta mới quay lại. Mẹ cố quên đi những gì xẩy ra, đưa anh ta vào vườn và chỉ cho anh ta thấy những việc cần làm. Mẹ nói “Thí dụ anh có thể tỉa lá. Anh có biết tỉa lá không?”
Anh ta lắc đầu. Không, anh ta không biết. Hoặc không muốn.
Ở góc vườn, chỗ cây rậm rạp, dây leo phủ kín chiếc ghế cũ bằng gỗ sồi và cái chuồng thỏ. Mẹ nói “Phải dọn sạch chỗ này đi”.
Anh ta nhấc đám dây leo. Chuồng thỏ nằm trên nền đất, bên trong có một đống xương khô, kể cả bộ xương của thỏ con, cổ bị bẻ gẫy.
Mẹ nói “Đám thỏ này của con trai người giúp việc cho tôi. Tôi cho nó nuôi chơi. Rồi nó chuyển đi nơi khác. Còn đám thỏ này chết đói. Lúc ấy tôi nằm viện, chả biết gì hết. Về đến nhà tôi thất vọng thấy chẳng ai đoái hoài gì đến tình trạng ở góc vườn. Đám sinh vật này không biết nói, cũng chả biết kêu khóc”.
Những quả ổi rụng khắp mặt đất, đầy sâu bọ, chất thành một đống bầy nhầy ở gốc cây. Mẹ bảo “Tôi chỉ ước chi cây đừng có quả, thể mà nó vẫn có quả”.
Con chó chạy đến chõ mũi vào chuồng ngửi. Thỏ chết lâu rồi, không còn mùi gì nữa.
Mẹ bảo “Anh có thể làm được gì cứ làm, miễn là chỗ này không hoang vắng nữa”.
Anh ta hỏi “Tại sao thế?”
Mẹ đáp “Thì tôi thích thế. Tôi không muốn chỗ này bẩn thỉu”.
Anh ta nhún vai, mỉm cười.
Mẹ nói “Nếu anh muốn có tiền thì phải làm. Chẳng lẽ anh muốn tôi cho không hay sao?”
Phần thời gian còn lại của buổi chiều, anh ta dọn đống dây leo và đám cỏ, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn ra xa làm như không biết mẹ đứng trên gác nhìn xuống. Đến năm giờ, mẹ trả tiền cho anh ta. Mẹ nói “Tôi biết anh không phải dân làm vườn. Tôi cũng chả muốn biến anh thành người khác. Nhưng chúng ta không thể làm việc theo kiểu từ thiện được”.
Anh ta cầm tiền, gấp lại, bỏ vào túi, quay mặt về phía khác để khỏi nhìn mẹ. Rồi anh ta khẽ hỏi “Tại sao thế?”
“Vì không đáng phải đối xử với anh như vậy”.
Anh ta vẫn mỉm cười. Cười một mình. “Đáng gì? Ai đáng gì đâu?”
Ai đáng gì đâu? Mẹ tức giận, ném túi tiền vào anh ta. “Vậy thì anh tin vào điều gì? Chỉ cần những gì anh muốn ư? Thôi, cầm lấy đi!”
Anh ta lẳng lặng cầm lấy túi tiền, dốc ra ba chục rand và một ít xu lẻ, rồi trả lại túi. Rồi anh ta bỏ đi, con chó chạy theo sau. Khoảng nửa giờ sau anh ta quay lại. Lúc đó mẹ đã nghe thấy tiếng lanh canh chai lọ.
Anh ta tìm được chiếc đệm, loại đệm gấp thường đem ra bãi biển. Trong cái tổ bụi bặm giữa đống củi, anh ta thắp nến để đầu giường, nằm hút thuốc, con chó ngồi dưới chân.
Mẹ nói “Trả lại tiền cho tôi”.
Anh ta thọc tay vào túi, rút ra mấy tờ giấy bạc. Mẹ cầm lấy. Không đủ, nhưng không sao.
Mẹ nói: “Khi nào cần tiền, anh cứ hỏi. Tôi không keo kiệt đâu. Anh cũng nên cẩn thận với cây nến. Tôi không muốn xảy ra hoả hoạn”.
Mẹ bước ra ngoài, một phút sau quay lại.
Mẹ nói “Anh bảo tôi nên biến ngôi nhà này thành chỗ trọ cho sinh viên? Thực ra tôi có thể làm hơn thế. Tôi có thể biến nơi này thành chỗ ở của những người ăn xin. Tôi có thể mở hàng cháo, mở quán trọ. Nhưng tôi không làm thế. Tại sao vậy? Vì đất nước này chẳng còn gì là tinh thần từ thiện nữa. Vì những người nhặt từ thiện cũng khinh rẻ nó, còn những người cho thì cho với trái tim miễn cưỡng. Từ thiện mà không đi từ trái tim đến trái tim thì có nghĩa gì? Anh tưởng từ thiện là thế nào? Cháo ư? Tiền ư? Từ thiện là từ la tinh chỉ trái tim. Nhận hay cho đều khó như nhau. Phải cố gắng lắm mới được. Mong anh học được điều ấy. Mong anh học được điều gì đó chứ không nằm khàn thế này”.
Mẹ nói dối đấy thôi. Từ thiện, caritas, chẳng liên quan gì đến trái tim hết. Nhưng nếu những điều mẹ cầu nguyên đều dựa trên từ nguyên giả dối thì có sao? Hình như anh ta không nghe mẹ nói gì. Có lẽ với đôi mắt lanh lẹn ấy, anh ta băn khoăn về rượu hơn mẹ tưởng. Hoặc anh ta chẳng quan tâm đến gì hết. quan tâm là cái gốc đích thực của từ thiện. Mẹ chờ cho anh ta quan tâm, nhưng anh ta không hề quan tâm. Anh ta đã ở ngoài phạm vi của sự quan tâm, không cần quan tâm đến cái gì hết.

Cuộc sống ở đất nước này chẳng khác gì cuộc sống trên con tàu sắp chìm, một con tàu cũ kỹ mà thuyền trưởng thì say bét nhè, thuyền viên thì cáu gắt, phao cứu hộ thì thủng, vì thế mẹ phải luôn để chiếc đài sóng ngắn ở cạnh giường. Phần lớn thời gian dài chỉ nói để mà nghe, nhưng đến đêm, nếu chịu khó tìm sẽ thấy những đài phát âm nhạc. Đêm qua mẹ nghe đi nghe lại một đài không biết ở đâu phát. Helsinki? Đảo Cook? Họ phát quốc thiều các nước, nhạc hay tuyệt trần, thứ nhạc đã bỏ ta mà đi từ nhiều năm nay, nay trở lại như đến từ các ngôi sao đã đổi dạng, nghe dịu dàng, chứng tỏ những gì ta cho đi sẽ có ngày trở lại, bao bọc quanh ta trong một vũ trụ khép kín, tròn như quả trứng.
Mẹ nằm trong đêm tối, nghe nhạc từ các vì sao dội đến, nghe tiếng lào xạo, ù ù, như bụi sao băng, mẹ mỉm cười, lòng rộn ràng cảm tạ những tin tốt lành từ xa xăm gởi đến. Mẹ nghĩ chỉ có một ranh giới không thể khép lại được, đó là ranh giới trên kia, giữa nước Cộng hoà Nam Phi và lãnh địa của bầu trời, nơi mẹ phải tìm đến, mà không cần có hộ chiếu.
Bị tiếng nhạc quyến rũ (mẹ nghĩ có lẽ đó là của Backhausen), chiều nay mẹ ngồi vào đàn piano chơi vài bản cũ, những khúc dạo clavier của Bach, của Chopin, của Brahms, những bản  của Novello và Angener bị mối xông rách tả tơi, gần thành bụi. Mẹ chơi tồi hơn bao giờ, đọc nhầm những hợp âm như cách đây nửa thế kỷ, ngón tay lập cập vì bệnh đã vào xương tuỷ, không chữa được nữa. (Mẹ nhớ đến những khúc xương được các nhà khảo cổ ca tụng, xương có bệnh hoặc bị đầu tên bắn vỡ, những khúc xương được lịch sử ghi lại từ thời chưa có lịch sử).
Rồi sau khi đã mệt với sự ngọt ngào của nhạc Brahms, mẹ nhắm mắt đánh hợp âm, ngón tay rờ rẫm tìm hợp âm quen thuộc, những chỗ ngày xưa gọi là hợp âm chết, hợp âm của lòng mình. (Đây là mẹ nói về mẹ thời trước thời của con, đi qua phố vào chiều thứ Bảy nóng nực, nghe trong ngôi nhà trước mặt vọng ra tiếng đàn cô gái đồng trinh mò mẫm tìm những nốt nhạc thèm khát đã bỏ đi tự bao giờ. Đó là những ngày tươi đẹp nhưng buồn thảm, và bí ẩn nữa, những ngày còn thơ ngây.)
“Jerusalem!” Mẹ khẽ hát lên, đánh vào hợp âm ngày xưa mẹ từng nghe khi ngồi dưới chân bà ngoại. “Người đã xây dựng Jerusalem ở nơi đây chăng?”
Cuối cùng mẹ lại quay về với Bach, vụng về đánh lại bài fuga ở Quyển Một. Âm thanh rồi rắm, dòng nhạc mờ ảo, nhưng qua vài nhịp thì âm nhạc đích thực lại xuất hiện, thứ nhạc không bao giờ chết, rất tin tưởng và trong sáng.
Mẹ chỉ chơi để mẹ nghe thôi. Chợt phím đàn cạch một tiếng, có bóng người qua cửa sổ, mẹ biết anh ta đang đứng nghe bên ngoài.
Mẹ lại cố chơi nhạc Bach để cho anh ta nghe. Xong nhịp cuối, mẹ đậy đàn lại, để tay lên đùi ngắm bức chân dung ngoài bìa, người có chiếc cằm bạnh mỉm cười mắt long lanh nhìn mẹ. Mẹ nghĩ đó mới thực là chân dung có tinh thần, không giống như chân dung trong miếu thờ! Nay tinh thần ấy đang ở đâu? Đã bay lên tầng cao khí quyển cùng âm hưởng từ bàn tay mẹ mò mẫm chăng? Âm nhạc còn nhảy nhót trong lòng mẹ ư? Hay đã tìm đường đến với con người mặc quần áo xộc xệch đang đứng nghe ngoài cửa kia? Hay trái tim hai người, nơi xuất phát của tình yêu, đã buộc chặt vào nhau qua những hợp âm mẹ vừa dạo trên đàn?
Chuông điện thoại reo. Một bà ở ngôi nhà bên kia đường gọi báo cho biết có một kẻ lang thang đang rình mò bên ngoài. Mẹ đáp “Không phải kẻ lang thang đâu, anh ta giúp việc cho tôi đấy”.
Mẹ đã thôi không trả lời điện thoại. Mẹ không muốn nói chuyện với ai khác ngoài con và người trong bức chân dung, người hạnh phúc trên thiên đường. Vậy mà con và người đó chẳng thấy gọi cho mẹ.
Thiên đường. Mẹ hình dung thiên đường là một sảnh đường khách sạn có trần cao trong đó nghệ thuật âm nhạc phức hợp nhẹ nhàng vang lên qua hệ thống loa công cộng, một nơi ta có thể ngồi gọn trong ghế bành bọc da mà không đau, một sảnh đường chứa đầy những người thiêm thiếp nghe âm nhạc, trong khi mọi linh hồn khác đi qua đi lại như những làn hơi. Một nơi đông đảo linh hồn. Không biết họ có mặc quần áo không nhỉ? Hình như có, nhưng trên tay không có gì. Một nơi ta không đem theo bất cứ gì ngoài quần áo trừu tượng và ký ức trong đầu, ký ức tạo ra bản thân. Một nơi không có sự cố. Như nhà ga xe lửa sau khi đã bỏ hết toa tàu. Ngồi nghe âm nhạc thiên thần và vô tận ấy, ta không chờ đợi gì hết, chỉ nghe ký ức nhắn nhủ bên tai.
Có thể ngồi yên trong ghế bành nghe nhạc mà không lo ngôi nhà mình đã đóng hết cửa, bên trong tăm tối, còn đám mèo không được ăn vẫn lảng vảng ngoài vườn được không? Có thể, nếu không thiên đường để làm gì? Chết mà không người thừa kế – xin lỗi phải nói điều này – thật không tự nhiên chút nào. Để được bình an, tâm hồn thanh thản, ta cần biết sau ta thì đến tiếp người đó phải có mặt trong căn phòng ta từng sống.
Mẹ nghĩ đến những trang trại bỏ hoang khi đi qua vùng Karoo ở bờ biển phía Tây. Chủ những trang trại này đã bỏ chạy lên thành phố từ nhiều năm, cửa ngõ đóng ván, cổng khóa chặt. Bây giờ chỉ có một dãy nhà giặt, khói phun đầy trời, trẻ chơi đùa ở sân sau, thấy xe đi qua là giơ tay vẫy. Một vùng đất trong quá trình dân chủ. Những kẻ thừa kế lặng lẽ xuất hiện. Vùng đất bị chiếm bằng vũ lực, bị sử dụng, phá đi phá lại, mấy năm nay bỏ hoang. Có lẽ những kẻ chiếm đất cũng yêu quý vùng này nhưng chỉ yêu quý khi họ còn trẻ. Bây giờ thì lịch sử tuyên án, họ không còn yêu quý nữa.
Sau mỗi lần có chuyện gì, họ bắt người ta chìa ra  xem có lấy gì của họ không. Một hòn sỏi, một chiếc lông chim cũng không được. Thậm chí họ còn xem có giấu hạt cải nào trong kẽ móng tay không.
Tất cả đều chỉ là những con số, cộng vào nhau như thế, trừ đi trừ lại, chia đi chia lại, đến lúc đầu óc rối bù. Ngày nào mẹ cũng tính, trong lòng nhen nhóm một hy vọng rằng trường hợp của mẹ không phải là sai phạm. Nhưng ngày nào mẹ cũng đứng trước tình trạng như cũ, tức là phải chết và quên lãng. Từ trong phòng khám, bác sĩ Syfret nói “Chúng ta phải đối mặt với sự thật”. Nghĩa là phải đối mặt với bế tắc. Nhưng ông ta có đối mặt với nó đâu, chỉ có mẹ thôi.
Mẹ nghĩ đến những tù nhân đứng trên miệng hố, chờ đến khi bị bắn xác họ sẽ rơi xuống đó. Họ van nài đội hành quyết, họ khóc, nói đùa, xin hối lộ, hứa cho tất cả những gì họ có, cả nhẫn ở ngón tay, cả quần áo đang mặc. Bọn lính chỉ cười. Dù sao thì chúng cũng lấy hết, lấy cả răng vàng trong miệng họ nữa.
Chỉ có nỗi đau chạy qua người mẹ. Không có sự thật. Một ảo ảnh sẽ bất ngờ đem mẹ đi khỏi ngôi nhà trống này, để mặt trời chiếu qua cửa sổ vào chiếc phòng không, hoặc đem mẹ tới vịnh Giả Tạo có nền trời xanh trong veo, phẳng lặng, đến một thế giới mẹ đã sống cả đời nhưng trong đó không có mẹ. Ngày lại ngày, đời mẹ trốn tránh và sợ hãi chính cái nhìn của mình. Sự thật duy nhất còn lại chỉ có cái chết. Mẹ không thể nào chịu nổi khi nghĩ đến cái chết. Mẹ luôn luôn nghĩ đến chuyện khác, không dám nghĩ đến cái chết, không dám nghĩ đến sự thật.
Mẹ cố ngủ. Đầu óc trống rỗng. Mẹ bắt đầu cảm thấy yên tĩnh. Sắp ngủ được rồi đây, mẹ nghĩ bụng. Tốt nhất là ngủ cho ngon. Đúng vào lúc sắp quên hết bỗng một cái gì bật ra, kéo mẹ lại, và cái đó chỉ có thể gọi là thật. Mẹ vùng dậy. Nằm thức trên giường, mọi thứ lại yên. Một con ruồi đậu trên má mẹ, xoa tay xoa chân, bắt đầu thăm dò. Nó chạy qua mắt mẹ còn đa mở, mẹ muốn chớp mắt để đuổi nó đi nhưng không chớp được. Bằng con mắt vừa là của mẹ vừa không phải của mẹ, mẹ nhìn con ruồi. Phải nói là nó đang liếm môi. Mẹ không thể nhận ra bộ mặt của những cơ quan trên mình nó động đậy. Nhưng nó đang ở trên người và đang chạy qua người mẹ. Nó là sinh vật của thế giới khác.
Đã hai giờ chiều. Mẹ nằm trên ghế dài, hoặc trên giường, cố nhấc đít vì chỗ ấy đau hơn cả. Mẹ tưởng tượng đến Esther Williams, đến những cô gái mũm mĩm mặc áo tắm loè loẹt, thoải mái bơi ngửa nhìn trời xanh, vỗ nước hát, nghĩ đến những cây đàn ghita vô hình bật dây phần phật, nghĩ đến miệng các cô gái, hình vòng cung tròn trặn, đỏ chót. Họ đang hát gì thế nhỉ. Hoàng hôn…từ biệt…Tahiti. Bỗng mẹ thấy thèm muốn được coi lại Savoy xưa, mua vé bằng tiền xu nay được đem nấu chảy chỉ còn vài đồng trong ngăn kéo, một mặt khắc hình George VI, ông vua tốt bụng hay nói lắp, còn mặt kia có đôi chim họa mi. Chim hoạ mi. Mẹ chưa từng nghe họa mi bao giờ, và sẽ không bao giờ được nghe nữa. Mẹ ôm ấp sự ham muốn, nỗi tiếc thương, nhà vua, các cô gái bơi, ôm ấp bất cứ gì đến với mẹ.
Mẹ ngồi dậy mở ti vi. Một kênh có bóng đá. Kênh khác có một người da đen đặt tay lên quyển Kinh Thánh, cầu nguyện cho mẹ bằng thứ ngôn ngữ gì chẳng rõ. Một cánh cửa mẹ mở cho thế giới tràn vào, thế giới ấy sẽ đến với mẹ. Nhìn qua cánh cửa như nhìn vào đường ống vậy.
Ba năm trước có một vụ trộm (mẹ đã viết trong thư, chắc con còn nhớ). Bọn trộm chỉ lấy những gì chúng có thể mang đi được. Trước khi bỏ đi chúng lục lọi các ngăn kéo, lật đệm giưỡng, đập vỡ cốc chén chai lọ, vứt các bát đĩa đựng thức ăn ra đầy nhà.
Mẹ ngạc nhiên hỏi viên thám tử “Tại sao chúng phải làm thế? Làm thế thì chúng được cái gì?”
Anh ta đáp “Chúng nó là thế. Bọn thú vật!”
Sau vụ đó mẹ cho lắp song sắt lên cửa sổ. Một người Ấn độ béo phục phịch đến lắp. Sau khi bắt vít và đặt song sắt lên khung cửa, anh ta đổ keo lên đầu đinh và giải thích “Làm thế chúng không tháo ra được” Lúc ra về anh ta còn đập vào tay mẹ nói “Bây giờ bà đã an toàn rồi”.
“Bây giờ bà an toàn rồi”. Y như lời của người coi vườn thú mỗi tối khóa cửa để bảo vệ chim đô đô không cất cánh và vô tích sự. Con đô đô cuối cùng già yếu, quá thời đẻ trứng. “Bây giờ bà an toàn rồi”. Con đô đô bị nhốt chặt trong khi bọn tìm mồi vẫn rình rập bên ngoài. Con đô đô quang quác trong tổ, chỉ ngủ một mắt mệt mỏi chờ đến sáng. Nhưng nó được an toàn trong lồng, không ai đụng đến song sắt, dây điện. Còn có điện thọai để gọi cấp cứu khi cần, còn dây cáp truyền hình để tiếp nhận ánh sáng của thế giới bên ngoài, còn ăng ten để nghe tiếng nhạc từ các vì sao dội đến.
Truyền hình. Tại sao mẹ lại xem truyền hình? Khi nào cũng vậy, chỉ thấy cuộc diễu hành của các vị chính trị. Nhìn những khuôn mặt bệ vệ, trơ tráo, đã quen từ thưở bé, mẹ cảm thấy tối sầm, muốn nôn mửa. Đó là bọn con trai xưa kia toàn ngồi cuối lớp, mặt mày vênh váo, ngu ngốc, nay lớn lên đề bạt thành những người cai trị đất nước. Chúng và cha mẹ, cô cậu, anh chị chúng, đều là một lũ châu chấu ma, mắc dịch, trải khắp nước, chỉ biết ngấu nghiến nuốt chửng cuộc sống mọi người. Nhưng sao mẹ lại xem chúng trên ti vi dù biết là khủng khiếp, đáng căm ghét? Sao mẹ lại cho chúng vào nhà? Vì chế độ cai trị của họ hàng châu chấu ma ấy là sự thật ở Nam Phi, một sự thật khiến mẹ muốn nôn mửa. Chúng không bận tâm đến bất chấp hợp pháp. Chúng vứt bỏ hết lý trí, cho là không quan trọng. Điều hấp dẫn đôi với chúng là quyền lực, và vô ý thức của quyền lực. Chúng phè phỡn, nói như nuốt tươi cuộc sống, rồi ợ chua. Chúng là những bọn thú biết nói. Chúng ngồi với nhau một chỗ, tranh luận sự việc và ra nghị định như những nhát búa: chết này, chết này, chết này. Chúng không sợ mùi hôi thối. Mắt chúng híp như mắt lợn, chúng mang trong người cái ranh ma của những thế hệ nông dân. Chúng còn tìm cách hại nhau nữa. Chúng lấy dần những mảnh đất mà nông dân phải mấy chục năm mới làm ra được. Đó là bọn Phi châu mới, bụng ỏng, cằm bạnh, ngồi ghế cơ quan, những Cetshwayo, những Dingane da trắng. Chúng mang sức nặng của quyền lực ấn xuống. Những hòn dái to tướng của chúng ấn xuống vợ con, ấn cho tóe lửa. Trái tim của chúng không còn một tia lửa nào. Trái tim c húng nặng nề, chậm chạp, như những chiếc bánh đúc làm bằng máu.
Thông điệp của chúng không thay đổi. Rất ngu ngốc, mãi mãi vẫn ngu ngốc. Sau nhiều năm ngẫm nghĩ về từ nguyên, chúng đạt được chiến công, đó là những sự ngu ngốc lên trình độ của đức tính. Chúng gây sợ hãi, tước bỏ cảm giác, bắt câm miệng, bắt chết, chúng gây kinh ngạc làm  cho bất tỉnh. Từ sợ hãi đi đến mất cảm giác, thờ ơ, lãnh đạm. Ngu ngốc làm năng lực trở thành đờ đẫn, bàng quan, không suy nghĩ, không cảm thấy gì. Từ sợ hãi đến choáng váng, sững sờ. Từ ngu ngốc đến choáng váng, ngạc nhiên, biến thành đá. Thông điệp của chúng là không bao giờ thay đổi. Thông điệp của chúng biến con người thành đá.
Mẹ cùng anh ta ngồi xem tuổi vi nhưng chẳng khác gì con chim giương mắt nhìn con rắn, bị con rắn mê hoặc sắp nuốt chửng. Mê hoặc là tỏ lòng tôn kính cái chết. Vào quãng tám chín giờ, mọi người tề tựu xem chuyến phô diễn, y như cuộc diễu hành của các giám mục trong chiến tranh Franco vậy. Chúng nghiên cứu các hiện tượng để chứng minh cho mọi người thấy cái chết như thế nào. Cái chết muôn năm! Chúng kêu gào đe doạ. Phải giết chết bọn trẻ. Phải giết chết cuộc sống. Chúng là giống lợn rừng chưa bị thiến, ăn sống nuốt tươi cả con cháu của chúng, biến thành cuộc chiến của thú rừng.
Mẹ tự nhủ đây không phải mẹ xem chúng nói đâu mà xem sự thật là thế nào đàng sau sự dối trá đó. Nhưng làm gì có sự thật?
Mẹ thiếp đi (đây là mẹ vẫn viết về chuyện hôm qua), rồi đọc sách, rồi lại thiếp đi. Mẹ pha ấm trà, đặt đĩa hát lên máy. Từng nhịp một, biến tấu của Goldberg dựng đứng trong không gian. Mẹ bước ra cửa sổ. Trời đã gần tối. Anh ta ngồi hút thuốc, dựa lưng vào nhà đốm lửa lập loè ở đầu điếu thuốc. Có lẽ anh ta trông thấy mẹ, có lẽ không. Cả hai nghe ngóng.
Lúc này mẹ chắc anh ta cũng nghĩ anh ta đang chờ mẹ làm tình.
Tuy ý nghĩ đó chợt đến và mẹ cảm thấy ghê tởm nhưng mẹ vẫn nghĩ, không e ngại. Anh ta và mẹ đã dính vào nhau, mắt nhắm nghiền, cùng đi xuống con đường xưa. Không phải như hai bạn đồng hành! Như người đi xe buýt ở vùng Sicily, mặt kề mặt, thân kề thân với người xa lạ. Có lẽ đó là cuộc sống ở kiếp sau, không phải trong hành lang với chiếc ghế bành và âm nhạc, nhưng là trên xe buýt đầy chật người không biết nơi định đến và đi đâu. Xe chỉ đủ chỗ để đứng, đứng mãi mỏi chân, ép mình với những người xa lạ. Không khí đặc quánh, nặng nề, toàn nghe tiếng thở dài, lầm bầm, chửi rủa, xin lỗi. Da thịt tiếp xúc ồ ạt. Luôn nhìn vào mắt nhau. Cuộc sống riêng tư thế là chấm dứt.
Anh ta ngồi xổm trên sân, hút thuốc, nghe ngóng. Hai linh hồn, của anh ta, của mẹ, quấn vào nhau, đê mê. Như côn trùng chụm đuôi vào nhau, hai đầu quay hai phía, nằm im, nghe lồng ngực giật giật tưởng là đang thở. Hoàn toàn yên lặng, đê mê.
Anh ta quẳng điếu thuốc. Tia lửa bắn toé khi điếu thuốc rơi xuống đất. Rồi lại tối đen.
Mẹ nghĩ đến ngôi nhà này. Thế giới này, ngôi này này, âm nhạc này, nghĩ đến tất cả.

Mẹ nói “Đây là con gái tôi. Đứa con gái tôi đã nói với anh rồi. Nó đang sống ở Mỹ”. Nhìn trong ảnh, anh ta thấy khuôn mặt con dễ thương, một thiếu phụ ngoài ba mươi, nền sau lưng là cánh đồng xanh, con giơ tay giữ mớ tóc bay trong gió. Con có vẻ tự tin. Đúng là bây giờ con đang như thế, con là một phụ nữ đã tìm thấy chính mình.
–         Đây là những đứa con của vợ chồng nó.
Hai cậu bé đội mũ, mặc áo, đi ủng, đeo găng và đứng bên người tuyết, chờ bấm máy ảnh.
Tạm nghỉ. Mẹ cùng anh ta ngồi trong bếp. Mẹ dọnó trà và bánh quy Marie để trước mặt anh ta. Bánh quy Marie là thức ăn cho người già, những người không còn răng.
–         Có một chuyện tôi muốn anh làm giúp trước khi tôi chết. Tôi muốn gởi một số giấy tờ cho con gái tôi. Nhưng chỉ gởi sau thôi. Việc này quan trọng, nhưng tôi không tự đi gởi được. Tôi chuẩn bị mọi thứ, gói ghém, dán tem. Anh chỉ việc đem gói đó giao cho quầy bưu điện. Anh giúp tôi được không?
Anh ta quay người có vẻ không bằng lòng.
–         Nếu tôi làm được thì đã không nhờ anh giúp. Nhưng chả có cách nào khác, vì tôi sẽ không còn sống nữa.
Anh ta nói “Bà không nhờ ai khác được ư?”
–         Được chứ. Nhưng tôi chỉ yêu cầu anh thôi. Đây là những giấy tờ và thư riêng, cho con gái tôi thừa kế, đó là tất cả những gì tôi có thể cho nó, tất cả những gì tôi nhận từ đất nước này. Tôi không muốn bất cứ ai khác mở nó ra đọc.
Giấy tờ riêng. Giấy tờ này, những lời này, hoặc con phải đọc ngay bây giờ nếu không sẽ chẳng bao giờ đọc nữa. Liệu có đến tay con được không? Đã đến chưa? Hỏi để hỏi mà thôi, vì mẹ biết sẽ chẳng bao giờ biết được câu trả lời. Với mẹ thì thư này mãi mãi sẽ chỉ là những lời trong làn sóng, một thứ thông điệp trong chai có dán tem Cộng hoà Nam Phi và đề tên con.
Anh ta, người đưa tin, loay hoay chiếc thìa nói “Tôi cũng chả biết”.
Anh ta không hứa. Mà dù có hứa thì cuối cùng anh ta cũng làm theo ý mình. Có dặn gì đi nữa cũng không hiểu anh ta được, vì người chết không còn là người nữa. Quy luật là như vậy. Mọi hợp đồng mất giá trị. Người chết không thể bị lừa, không thể bị phản bội, trừ khi ta mang theo trong lòng và phạm tội ở đó.
Mẹ nói “Không sao đâu. Tôi đã định yêu cầu anh đến đây ở và chăm sóc giùm đám mèo. Để tôi thu xếp cách khác vậy”.
Thu xếp cách nào khác? Ở Ai cập, họ chôn mèo theo chủ. Mẹ cũng muốn như thế sao? Muốn thấy những đôi mắt vàng khè chạy đi chạy lại, tìm đường chui ra khỏi hầm tối hay sao?
Mẹ nói “Tôi sẽ bỏ chúng thôi. Chúng đã quá già, không cho đi đâu được”.
Trước cảnh anh ta im lặng, những lời của mẹ chỉ như nước vỗ vào đá.
Mẹ lại nói “Tôi phải làm gì cho chúng chứ, nhưng chẳng làm được gì hết. Ở vào địa vị tôi, chắc anh cũng nghĩ thế”.
Anh ta lắc đầu. Không phải thế. Đúng là không phải thế. Trước sau thì một đêm dông nào đó, khi ngọn lửa nhân tạo trong mạch máu không còn đủ nóng để duy trì anh ta nữa, anh ta sẽ chết. Anh ta sẽ chết ngoài cửa hay trên một lối đi, hai tay khoanh trên ngực. Người ta sẽ tìm thấy anh ta cùng con chó này hay con chó khác nằm bên cạnh kêu ư ử và liếm mặt. Người ta sẽ cho anh ta lên xe chở đi, bỏ lại con chó trên phố, và thế là hết. Chẳng thu xếp gì, chẳng để lại gì, cũng chẳng có lăng miếu gì hết.
Anh ta nói “Để tôi đem cái gói của bà ra bưu điện”.

CHƯƠNG 2

Florence đã về, không chỉ đem theo hai đứa con gái nhỏ mà cả Bheki, con trai mười lăm tuổi nữa.
Tôi nói “Florence, nó ở đây lâu không? Làm gì có chỗ cho nó?”
Florence đáp “Nó không ở với tôi thì sẽ rắc rối. Chị tôi không trông được nó. Tình hình ở Guguletu rất xấu”.
Vậy là bây giờ tôi có năm người ở sân sau. Năm người, một con chó, hai con mèo. Gặp trường hợp này, một bà già cô đơn chả biết làm thế nào.
Hồi đầu tháng lúc Florence ra đi, tôi đảm bảo với cô là sẽ lo được việc nhà. Cố nhiên tôi đã bỏ mặc hết. Chẳng bao lâu sau gian gác đầy mùi chua loét, chăn gối bẩn thỉu, bột tan vãi khắp nơi. Bây giờ tôi xấu hổ nhìn cô đi xem xét các chỗ, tay chống nẹ, mũi đánh hơi và nhìn tôi bất lực. Rồi cô ta ra tay dọn dẹp. Đến cuối ngày nhà bếp và nhà tắm bóng lộn, phòng ngủ sạch sẽ ngăn nắp, bàn ghế thơm mùi xi. Tôi nói chiếu lệ “Florence, thật là tuyệt. Không có cô tôi chả biết làm thế nào”. Tất nhiên tôi biết chứ, nghĩa là tôi sẽ trở lại với cái tính bàng quan trì trệ của tuổi già.
Xong việc của tôi, Florence quay sang làm những việc riêng, đặt nồi súp lên bếp rồi đem hai con gái nhỏ vào nhà tắm. Nhìn cô ta tắm cho chúng, lau mặt mũi chân tay bằng những động tác mạnh mẽ, dứt khóat, mặc cho bọn trẻ kêu rên, tôi nghĩ bụng người đàn bà này thật đáng khâm phục. Cũng may mà cô ta không phải mẹ tôi!
Tôi ra gặp thằng bé đang thơ thẩn trên sân. Trước kia nó có tên là Digby, bây giờ là Bheki. Tuổi nhỏ nhưng nó đã cao lớn, có cái nhìn nghiêm nghị như Florence. Tôi nói “Không ngờ cháu đã lớn thế”. Nó không đáp. Nó không còn là đứa nhỏ tươi cười như trước đây khi chạy ra chuồng thỏ ôm một con vào ngực. Chắc nó đang buồn vì phải xa bạn và trốn về đi chơi với hai em nhỏ ở sân sau.
Tôi hỏi Florence “Trường đóng cửa từ bao giờ?”
–         Từ tuần trước. Các trường ở Guguletu, Langu Nyanga đều đóng. Trẻ con chẳng biết làm gì, chỉ dạo quanh gây sự ở các phố. Ở đây tôi còn trông được nó.
–         Không có bạn, nó càng sốt ruột.
Cô ta nhún vai, không cười. Tôi chưa bao giờ thấy cô ta cười. Có lẽ chỉ ngồi riêng với  các con cô ta mới cười.

Florence hỏi “Người này là ai thế?”
Tôi nói “Anh ta tên là Vercueil. Vercueil, họ Verskeuil hay Verskuil gì đó. Thấy anh ta bảo thế. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên đó. Tôi để anh ta ở đây ít lâu. Anh ta có con chó. Bảo bọn trẻ nếu chơi với nó thì đừng đùa quá. Chó con dễ cắn bậy lắm”.
Florence lắc đầu.
Tôi nói “Nếu anh ta gây rắc rối, tôi sẽ mời đi. Nhưng anh ta không làm gì bậy thì không mời đi được”.

Một ngày mát và có gió. Tôi mặc áo ngủ ngôi trên hiên. Dưới sân, Vercueil đang chữa máy cắt cỏ. Bọn con gái đến xem. Đứa lớn, theo Florence nói, tên là Hope (chắc cô ta không nói tên thật). Nó ngồi  cách đó một quãng, hai tay kẹp vào đùi, anh ta không nhìn nó. Nó đi đôi dép đỏ mới mua. Đứa bé, tên là Beauty, cũng đi dép đỏ, lảng vảng gần sân cỏ, chân đá lung tung, thỉnh thoảng ngồi sụp xuống.
Tôi nhìn con bé đi đến chỗ Vercueil, hai tay giang ra nắm chặt. Nó suýt ngã vào máy nhưng anh ta túm được tay nó kéo ra. Nó loạng choạng, ngã vào người anh ta. Anh ta lại lôi nó ra xa hơn. Như hai người đang đùa với nhau vậy. Chẳng lẽ anh chàng Vercueil nghiêm túc cũng biết đùa?
Beauty lại nhảy đến. Anh ta tránh. Bỗng anh ta đặt chiếc máy cắt cỏ đang tháo dở sang bên, một tay nắm con bé, tay kia nắm được Hope, cả ba xoay tròn, chậm rồi nhanh dần. Hope đi dép đỏ phải chạy theo đứa bé quay lơ lửng trên không và kêu lên khoái chí. Con chó nhỏ sau cổng thấy thế cũng nhảy cỡn sủa ầm ĩ. Rất vui!
Vừa lúc đó Florence xuất hiện, ba người đang quay dừng lại. Florence nói gì đó. Hope bỏ tay Vercueil và kéo em ra ngoài. Hai đứa bỏ đi chỗ khác. Nghe cửa đóng sầm. Con chó tiếc cảnh vui vừa rồi rít lên.  Vercueil quay lại với máy cắt cỏ. Nửa giờ sau, trời bắt đầu mưa.
Thằng lớn, Bheki, ngồi trên giường Florence đang xem những tạp chí cũ. Góc phòng, Hope nhìn nó cầu nguyện. Chán xem báo rồi, Bheki đi ra ngoài chơi ném bóng quần vợt lên cửa nhà xe. Nghe tiếng bóng đập thình thình rất khó chịu. Tôi phải lấy gối áp lên hai tai mà vẫn nghe thấy. Tôi bực mình lên tiếng hỏi “Bao giờ trường mở lại?” Florence đáp “Để tôi bảo nó thôi đi”, một phút sau không còn tiếng thình thình nữa.
Năm ngoái, khi bắt đầu có những chuyện rắc rối ở trường, tôi nói với Florence “Vào thời của tôi, con người coi giáo dục như một thứ đặc quyền. Cha mẹ phải tiết kiệm lắm mới có tiền cho con cái đi học. Thế đó, ai nghĩ đến đốt trường là điên rồ”.
Florence đáp “Thời nay khác rồi”.
–         Cô tán thành việc trẻ con đốt trường học ư?
Florence nói “Không thể nào bảo chúng nó khác được đâu. Bây giờ mọi thứ đã thay đổi rồi. Với chúng nó thì chẳng còn bố mẹ gì hết”.
Tôi nói “Vô lý. Bao giờ mà chẳng có bố mẹ”. Chúng tôi nói đến đó rồi thôi.
Về chuyện rắc rối ở các trường học, không thấy đài, ti vi hay báo chí đả động gì hết.  Ngoài kia người ta tính cho tất cả đám trẻ đất nước này được sung sướng  ngồi vào bàn học và dạy chúng về hình vuông cạnh huyền cùng loài vẹt ở rừng rậm Amazone. Tôi biết được những sự kiện ở Guguletu là do Florence nói lại, hoặc đứng ngoài hiên nhìn về phía đông bắc, cụ thể là hôm nay Guguletu không bị đốt, hoặc nếu có cũng chỉ cháy tí chút thôi.
Đất nước này đang cháy âm ỉ, nhưng dù với ý muốn tốt đẹp nhất thì tôi cũng chỉ quan tâm phần nào thôi. Quan tâm thật sự của tôi đã hướng cả vào bên trong, mọi sự vật và lời nói dành cho sự vật đang chạy khắp cơ thể. Một sự chiếm đóng nhục nhã, đôi khi còn lố bịch nữa. Quần áo của ông chủ ngân hàng bị cháy thì người ta đem chuyện ấy ra cười đùa, nhưng một kẻ ăn mày bị đốt chết thì chẳng ai nói đến. Tôi không sao chịu nổi. Tôi muốn kêu to với Florence “Cô hãy nhìn tôi đây này! Tôi cũng đang bị đốt chết đây!”
Tôi luôn luôn cẩn thận với từng chữ của lời nói để không bị mắc kẹt. Mỗi khi đọc sách, tôi nhảy dòng, thậm chí đôi khi nhảy cả đoạn, mắt lúng liếng chỉ muốn tìm bóng dáng một chữ đang nấp kín ở đâu đó.
Trong bóng tối, nằm đơn độc trên giường, ý muốn tìm ấy càng thôi thúc mạnh. Tôi cảm thấy bị cuốn vào đó, tưởng mình như đứa trẻ mặc áo dài trắng, đội mũ rơm, đi trên bãi cát mênh mông trống vắng. Chim bay quanh người. Tôi giữ chặt mũ, cắm chân xuống đất đi ngược chiều gió. Lát sau, đến chỗ vắng không có ai nhìn mình, tôi không phải cố nữa. Thư giãn, rồi như có một bàn tay đẩy sau lưng. Tôi nhẹ người, không cưỡng lại. Lúc đó chỉ đi từ từ, rồi chạy, để cơn gió mang đi.
Đêm đêm gió mang tôi tới Người lái buôn thành Venice. Shylock, anh chàng Do thái lên tiếng “Chẳng phải tôi cũng ăn, ngủ và thở như bà đấy ư?” Anh vung lưỡi gươm, đầu gươm dính mảnh thịt máu nhỏ ròng “Chẳng phải tôi cũng chảy máu như bà đấy ư?” Anh chàng Do thái có bộ râu dài, đội mũ chóp, nhảy múa như điên trên sân khấu.
Giả thử có ai ở đây, tôi cũng khóc lên như thế. Nhưng không có ai. Không có ai thì có Florence. Cô là  người duy nhất phải chịu đựng những giờ phút mỗi khi nỗi sợ hãi từ trong tôi phát ra thiêu cháy cả lá cây trên cành. Tôi muốn nghe những lời thốt ra “Sẽ không sao đâu”. Tôi muốn được ai đó ôm vào ngực, Florence, hay bất kỳ ai cũng được.
Đêm qua nằm trên giường, kê gối dưới hông, tay đặt lên ngực để chỗ đau khỏi lan rộng, đồng hồ chỉ 3 giờ . Rồi tôi nghĩ thèm được như Florence ngủ trong phòng, các con nằm chung quanh, bốn mẹ con mỗi người ngủ một kỉêu, hơi thở vừa mạnh vừa trong trẻo.
Tôi nghĩ bụng, xưa kia mình đã có đủ mọi thứ. Bây giờ mọi người có đủ mọi thứ, còn tôi chẳng có gì.
Bốn mẹ con thở đều, không vấp váp, êm như tiếng quả lắc đồng hồ.
Tôi gập đôi tờ giấy, viết cho Florence mấy chữ “Đêm hôm qua tôi không ngủ được. Tôi sẽ dậy muộn. cô bảo bọn trẻ yên lặng. Cám ơn cô. E.C.” Tôi xuống nhà và đặt mảnh giấy ở bàn bếp. Rồi tôi run rẩy quay về giường nằm, uống viên thuốc lúc bốn giờ, nhắm mắt. khoanh tay chờ ngủ mà vẫn không ngủ được.
Tôi không thể có được những gì cần ở Florence. Những gì muốn cũng không thể có được.
Năm ngoái, khi đứa bé mới ra đời, tôi đánh xe đưa Florence đến Brackenfell, nơi chồng cô ta làm việc. Chắc cô ta tưởng tôi chỉ đưa đến đó rồi quay xe về, Nhưng tôi tò mò, muốn nhìn mặt anh kia và xem vợ chồng họ gặp nhau ra sao, vì thế tôi theo cô ta đi vào.
Hôm ấy đã là cuối chiều thứ bảy. Từ chỗ đậu xe, chúng tôi theo con đường đất khá dài, qua vài dẫy nhà lụp sụp, đến một chỗ có người mặc bộ đồ lao động đang đứng sau lưới thép, quanh chân anh ta có đám gà con đang tìm ăn. Hope, đứa con gái, vùng chạy lên bám tay vào lưới thép. Anh chàng kia và Florence chỉ cần nhìn nhau là đủ.
Chẳng ai có thì giờ chào hỏi. Anh ta, William, chồng Florence, đang làm một thứ việc không thể dừng tay. Việc anh ta là tóm lấy một con gài, dốc ngược và kẹp nó vào hai đầu gối, lấy sợi dây thép nhỏ vào chân rồi chuyển cho người thứ hai, trẻ tuổi hơn, cậu ta treo con gà lên móc, con gà đập cánh, kêu quang quác, móc nằm trong dây chuyền đưa con gà vào nhà nơi có người thứ ba mặc quần áo dầu, người đầy móc đứng sẵn nắm đầu  con gà, kéo dài cổ và chặt một nhát bằng con dao nhỏ rồi quẳng đầu nó vào chiếc thùng đựng đầu gà để gần đó.
Việc của William là thế. Nhìn cảnh ấy tôi nghĩ thầm nếu biết như thế đã chẳng dám xem. Anh ta làm việc ấy cả sáu ngày trong tuần. Chỉ có mỗi việc buộc chân gà. Hoặc anh ta lần lượt thay chân người khác, treo lên móc, chặt cổ gà. Việc đó mỗi tháng kiếm được một trăm rand, cộng thêm các bữa ăn. một việc anh ta đã làm mười lăm năm. Cho nên không thể không sợ rằng mấy con gà được tôi nhồi bánh mì, sữa tươi, hành tỏi, ít ra cũng đã bị kẹp trong đầu gối anh chỗ này, bố những đứa con của Florence. Từ năm giờ sáng lúc tôi còn đang ngủ, anh ta đã phải dậy để nước rửa các gầm chuồng, đổ thức ăn vào máng, quét dọn, rồi ăn sáng xong là bắt đầu mổ giết, nhổ lông, rửa ráy ướp lạnh, đóng gói hàng nghìn đầu và chân gà, hàng trăm thước ruột gà, hàng núi lông gà.
Nhìn cảnh đó lẽ ra tôi bỏ đi ngay, phóng xe về nhà để cố quên đi tất cả. Nhưng tôi vẫn đứng lại bên ngoài lưới thép, mê mải nhìn ba người xử lý cái chết của giống con chim không biết bay nữa. Con bé đứng bên ngoài ngón tay móc vào lưới, cũng nhìn một cách say mê. Giết và chết rất khó mà cũng rất dễ thế đấy.
Đến năm giờ là cuối ngày, tôi phải tạm biệt. Trong lúc tôi đánh xe về ngôi nhà trống vắng, William đưa Florence và các con về chỗ họ. Anh ta tắm rửa, cô ta đổ gạo và nồi nấu cháo gà bằng  bếp dầu, rồi cho con cái ăn. Hôm đó là thứ Bảy. Một số công nhân ở các nơi khác đến thăm viếng lẫn nhau hoặc giải trí. Florence và William đã có thể cho bọn trẻ ngủ ở chiếc giường chung rồi hai người đi dạo lúc trời tối còn ấm áp.
Họ đi dọc lề đường, kể lại cho nhau nghe những gì xảy ra tuần trước, kể về đời sống của mỗi người.
Lúc họ về bọn trẻ đã ngủ say. Họ treo trước giường một tấm chăn  cho được kín đáo. Rồi hai người có cả đêm dành cho nhau, cả đêm trừ một nửa giờ Florence phải bỏ ra ngoài cho con bú trong bóng tối.
Sáng chủ nhật – William – không phải tên thật, chỉ là do người ta biết đến ở chỗ làm việc thôi – mặc quần và đội mũ, đi đôi giày tử tế. Anh ta cùng Florence ra bến xe buýt, cô ta cõng đứa bé, còn anh ta dắt Hope. Họ đi xe buýt đến Luilsrivier, rồi ngồi taxi về nhà cô chị ở Guguletu là nơi họ gửi thằng con trai.
Đã quá mười giờ và bắt đầu nóng nực. Lễ nhà thờ kết thúc. Phòng khách đầy người thăm, nói chuyện ầm ĩ. Một lúc sau, đám đàn ông ra về. Đã đến lúc Florence giúp cô chị nấu ăn. Hope nằm lăn ra sàn ngủ. Một con chó ở đâu chạy vào liếm nước nó bị đuổi đi, con bé vẫn còn ngủ khi nó được bế đặt lên ghế dài. Lúc vắng người, Florence đưa cho cô chị số tiền ăn uống, giày dép, sách vở mua cho thằng Bheki, cô chị cất tiền vào trong người. Rồi Bheki xuất hiện chào mẹ. Đám đàn ông khi nãy không biết đi đâu bây giờ quay lại. Họ ăn trưa, ăn gà của trại hoặc nhà máy hoặc cơ sở nào chả biết, ăn với cơm, bắp cải và nước sốt. Các bạn Bheki đứng bên ngoài gọi vào. Nó ăn vội rồi đứng lên bỏ đi.
Mọi chuyện đã diễn ra và phải diễn ra như thế. Một buổi chiều bình thường ở Châu Phi, thời tiết xậm đen, ngày giờ mệt mỏi. Hầu như có thể nói rằng cuộc sống nhất định phải như thế.
Đã đến lúc mọi người phải ra về.  Họ lại đi bộ đến trạm xe buýt. Lần này Hope ngồi lên vai bố . Xe buýt đến. Họ chia tay. Xe buýt chở Florence và hai con đến Mowbray, từ đây đi xe buýt khác về phố The George, rồi lại sang xe thứ ba về phố Kloof. Từ Kloof, họ đi bộ. Về đến phố Schoonder, bóng chiều trải dài trên đường. Lúc này Hope đã mệt. Florence phải cho nó ăn tối, phải tắm cho đứa nhỏ, rồi phải giặt cho xong đống quần áo còn để lại từ hôm trước.
Ít ra thì anh ta cũng không giết trâu bò. Tôi tự nhủ, anh ta chỉ giết gà thôi, những con gà có đôi mắt ngơ ngác và mang ảo tưởng là mình quan trọng. Đầu óc tôi đã không sao rời khỏi trại gà, nhà máy, doanh nghiệp, nơi anh chồng của người đàn bà sống bên tôi đang làm việc ngày ngày đi đi lại lại, đi tới đi lui, đi ra đi vào, giữa cái mùi của máu và lông gà, giữa những tiếng quàng quạc ghê sợ, hết ngửng lên lại cúi xuống, rồi tóm rồi buộc, rồi treo. Trong khi ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi nghĩ đến tất cả đàn ông trên mảnh đất Nam Phi này giết gà, đào đất, chở hết xe này đến xe khác, nghĩ đến tất cả những người đàn bà hái trái và khâu lỗ khuy. Liệu có bao giờ và ai đó đếm hết được những con người, những xẻng đất, những trái tao, những lỗ khuy, những con gà ấy? Cả một gầm máy lao động, cả một gầm trời đo đếm, y như suốt ngày ngồi nhìn đồng hồ, cứ thấy mỗi giây xuất hiện là giết, là làm cho cuộc sống của mình mất đi.

Từ khi Vercueil có tiền của tôi, anh ta uống rượu lu bù, không chỉ uống vang mà còn uống brandy nữa. Có ngày anh ta nhịn đến tận trưa, để lúc uống sẽ thấy chất rượu càng hấp dẫn hơn. Nhiều khi quá say, anh ta bỏ nhà đi từ giữa sáng.
Hôm nay không nắng lắm, anh ta chỉ đi một lúc là quay về. Tôi đang ở trên gác hiên, anh ta không trông thấy, ra sân ngồi tựa lưng vào tường, con chó nằm ngay bên cạnh. Thằng con trai của Florence cũng đang ở đó với một thằng bạn tôi chưa gặp bao giờ. Hope thì chăm chú theo dõi chúng. Chúng mở chiếc radio nhỏ, tiếng nói lạo xạo kêu bùng bùng, nghe khó chịu hơn cả tiếng đập của bóng quần vợt.
Vercueil gọi hai đứa “Nước, đem nước tới đây”.
Thằng bạn Bheki bước đến ngồi cạnh anh ta. Tôi không nghe rõ hai người trao đổi những gì. Thằng bạn chìa tay nói “Đưa đây”.
Vercueil khẽ đập vào tay nó.
–         Đưa đây cho tôi – nó quỳ xuống móc cái gì đó trong túi của Vercueil.
Vercueil chống lại một cách yếu ớt.
Thằng bé mở nắp chai đổ hết rượu brandy ra đất. Rồi quăng chai sang một bên. Chai vỡ. Tôi suýt nữa kêu lên: làm gì ngu thế!
Thằng bé nói “Người ta đang biến anh thành một con chó đấy! Anh muốn làm chó hay sao?”
Con chó của Vercueil kêu ăng ẳng.
Vercueil líu lưỡi “Cút đi”.
Thằng bé nói “Đồ chó! Đồ nát rượu!”
Nó quay lưng lại đi về phía Bheki, dáng khệnh khạng. Tôi nghĩ thằng bé này làm ra vẻ quan trọng và đó cũng là cách cư xử của những người bảo vệ cuộc đời, tôi cầu mong Chúa đừng cho ta gặp phải những người như vậy.
Con bé đến ngửi chỗ rượu đổ và nhăn mũi.
Vercueil xua tay nói “Cả mày cũng cút đi”. Con bé không động đậy, nhưng rồi nó quay người chạy thẳng về phòng mẹ.
Tiếng nhạc vẫn vang lên. Vercueil lăn ra ngủ ở ngay vách tường, con chó ngả vào đầu gối anh ta. Tôi quay đi tiếp tục đọc sách. Một lúc sau mặt trời chui vào đám mây, Không khí lạnh dần. Bắt đầu có mưa phùn. Con chó rũ người chạy vào lán củi. Vercueil cũng đứng dậy vào theo. Tôi thu gọn đồ đạc.
Trong lán củi bỗng có chuyện. Trước hết con chó chạy ùa ra ngoài, quay đầu lại sủa, sau đến Vercueil. Rồi hai thằng bé theo ra. Thằng bạn Bheki đứng gần, Vercueil giơ cạnh tay đánh mạnh một nhát vào gáy nó. Thằng  bé lặng người ngạc nhiên và rít lên một tiếng. Tôi đứng trên hiên cũng nghe rõ. Nó đánh lại, Vercueil lảo đảo suýt ngã. Con chó chạy chung quanh sủa vang. Thằng bé lại đánh Vercueil nhát nữa, lần này cả Bheki cũng tham gia. Tôi hét bọn trẻ “Thôi ngay đi!” Chúng chẳng thèm nghe. Vercueil nằm dưới đất. Chúng đá anh ta. Bheki rút dây lưng quất. Tôi gọi to “Florence! Bảo chúng nó thôi đi!” Vercueil đưa tay lên che mặt chống đỡ. Con chó nhảy vào Bheki. Bheki đá lui con chó, tiếp tục cầm dây lưng quất Vercueil. Tay nắm chắc thành hiên, tôi quát nữa “Thôi ngay đi không tao báo cảnh sát!”
Rồi Florence xuất hiện. Cô ta hét ầm lên, bọn trẻ lùi lại. Vercueil cố ngồi dậy. Tôi đi thật nhanh xuống dưới.
Tôi hỏi Florence “Thằng bé này là ai thế?”
Đang nói gì với Bheki, cô ta ngừng lại nhìn tôi, tôi không ưa cái kiểu nhìn của cô ta, hống hách và bắng nhắng.
Florence đáp “Nó là bạn học ở trường”.
Tôi bảo “Nó phải về nhà đi. Thế này là quá lắm không chịu được. Sân sau nhà tôi không phải là chỗ đánh nhau, làm ầm ĩ, không phải chỗ cho người lạ ra vào”.
Có máu chảy ở miệng Vercueil. Kể cũng lạ, mặt sần sùi thế mà cũng có máu. Trông như mật ong trộn với tro vậy.
Florence nói “Nó không phải người lạ. Nó đến chơi thôi”.
Bheki nói “Phải có giấy phép mới đến được ư?” Nó và thằng bạn nhìn nhau. “Chúng tôi phải có giấy phép ư?” chúng chờ tôi đáp, vẻ thách thức. Chiếc radio vẫn phát một thứ tiếng gì không phải tiếng người, nghe rất mệt. Tôi chỉ muốn giơ tay lên bưng lấy tai.
Tôi nói “Tôi không nói giấy phép. Nhưng các cậu có quyền gì mà đến đây đánh người này. Người này đang ở đây. Đây là nhà anh ta”.
Mũi Florence phập phồng.
Tôi quay lại nói với cô ta “Phải, anh ta sống ở đây. Và đây cũng là nhà anh ta”.
Florence nói “Anh ta sống ở đây nhưng là đồ bỏ đi, đồ vô tích sự”.
–         Juis moer! – Vercueil nói. Anh ta nhấc mũ ra, tay cầm vào vành mũ, rồi giơ lên như muốn đánh cô ta – Juis moer!
Bheki giằng lấy mũ ném lên nóc nhà xe. Con chó sủa ầm ĩ. Chiếc mũ lăn dần xuống dốc mái.
Tôi nhỏ giọng nói riêng với Florence “Anh ta không phải là đồ bỏ đi. Không có ai là bỏ đi hết. Chúng ta đều là người với nhau cả”.
Nhưng Florence không thích nghe giảng giải. Cô ta nói “Đồ vô tích sự còn uống rượu. Suốt ngày chỉ uống rượu . Tôi không thích anh ta ở đây”.
Có phải anh ta vô tích sự thật không? Có lẽ đúng thế. Vô tích sự là một thành ngữ cổ của nước Anh, đến nay ít nghe ai nói.
Tôi bảo “Anh ta làm liên lạc cho tôi”.
Florence nhìn tôi vẻ hoài nghi.
Tôi nói “Anh ta giúp tôi gởi thư”.
Cô ta nhún vai. Vercueil cầm lấy mũ rồi cùng con chó thờ thẫn đi ra. Tôi nghe tiếng anh ta cài then cổng. Tôi nói “Bảo bọn trẻ đừng động đến anh ta. Anh ta chẳng làm gì hại ai hết”.
Như con mèo già bị đám mèo đực mới lớn đuổi cắn Vercueil lánh về một chỗ kín để chữa trị vết thương. Tôi hình dung trước cái cảnh mình sẽ như một bà già đi tìm con mèo, đến các công viên khẽ gọi “Ông Vercueil! Ông Vercueil!”.
Florence thì tự hào ra mặt vì việc Bheki tống khứ được anh chàng vô tích sự, nhưng cô ta đoán hễ trời mưa là thế nào anh ta cũng quay lại. Còn tôi, tôi đoán rằng anh ta không về chừng nào mấy thằng bé kia còn ở đây. Tôi bảo Florence “Cô làm thế thì Bheki và đứa bạn của nó tưởng có thể giơ tay đánh người lớn mà không bị trừng phạt. Đó là sai lầm. Dù cô nghĩ thế nào đi nữa. Vercueil cũng là bậc huynh trưởng của chúng nó!”.
–         Cô càng nhân nhượng, chúng càng hỗn láo. Cô bảo là khâm phục thế hệ con trai của cô vì chúng nó chẳng sợ gì hết. Cô hãy coi chừng, lúc đầu chúng nó có thể bất chấp chuyện sống của bản thân chúng, nhưng rồi sau cùng chúng sẽ bất chấp cả cuộc sống của mọi người khác. Cô khâm phục chúng như thế là không hay đâu.
–         Tôi cứ nghĩ mãi về những gì cô nói hôm trước. Cô bảo là thời buổi này chẳng còn cha mẹ gì nữa. Tôi không thể tin đó là cô nói thật. Không có cha mẹ thì con cái làm sao lớn lên được. Có những việc đốt phá, giết chóc, những hành động nhẫn tâm, kể cả việc chặn đánh ông Vercueil vừa rồi. Thử hỏi ai có lỗi? Tất nhiên là cha mẹ có lỗi, vì họ bảo con cái “Chúng mày muốn làm gì thì tùy, bây giờ chúng mày đã lớn rồi. Bố mẹ thôi, không bảo được nữa”. Thực ra có đứa con nào muốn nghe cha mẹ nói thế? Nó sẽ bỏ đi với tâm trạng hoang mang, nghĩ bụng “Bây giờ mình chẳng còn cha mẹ nữa. Thà cha mẹ chết đi cho xong”. Cô rũ bỏ trách nhiệm với chúng là đẩy chúng vào chỗ chết đấy.
Florence lắc đầu dứt khoát “Không đâu”.
“Cô nhớ năm ngoái cô nói gì khi thấy việc phi lý xảy ra trên phố không? Cô bảo cô “trông thấy một bà bị chúng đốt, bà ta kêu cứu nhưng đám trẻ cứ đứng đó cười, không những thế chúng còn đổ thêm dầu vào bà ta nữa”. Chính cô nói “trông thấy những cảnh như thế tôi làm sao mà sống được”.
Phải, đúng là tôi nói thế. Nhưng ai đã biến chúng thành kẻ ác độc như vậy? Chính bọn da trắng đã biến chúng thành độc ác! Đúng thế đấy! – Cô ta thở dài, buồn bã. Chúng tôi đang ngồi trong bếp. Cô ta đang ủi quần áo, cầm bàn ủi nhấn mạnh xuống. Cô ta ngước nhìn tôi, tôi khẽ nắm lấy tay cô ta. Cô ta nhấd bàn ủi lên, để lại trên mặt vải một miếng cháy xém.
Không tình thương, tôi nghĩ bụng. Đây là một cuộc sống không tình thương, không giới hạn. Một cuộc sống xứng đáng nhưng đã bỏ lỡ.
Tôi khẽ nói tiếp “Một ngày kia chúng lớn lên, cô tưởng chúng không còn ác độc nữa sao? Chúng sẽ trở thành cha mẹ như thế nào nếu người ta bảo là cái ác của cha mẹd đã qua rồi? Liệu có thể tái tạo được cha mẹ không khi ý tưởng về cha mẹ trong lòng ta đã bị phá huỷ? Chúng đấm đá đánh đập anh ta chỉ vì anh ta uống rượu. Chúng đốt chết người ta mà còn đứng đó cười. Vậy chúng sẽ đối xử với con cái chúng như thế nào? Liệu chúng còn  có thể yêu thương được nữa không? Trong con mắt ta, trái tim chúng đã biến thành đá, vậy cô bảo sao? Cô sẽ bảo “nó không phải là con tôi, nó là con người da trắng, nó là quỷ do người da trắng tạo nên”. Có phải cô chỉ biết nói thế thôi? Cô đổ hết tội cho người da trắng là xong chứ gì?”
Florence nói “Không, không đúng. Tôi không để mặc các con tôi”. Cô ta vôi gấp khăn lại. “Chúng nó là những đứa con ngoan. Chúng sắt đá lắm. Tôi tự hào về chúng”. Cô ta trải mấy chiếc áo gối lên mặt bàn. Tôi chờ cô ta nói tiếp nhưng không thấy nói gì thêm nữa. Cô ta không quan tâm đến việc tranh luận với tôi.
Tôi suy nghĩ về những đứa trẻ được gọi là sắt đá ấy. Bản thân của Florence đâu phải là sắt đá? Cái tuổi sắt đá. Sau đó là tuổi đồng chắc? Bao lâu nữa thì cái tuổi mềm yếu sẽ trở lại chu kỳ của nó, trở lại tuổi đất sét, tuổi trái đất. Một bà mẹ khắc khổ, có trái tim sắt đá, đẻ những đứa con là chiến binh của dân tộc? “Tôi tự hào về chúng”, cô ta nói thế để tự che đậy cho mình hay che đậy cho chúng?
Còn tôi? Trái tim của tôi ở đâu trong tất cả những chuyện này? Đứa con duy nhất của tôi đang ở xa đây hàng ngàn dặm, sống an toàn. Tôi sẽ trở thành tro bụi, và tôi còn thiết gì nữa khi tuổi trẻ đang bị khinh rẻ, khi bọn chúng ở trường bảo nhau chớ bao giờ cười, chớ bao giờ khóc, mà chỉ giơ nắm đấm như giơ búa? Phải chăng thời này không đúng lúc của nó, cái thời chui lên từ lòng đất, thời bị khinh rẻ, vô lý? Nhưng rút cuộc thì cái gì sinh ra tôi sắt đá nếu không phải đó là tuổi của đá hoa cương? Chẳng phải ta đã có những Vocrtrekkers, những thế hệ vocrtrekkers nối tiếp, những lớp trẻ Phi Châu nghiêm nghị, cứng rắn, hành quân hát những bài ca yêu nước , chào cờ và nguyện chết cho tổ quốc đó sao? Ons sal lewe, ons sal sterwe. Chẳng phải vẫn c`on những tên da trắng cuồng tín thuyết giáo cho chế độ cũ, chế độ kỷ luật, lao động, bảo thủ, hy sinh, chết chóc, dạy cho những trẻ còn quá nhỏ để buộc dây giày cho chúng đó sao? Từ đầu đến cuối chỉ là cơn ác mộng! Tinh thần Geneva chiến thắng ở Châu Phi. Calvin khoác áo dài đen, tỉnh khô, thản nhiên xoa tay hài lòng với hậu thế, miệng cười lạnh lùng. Calvin chiến thắng, tái sinh trong bọn giáo điều và bọn săn lùng kẻ ngoại đạo ở cả hai phía. Bỏ được tất cả những cái đó phía sau lưng thì may mắn biết chừng nào!
Thằng bạn Bheki đến bằng chiếc xe đạp màu đỏ, bánh to màu xanh nhạt. Đêm qua trước lúc đi ngủ tôi còn trông thấy chiếc xe ngoài sân, bóng loáng dưới ánh trăng. Bây giờ sáng nay nhìn ra ngoài cửa sổ, chiếc xe vẫn còn đó. Tôi uống vài viên thuốc buổi sáng rồi ngủ thêm vài giờ nữa. Tôi mơ thấy mình bị mắc kẹt trong đám đông. Người ta đẩy tôi, đánh tôi, chửi tôi bằng những lời doạ dẫm bậy bạ tôi không sao hiểu được. Tôi đánh lại nhưng tay tôi như tay trẻ con, chỉ đánh phù phù như đánh hơi.
Có tiếng ai nói to làm tôi tỉnh dậy. tiếng của Florence với người nào đó. Tôi rung chuông gọi, rung một lần, hai lần, ba lần, bốn lần. Cuối cùng Florence mới đến.
–         Florence, ai ở ngoài ấy thế?
Florence nhặt chiếc vỏ chăn dưới đất, gấp lại để dưới chân giưỡng rồi trả lời:
–         Chẳng có ai đâu.
–         Đêm qua thằng bạn của con cô có ở lại đây không?
–         Có. Đêm tối nó không dám về bằng xe đạp, nguy hiểm lắm.
–         Vậy nó ngủ ở đâu?
Florence nghĩ ngợi. “Ở nhà xe. Bheki với nó ngủ trong nhà xe”.
–         Làm sao chúng vào nhà xe được?
–         Chúng mở cửa sổ.
–         Trước khi làm thế, sao chúng không hỏi tôi?
Florence im lặng nhặt chiếc khay.
–         Florence này, thằng bé đó định ở lại nhà xe ư? Chúng ngủ trong xe của tôi hay sao?
Florence lắc đầu. “Tôi cũng chả biết. Bà phải hỏi chúng”.
Bữa trưa, chiếc xe đạp vẫn còn đó. Hai thằng ấy đi đâu không rõ. Tôi ra hộp thư thấy có chiếc xe cảnh sát màu vàng đỗ bên kia đường, trong xe có hai người mặc đồng phục, người ngồi phía bên này đang ngủ, áp mặt vào cửa kính.
Tôi ra hiệu cho người ngồi sau tay lái. Xe nổ máy, người đang ngủ bật dậy, chiếc xe trèo lên hè rồi quay vòng đến chỗ tôi đứng.
Tôi tiếng họ bước ra ngoài xe nhưng họ vẫn ngồi im không nói gì, chờ tôi lên tiếng. Một làn gió lạnh phía tây bắc thổi đến. Tôi kéo áo che cổ. Radio trong xe lạo xạo. “Vier-drie-agt”, tiếng một người đàn bà nói. Họ không để ý. Họ còn trẻ, mặc bộ đồ xanh.
Tôi hỏi “Tôi có thể giúp được gì? Các anh chờ ai chăng?”
Bà có thể giúp được gì ư? Tôi cũng chả biết. Bà cứ nói xem, bà có thể giúp chúng tôi được gì?
Tôi nghĩ bụng, vào cái thời của tôi, cảnh sát nói năng với phụ nữ rất lễ phép chứ đâu có thế. Vào cái thời của tôi, trẻ con không đến trường học. Vào cái thời của tôi ngày nay câu đó chỉ còn thấy trong những bức thư  gởi đến toà báo. Các cụ rất giận dữ, chỉ biết đặt bút viết câu đó, coi như vũ khí cuối cùng. Bây giờ thì “vào cái thời của tôi” đã hết rồi. Nó đã trở thành quá khứ trong cuộc sống.
–         Nếu các anh định tìm hai thằng đó thì tôi xin nói là chúng đã được tôi cho phép ở đây rồi.
–         Bà bảo hai thằng nào?
–         Hai thằng đến đây chơi chứ ai. Chúng là học sinh ở Guguletu.
Tiếng đài trong xe kêu òng ọc.
–         Không đâu bà ơi. Tôi chả biết thằng nào ở Guguletu hết. Bà muốn chúng tôi tìm hộ bà ư?
Họ nhìn nhau như có ý trêu chọc. Tôi nắm tay nắm cửa xe. Áo để hở, gió lạnh lùa vào cổ, vào ngực. Tôi nói bằng giọng khinh khỉnh “Vào cái thời của tôi cảnh sát không nói với phụ nữ như thế đâu”. Rồi tôi quay lưng đi vào.
Phía sau, đài trong xe lại quang quác như con gà mái. Có lẽ họ cố tình tạo ra thế. Tôi không thèm để ý. Một giờ sau, chiếc xe màu vàng ấy vẫn còn đỗ ngoài cổng.
Tôi bảo Florence “Thật tình tôi muốn cô đuổi thằng bé ấy về nhà. Nó sẽ gây rắc rối cho thằng con cô đấy”.
Florence đáp “Tôi không đuổi nó về được. Nếu nó đi thì Bheki cũng đi theo. Chúng nó là thế”. Cô ta chụm hai ngón tay giơ lên trời “Chúng nó ở đây an toàn hơn. Ở Guguletu luôn có chuyện rắc rối. Cảnh sát bất ngờ ập đến, bắn lung tung”.
Chúng bắn ở Guguletu sao? Florence biết thế ư? Cô ta biết cả những chuyện cách đây hàng ngàn dặm. Còn tôi chả biết gì hết. Những tin tức tôi nhận được đâu có nói gì về những chuyện rắc rối, bắn giết. Đất nước này, theo tôi biết, chỉ có những người láng giềng sống với nhau vui vẻ.
–         Nếu chúng về đây trốn tránh những vụ đánh nhau thì cảnh sát đuổi theo chúng làm gì chứ?
Florence thở dài. Từ khi đẻ đứa nhỏ, hình như trong lòng cô ta chứa chất điều gì bất mãn. Cô ta nói “Thừa bà, xin bà đừng hỏi tôi. Tại sao cảnh sát đuổi theo bọn nó, tại sao họ bắn và bỏ chúng vào tù? Xin bà đừng hỏi tôi nữa”.
Tôi nói “Thôi được, tôi không hỏi nữa. Nhưng tôi không muốn nhà này của tôi biến thành chỗ cho những kẻ chạy trốn khỏi thành phố về trú ngụ”.
Florence dướn người, vặn lại “Nhưng tại sao không được chứ? Tại sao không được chứ?”
Tôi mở vòi nước nóng, cởi quần áo, cố ngồi vào bồn tắm ngâm mình xuống nước. Tại sao không được? Tôi cúi đầu, tóc rũ xuống đầy mặt, chạm vào nước. Những đường gân xanh ở chân tôi nổi lên, trông như những chiếc que. Một bà già ốm đau, xấu xí, cố bám lấy những gì còn lại. Một người bức xúc với cái chết đang đến từ từ, càng muốn sống. Cảnh tượng chẳng thú vị chút nào. Có lẽ cũng sắp kết thúc rồi.
Nhà tắm không có chuông, tôi lên tiếng gọi “Florence!” Chỉ có âm thanh dội lại từ những đường ống trên trần và bức tường trắng. Khó mà tưởng tượng Florence nghe thấy tiếng tôi gọi. Nếu nghe được, sao cô ta không vào?
Mẹ yêu quý, tôi thầm nghĩ, mẹ nhìn con đây này, mẹ giơ tay ra đi!
Tôi rùng mình từ đầu đến chân. Tôi nhắm mắt và nhìn thấy mẹ tôi như bà vẫn thường xuất hiện trong tấm áo của người già, che kín mặt.
Tôi khẽ nói “Mẹ hãy đến đây với con!”.
Nhưng bà không đến. Bà giang rộng đôi tay như cánh diều hâu và bay thẳng lên trời. Bà bay cao mãi, cao mãi. Lên đến tầng mây, xuyên qua mây, và bay mãi. Càng lên cao càng trông bà trẻ ra. Tóc bà đen lại, làn da tươi tắn. Những mảnh áo cũ như lá khô rơi khỏi người bà, để lộ tấm áo xanh có lông chim ở lỗ khuy bà thường mặc như tôi nhớ từ hồi nhỏ, từ cái thời thế giới còn trẻ và mọi thứ đều muốn gì có nấy.
Bà cứ bay hoài, bay trong sự hoàn thiện vĩnh cửu của tuổi trẻ, không thay đổi, vẫn cười, vẫn khoan khoái, quên hết mọi thứ và bay vào vòng đai quả cầu tròn của thiên đường. “Mẹ ơi nhìn con này!” tôi chỉ nói nhỏ trong căn phòng tắm trống rỗng.
Năm nay mưa sớm. Đã mưa đến tháng thứ tư. Sờ tay vào tường là có ngay vệt ẩm. Có những chỗ vôi vữa rơi rụng và quần áo tôi có mùi đăng đắng của nấm mốc. Tôi lại thèm được mặc đồ lót khô ráo có mùi của nắng, chỉ có thế thôi! Hãy cho tôi được một lần nữa đi dạo trên lối đi vào chiều hè, giữa đám  trẻ có làn da bánh mật vừa ở trường về, cười nói rộn ràng. Người chúng toả mùi mồ hôi thanh thoát của tuổi trẻ, giữa những cô gái mỗi năm mỗi đẹp thêm, đẹp nữa. Nếu không ước như vậy thì những gì trước đây còn, sẽ còn mãi, chẳng bao giờ hết, từ đáy lòng tôi hàm ơn đã được ban cho một chút diệu kỳ trong thế giới của những điều kỳ diệu này.
Tôi ngồi trên giường viết những dòng này, đầu gối tôi khép chặt chống lại cái lạnh tháng Tám. Hàm ơn: tôi viết chữ ấy và đọc đi đọc lại. Nghĩa là thế nào nhỉ? Trong mắt tôi, những chữ ấy dầy đặc, tối đen, bí ẩn. Rồi có một cái gì đó xảy đến. Tim tôi từ từ mở bung ra, như trái lựu mở đôi bộc lộ những hạt nhỏ tình yêu. Hàm ơn và trái lựu là hai tiếng chị em.

Sáu giờ sáng nay, mưa to làm tôi thức dậy. Mưa xối xả chảy tràn bờ máng đã khô cứng, thấm vào mái ngói đã nứt nẻ. Tôi xuống nhà, pha ấm trà, quấn chăn vào người, ngồi xem những hóa đơn trong tháng.
Có tiếng cạch ngoài cổng và bước chân đi vào. Một bóng người cúi lom khom trùm bao nhựa đen chợt hiện bên cửa sổ.
Tôi ra ngoài hiên lên tiếng gọi trong làn mưa nặng nề “Ông Vercueil!” Không ai trả lời. Tôi rụt vai, khép áo ngủ, bước ra ngoài mưa. Đôi dép viền lông cừu ướt sũng. Tôi lội nước qua sân. Ở lối vào lán củi, tôi vấp phải một người. Vercueil đang đứng đó, quay lưng về phía tôi. Anh ta lên tiếng chửi thề.
Tôi quát “Vào trong kia! Vào nhà đi! Không đứng đây được!”
Anh ta vẫn trùm bao nhựa, theo tôi vào bếp. Tôi bảo “Bỏ cái đồ ướt ấy bên ngoài”. Tôi giật mình thấy có một người nữa theo sau. Một người đàn bà, nhỏ bé đứng đến vai tôi, nhưng đã già, hoặc ít ra là không trẻ, bộ mặt tinh khôn, da dẻ nhợt nhạt.
Tôi hỏi “Ai thế này?”
Vercueil quay nhìn tôi, đôi mắt vàng khè, thách thức. Tôi thầm mắng anh ta: đồ chó!
Tôi lạnh lùng nói “Các người chờ hết mưa rồi đi đi” rồi tôi quay lưng không nhìn họ nữa.
Tôi về phòng thay quần áo, khóa cửa, đem sách ra đọc. Tôi buồn ngủ nên chữ nghĩa cứ nhảy đi đâu mất như lá rụng. Mắt tôi díp lại, quyển sách rời khỏi bàn tay lúc nào không biết.
Lúc tỉnh dậy tôi nghĩ ngay đến việc đuổi họ ra khỏi nhà.
Không thấy người đàn bà kia đâu, nhưng Vercueil đã ở trong phòng khách, nằm cuộn tròn trên ghế dài, tay để đầu gối, đầu vẫn còn đội nón. Tôi lay anh ta. Anh ta thức giấc, liếm môi, ậm ừ ngái ngủ. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh y như thế của con gái tôi mỗi sáng gọi nó dậy đi học. “Đến giờ rồi!” Gọi xong tôi kéo màn cửa, tắt đèn nghe con lầm bầm trong miệng. “Dậy đi con yêu của mẹ, đến giờ rồi!” Tôi nói khẽ vào tai con, chưa vội giục giã để tôi còn ngồi vuốt tóc nó, những ngón tay tôi chứa đựng tình yêu, trong khi nó còn cố nằm lại. cứ nằm mãi như thế đi! Tôi đặt tay lên đầu con gái. Dòng sữa tình yêu qua tay tôi chạy sang người nó.
Bây giờ tiếng lẩm bẩm ngái ngủ dễ thương của nó được thể hiện ở cổ họng của người đàn ông này đây! Tôi có nên ngồi xuống bên cạnh, nhấc mũ và vuốt mớ tóc bạc của anh ta không? Tôi bỗng rùng mình ghê tởm. Yêu thương một đứa trẻ sao mà dễ thê, nhưng yêu một đứa trẻ đã trở thành một cái gì khác thì sao mà khó thế! Xưa kia anh ta đã từng bưng tai, nhắm mắt, đê mê trôi nổi trên bụng một người đàn bà như để hút máu. Anh ta cũng đã qua cửa rộng bước ra ánh sáng bên ngoài, biết thế nào là tình yêu của người mẹ, amor matris. Rồi với thời gian, anh ta héo hắt đi chỉ còn một mình, khô cằn, còi cọc, rúm ró, sống khổ, sống đơn chiếc, thiếu thốn như mọi cuộc sống trong trường hợp này còn thiếu dinh dưỡng hơn bao nhiêu người khác. Một con người ở tuổi trung niên còn mút chai, còn thèm khát được chiều chuộng nhưng còn cố hoảng hốt đạt được đến chỗ đó.
Trong khi tôi đứng nhìn anh ta, người đàn bà bước vào phòng. Chị ta không thèm nhìn tôi, loạng choạng rơi mình xuống đống gối trên sàn. Chị ta có mùi nước hoa. Nước hoa của tôi. Florence bước vào với vẻ giận dữ.
Tôi nói “Florence, cô đừng yêu cầu tôi giải thích. Cứ để mặc họ. Họ ngủ để quên đi chuyện gì đó”.
Đôi mắt kính của Florence lấp lánh. Cô ta định nói gì nhưng tôi ngăn lại. “Cứ để mặc ho. Cô yên tâm. Họ không ở lại đây đâu”.
Tuy tôi đã giật nước nhiều lần, thứ mùi kinh tởm trong nhà vệ sinh vẫn không bay đi hết. Tôi quẳng chăn chiếu ra ngoài mưa.
Sau đó lúc bọn trẻ ngồi ăn sáng trong bếp với Florence, tôi lại xuống nhà. Không cần rào đón, tôi nói thẳng với Bheki:
–         Tôi nghe nói cậu và bạn của cậu ngủ trong nhà xe của tôi. Tại sao cậu không xin phép tôi?
Bheki im lặng, không nhìn lên. Florence tiếp tục nướng bánh.
–         Tại sao các cậu không xin phép tôi? Trả lời đi!
Đứa con gái nhỏ ngừng nhai bánh, chằm chằm nhìn tôi.
Tại sao tôi lại đối xử lố bịch như thế nhỉ? Vì tôi đang tức. Có thể  tôi đang mệt mỏi vì bị người khác lợi dụng. Vì chúng ngủ trong xe tôi. Xe và nhà là của tôi. Tôi đã lẫn đâu chứ.
May mà lúc đó Vercueil xuất hiện, không khí đỡ căng thẳng. Anh ta đi qua bếp ra ngoài hiên, không nhìn ngang nhìn ngửa. Tôi theo ra. Con chó thích thú nhảy câng câng. Nó nhảy cả vào người tôi, chân nó ướt nên làm bẩn chiếc váy. Không ai muốn trách mắng một con chó.
Tôi bảo anh ta “Anh hãy bảo bạn anh đi đi”.
Anh ta không đáp, mắt nhìn bầu trời đầy mây.
Tôi bực mình quát “Anh hãy bảo chị ta đi ngay! Không tôi đuổi đấy!”
Anh ta vẫn lờ đi.
Tôi gọi Florence “Cô giúp tôi với”.
Người đàn bà nằm úp mặt xuống đống gối, mép chảy dãi. Florence đưa tay kéo. Chị ta uể oải đứng dậy. Florence nửa dắt nửa đẩy, thúc chị ta ra ngoài. Vercueil bước theo. Tôi mắng “Thế này thì quá lắm!”
Hai thằng kia đem xe đạp đi. Chúng làm như không biết có chuyện gì ở đây, phóng xe ra phố Schoonder, Bheki ngồi lom khom trên thanh ngang còn bạn nó đạp.
Người đàn bà kia lè nhè văng bậy, chửi Florence bằng một lô một lốc những lời tục tĩu. Florence ranh mãnh nhìn tôi nói “Đó cũng là đồ bỏ đi!”
Tôi bảo Vercueil “Tôi không muốn thấy mặt người đàn  bà này nữa”.
Chiếc xe đạp của hai đứa xuất hiện ở đầu phố Schoonder, phóng về phía này. Thằng bạn Bheki cúi đầu đạp. Chiếc xe cảnh sát màu vàng hôm qua chạy theo sau.
Góc phố đang có nhiều chiếc xe tải nhỏ đỗ ở đó. Xe chở đường ống, gậy và vật tư chữa ống nước. Cạnh xe có một khoảng nhỏ đủ cho xe đạp lách qua. Nhưng lúc đó chiếc xe màu vàng phóng đến chỗ hai đứa, một cánh cửa bỗng bật mở quật vào chúng. Chiếc xe đạp mất tay lái rơi ra. Tôi nhìn thấy rõ Bheki lăn xuống, tay ôm đầu, chân thằng kia còn dính vào bàn đạp, nó chỉ biết giơ tay lên che mặt. Giữa tiếng xe cộ ồn ào ở phố Mill, tôi còn nghe thấy cả tiếng thân người đập xuống đất đánh huỵch, kèm theo tiếng kêu “A” thật to khi chiếc xe đạp văng vào xe tải. Tôi thét lên “Trời đất ơi!” không nhận ra giọng của mình nữa. Thời gian như ngừng lại rồi tiếp tục trôi. Trong khoảnh khắc ấy, một đứa giơ tay chống đỡ khỏi lăn xuống cống. Tiếng tôi thét vọng ra tận góc Schoonder trong buổi sáng yên lành của một ngày bình thường, vừa lúc chiếc xe màu vàng cũng rẽ ngoặt ở góc đường.
Một con chó như chó săn ở đâu chạy đến. Con chó của Vercueil ra ngửi. Con kia không đếm xỉa gì đến nó, lè lưỡi liếm hè đường. Tôi muốn đến gần nhưng không cử động được. Người tôi lạnh toát, chân tay bủn rủn, chợt nghĩ mình sắp ngất tuy cả đời tôi chưa bao giờ ngất. Tôi lại nghĩ đất nước này ngất thì có! Lạy Chúa đất nước này đâu còn nữa!
Cửa mở, một người mặc quần áo lao động màu xanh xuất hiện. Anh ta đá con chó săn một phát, nó giật bắn mình rồi bỏ chạy. Anh ta thốt lên “Giêsu!”  rồi cúi người xuống thằng bé đang bị mắc vào khung xe đạp.
Tôi run rẩy bước đến gọi “Florence!” Không thấy cô ta đâu.
Người kia nhắc xe đạp để qua một bên. Bheki đang nằm dưới thằng bé kia. Mặt nó nhăn nhó, nhắm mắt, liếm môi. Con chó của Vercueil định đến liếm nó. Tôi khẽ doạ nó “Cút đi!” đưa chân đẩy nó ra. Con chó lại vẫy đuôi.
Cạnh tôi bỗng có một chị nữa. Chị ta lau tay hỏi “Những đứa trẻ này bán báo hả? Chúng là trẻ bán báo, có phải không?” Tôi lắc đầu.
Người đàn ông mặc đồ xanh ngồi dạng chân trên đầu hai đứa, vẻ như băn khoăn thế nào đó. Tôi nghĩ anh ta nên nhấc đứa đang nằm sấp đè lên Bheki. Nhưng anh ta không làm thế. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao. Nhìn kiểu thằng bé nằm tôi thấy có cái gì không tự nhiên.
Người đàn bà nói “Để tôi đi gọi xe cứu thương”.
Tôi cúi xuống nhấc cánh tay thằng  bé. Anh ta nói vội “Khoan đã! Cẩn thận đấy!”
Tôi đứng thẳng dậy, đầu óc choáng váng, phải nhắm mắt lại.
Anh ta luồn tay dưới vai thằng bé nâng nó ra khỏi Bheki rồi đặt nó xuống hè đường. Bheki mở mắt.
Tôi gọi “Bheki!” Nó lặng lẽ nhìn tôi, không nói gì cả. Tôi bảo “Không sao hết”. Nó nhìn tôi biết tôi nói dối nhưng kệ. Tôi lại bảo “Xe cứu thương sắp đến”.
Florence đã có mặt. Cô ta quỳ bên con khẽ vỗ vào đầu, cuống quýt hỏi. Nó lẩm bẩm vài câu. Cô ta ngừng tay nghe nó nói. Tôi giải thích “Chúng nó đâm vào xe tải”. Người mặc áo xanh nói “Đó là xe tải của tôi”. Tôi nói “Cảnh sát đẩy chúng nó vào. Thật kinh tởm. Họ đúng là hai viên cảnh sát đã ở đây hôm qua”.
Florence luồn một tay nâng đầu Bheki. Nó từ từ ngồi dậy. Một chiếc giày bị văng đi, một chỗ ở quần rách toang, thấm máu. Nó nhăn mặt gỡ chỗ rách ở vết thương. Bàn tay nó cũng toác, vài chỗ bóc da. Tôi nói “Xe cứu thương sắp đến rồi”. Florence nói “Không cần xe cứu thương”.
Cô ta nhầm. Lúc này thằng bé kia đã lật ngửa. Người thợ chữa nước cởi áo bịt dòng máu đang chảy trên mặt nó. Máu vẫn tiếp tục chảy. Nhấc áo lên thấy mặt nó bị toác một miếng như bị dao hàng thịt chém. Máu tràn xuống mắt thằng bé. Tóc nó dính đầy máu bóng nhẫy. Máu nhỏ cả xuống hè đường, bắn ra khắp nơi. Tôi chưa bao giờ thấy máu có thể đen và đặc như vậy. Tôi nghĩ tim nó rất khoẻ nên mới tuôn ra nhiều máu thế.
Anh thợ chữa nước hỏi “Xe cứu thương có đến không? Tôi không làm sao cầm được máu”. Anh ta toát mồ hôi, xoay đủ kiểu ngồi. Giày của anh ta cũng lõng bõng những máu.
Tôi chợt nhớ hồi con mười một tuổi, lúc cắt bánh bị dao cứa đứt ngón tay cái. Mẹ vội đưa con đến phòng cấp cứu ở Groote Schuur. Hai mẹ con ngồi chờ đến phiên phải lấy vải buộc chặt ngón tay để cầm máu. Con chỉ hỏi mẹ “Con có sao không?” Mẹ khẽ đáp “Họ sẽ chữa và khâu tay cho con. Chỉ mấy mũi khâu thôi, đau một tí thôi”.
Hôm ấy vào chiều thứ Bảy, nhưng bệnh nhân vẫn rất đông. Thấy có một người đi giày trắng, mặc đồ lớn, cứ khạc máu vào đĩa. Rồi một thanh niên nằm thẳng, phanh ngực, cởi thắt lưng, ôm một bọc vải thấm máu trên bụng. Máu chảy ra sàn, ra ghế. Một tí máu nhỏ nhoi ở ngón tay của con thấm gì đâu so với đống máu nơi ấy? Chỉ mất vài giọt trong kho máu của con mà cũng là của mẹ đó thôi. Đất nước này có thiếu gì máu chảy. Chồng Florence mặc áo dầu đeo ủng lội trong máu đấy. Những con bò đem ra chém đứt cổ cũng phun máu như cá voi phun nước đấy. Mảnh đất khô ráo này lõng bõng những máu của các sinh vật đấy thôi, đất nước này đã uống hàng sông máu mà có bao giờ thấy chán đâu.
Tôi bảo anh thợ chữa nước “Để tôi”. Anh ta tránh ra. Tôi quỳ xuống nhấc cái áo sũng máu để sang bên.  Máu tràn xuống mặt mũi thằng bé. Tôi lấy ngón cái và ngón trỏ kẹp chặt chỗ vết thương bị toác. Con chó của Vercueil lại mò đến. Tôi gắt “Đuổi nó đi!” Anh thợ chữa nước đá nó một phát. Nó kêu ăng ẳng bỏ chạy. Vercueil đâu ấy nhỉ? Có đúng là anh ta vô tích sự không? Tôi bảo anh thợ chữa nước “Anh gọi điện thoại nữa đi”.
Ngón tay tôi kẹp chặt cũng cầm được khá nhiều máu. Chỉ lỏng tay một lúc là máu ộc ra. Chỉ có máu, không có gì khác. Như máu của con và của mẹ. Chưa bao giờ tôi thấy máu vừa đỏ lại vừa đen như thế. Có lẽ vì máu chảy trên làn da mềm mại của tuổi trẻ như thế, mà trong tay tôi thì máu càng đậm và bóng hơn máu thường. Tôi nhìn máu, vừa thấy lạ vừa thấy sợ, càng nhìn càng sợ. Nhưng không thể vì sợ mà không làm gì để ngăn máu chảy. Tôi tự hỏi tại sao? Rồi tôi tự trả lời vì máu rất quý, quý hơn cả vàng bạc kim cương, vì máu chỉ là một. Máu là cái ao chung được phân ra cho cuộc sống riêng của mỗi chúng ta. Máu thuộc về thiên nhiên, chỉ cho ta mượn, không cho hẳn, để ta giữ chung, tin cậy và bảo tồn nó, tưởng như máu chảy trong chúng ta, tưởng thế thôi, nhưng sự thật là ta sống trong nó.
Một biển máu đọng lại, phải chăng lúc tận thế là như vậy? Máu của tất cả. Như biển Baikal vừa đỏ vừa đen dưới bầu trời xanh Siberi lạnh lẽo, như những tảng đá bao quanh, như những bờ tuyết trắng đông đặc lại. Máu của toàn thể nhân loại chăng? Không đâu. ở một chỗ khác, nơi đập nước ngăn bằng đất bùn, dây thép gai vây quanh và mặt trời sáng chói, nhiều dân bản địa Châu Phi và những người lãnh đạo họ đã dựng lại rất nhiều.
Máu thiêng liêng bị khinh rẻ. Con, dat thịt của da thịt mẹ, máu huyết của máu huyết mẹ, mỗi tháng vẫn chảy ra trên đất nước người đó.
Đã hai chục năm nay mẹ không ra máu nữa. Căn bệnh cắn nát người, người mẹ đã khô rồi, không có máu, từ từ lạnh toát. Có cái gì đó mẹ không dám nghĩ đến. Mang trong bụng những thứ lớn lên lạnh lùng bẩn thỉu ấy, mang mầm mống quá hạn tự nhiên ấy, mẹ không thể chịu được, mẹ không thể thoả mãn cái đói của chúng, mỗi ngày những đứa con trong bụng mẹ đòi ăn nhiều hơn, chúng không lớn mà chỉ to xác, mọc răng, mọc nanh vuốt, mãi mãi thản nhiên đòi ăn. Chúng khô dần. Đêm đêm mẹ cảm thấy chúng xoay mình trong thân hình khô héo của mẹ, chúng không duỗi chân đạp như đứa con thật mà chúng đổi tư thế, tìm chỗ mới để gặm nhấm, như trứng côn trùng nằm trong một cơ thể khác, lớn lên gặm dần cơ thể ấy một cách không thương tiếc. Trứng lớn dần trong mẹ. Phải, là mẹ, của mẹ. Mẹ viết những dòng này mà rùng mình lo sợ, nhưng đó là sự thật. Là cái trứng của những đứa con gái chị em với cuộc sống của con gái mẹ. Ôi, thật đáng ghê sợ khi lòng người mẹ đi đến chỗ phải tự nhại mình! Một bà già héo hắt khom lưng trên mình đứa trẻ, tay dính máu. Hình ảnh thật xấu xa như trường hợp của tôi lúc này vậy. Tôi đã sống rất lâu. Chỉ còn  cái chết bị thiêu sống mới là cái chết xứng đáng. Bước vào lửa, cháy như ngọn đuốc, phút cuối cùng cảm thấy những người chia sẻ với mình cũng hoảng sợ gào khóc, dùng giọng nói cứng rắn it khi dùng để được cháy và mất hẳn, được thoát nợ, rời bỏ thế giới mà lòng nhẹ nhõm. Lớn lên quái gở, ra đời không đúng lúc, là dấu hiệu mình đã quá thời. Đất nước này đang vậy. Đã đến lúc phải vứt nó vào lửa, phải chấm dứt, phải cho nó mọc lên từ đống tro tàn.
Lúc xe cứu thương đến, người tôi cứng đơ không nhấc chân lên được. Tôi vừa rời tay, vết thương lại toác ra. Tôi bảo “Thằng bé mất nhiều máu lắm”. Người trên xe cứu thương đáp gọn “Không nghiêm trọng”. Vạch mí mắt thằng bé, anh ta nói “Chấn thương. Chuyện xảy ra thế nào?”
Bheki ngồi ở giường, cởi quần, hai tay ngâm vào chậu nước. Florence quỳ trước mặt băng bó chân cho nó.
Tại sao cô bỏ tôi một mình để trông nó? Tại sao cô không ở lại giúp một tay?
Tôi cự nự. Tất nhiên rồi, chẳng lẽ tôi không đúng lấy một lần ư?
Florence đáp “Tôi không muốn dính đến cảnh sát”.
Vấn đề không phải thế. Cô để tôi một mình chăm sóc thằng bạn của con cô. Tại sao tôi phải là người chăm sóc cho nó chứ? Nó chẳng là cái gì đối với tôi hết.
Bheki hỏi “Nó đâu rồi?”
“Nó bị chấn thương. Họ mang nó đến bệnh viện Woodstock”
“Chấn thương là thế nào?”
Nó hôn mê. Nó bị đập vào đầu. Cậu biết tại sao bị như thế không?
Nó đáp “Họ đẩy chúng tôi”.
Phải, họ đẩy các cậu. Tôi trông thấy thế. May mà cậu còn sống đấy. Cả hai còn sống. Tôi sẽ làm đơn kiện.
Bheki và mẹ nó nhìn nhau. Florence nói lại “Chúng tôi không muốn dính đến cảnh sát. Bà chả làm thế nào chống lại được cảnh sát đâu”. Hai mẹ con lại nhìn nhau và có vẻ cùng đồng ý.
Nếu không kiện thì họ sẽ tiếp tục đối xử như họ muốn. Dù không đi đến đâu cũng phải chống lại, không chỉ nói riêng cảnh sát, tôi nói cả những người cầm quyền. Phải cho họ thấy là ta không sợ. Chuyện này quan trọng. Bheki, họ có thể giết cậu đấy. Mà họ chống cậu vì cái gì cơ chứ? Cậu và thằng bạn cậu đã làm gì?
Florence thắt nút băng ở chân nó và rỉ tai nó, nó bỏ tay ra ngoài chậu. Mùi thuốc khử trùng xông lên.
Tôi hỏi “Có đau lắm không?”
Nó lật ngửa bàn tay. Máu còn rỉ ở mảng vết thương. Những vết thương danh dự chăng? Có thể xếp vào loại vết thương danh dự, vết thương chiến đấu được không? Nhìn hai bàn tay chảy máu, tôi có cảm tưởng nó cố nén khóc. Nó chỉ là đứa trẻ thôi, chỉ đi xe đạp thôi.
Tôi nói “Thằng bạn cậu, có nên báo cho cha mẹ nó biết không?”
Florence nói “Để tôi gọi điện”.
Florence ra gọi điện. Cô ta nói to và nói lâu. Cô nhắc đến bệnh viện Woodstock.
Vài giờ sau có người gọi qua điện thoại công cộng, một người đàn bà muốn gặp Florence.
Florence báo cáo lại “Nó không ở bệnh viện”.
Tôi hỏi “Mẹ nó đấy à?”
“Bà ngoại nó”.
Tôi gọi cho bệnh viện Woodstock, tôi nói “Tôi có hỏi tên nó được đâu. Nó bị hôn mê lúc họ đem nó đi”.
Người kia đáp “Không có bệnh nhân nào có tên ấy”.
“Nó bị một vết thương rất to ở trán”.
Người kia nhắc lại “Không có”. Tôi bỏ máy.
Bheki nói “Họ làm việc cho cảnh sát đấy. Xe cứu thương, bác sĩ, cảnh sát, tất cả đều một giuộc”.
“Thế thì vô lý” tôi nói.
Chẳng ai tin vào xe cứu thương nữa đâu. Họ có bắt đài liên lạc với cảnh sát.
Vô lý.
Nó mỉm cười dễ thương, có vẻ như khoái với cơ hội lên lớp cho tôi, để tôi biết sự thật ở đời thường là như thế nào. Tôi, một bà già sống cô đơn, không con cái, chẳng còn biết gì. Nó bảo “Đúng thế đấy. Bà cứ nghe rồi sẽ biết”.
–         Tại sao cảnh sát lại đuổi theo các cậu?
–         Họ không đuổi theo tôi. Họ đuổi theo tất cả mọi người. Tôi chẳng làm gì hết. Nhưng thấy bất cứ ai họ cũng cho đó là học sinh, tìm cách bắt bớ. Chúng tôi chẳng làm gì hết. Chúng tôi chỉ bảo là không đi học vì họ đang tiến hành khủng bố chúng tôi. Ho đúng là quân khủng bố.
–         Tại sao các cậu không chịu đi học?
–         Học để làm gì? Để chúng tôi thích hợp với chế độ apacthai ư?
Tôi lắc đầu, quay sang Florence. Cô ta không che dấu một nụ cười. Con cô ta đúng. Dù sao cũng mặc nó. Tôi bảo “Tôi đã quá già ốm với chuyện này rồi. Tôi không thể tin là cô để con cô lang thang ngoài phố, chờ cho đến khi kết thúc chế độ apacthai. Apacthai không thể chết ngay ngày mai hay ngày kia đâu. Nó làm thế chỉ hại cho tương lai của nó thôi”.
Bheki hỏi với giọng thách thức tôi, ra vẻ thắng thế “Phải tiêu diệt chế độ apacthai, hay tôi phải đi học thì cái nào quan trọng hơn?”
Tôi chán ngán trả lời “Không thể lựa chọn như thế”. Nhưng tôi có đúng không nhỉ? Nếu không lựa chọn thế, thì lựa chọn cái gì đây? Tôi đề nghị “Hãy đưa cậu đến Woodstock. Nếu đi phải đi ngay bây giờ”.
Trông thấy Vercueil, Florence sững người. Nhưng tôi khăng khăng bảo “Phải để anh ta đi cùng, đề phòng xe hỏng”.
Tôi đánh xe cho tất cả đi Woodstock. Ngồi cạnh Vercueil mùi hôi hơn bao giờ hết, cái mùi còn thảm khốc nữa. Florence và Bheki im lặng ngồi sau xe. Xe cố leo dốc đến bệnh viện. Tôi vẫn còn tỉnh táo để đỗ xe và chúc mũi xuống đầu dốc.
Người ở bàn thường trực nói “Tôi đã bảo không có người như thế ở đây. Không tin bà vào xem bảng đi”.
Tôi rất mệt nhưng lẽo đẽo đi theo Florence và Bheki qua các phòng nam. Đang giờ nghỉ trưa. Chim bồ câu rù rì gọi nhau trên  cây bên ngoài. Chúng tôi không thấy đứa nào bị quấn băng trên đầu, chỉ có mấy ông già đang mặc đồ ngủ ngồi nhìn lên trần nghe đài phát thanh. Tôi nghĩ bụng họ đều là anh em của tôi hết. Đây mới là chỗ của tôi.
Tôi ra quầy hỏi “Nếu họ không đem nó đến đây thì đem đi đâu?”
Thử hỏi Groote Schuur xem.
Tôi đỗ xe ở Groote Schuur đã kín đặc. Chúng tôi phải chờ nửa giờ ở cổng, xe vẫn để nổ máy. Florence ngồi nói chuyện với con, Vercueil mở mắt trừng trừng, còn tôi thì ngáp. Y như một ngày cuối tuần buồn ngủ ở Châu Phi vậy, y như đánh xe cho gia đình đi chơi vậy. Chúng tôi có thể bày trò chơi chữ để  giết thì giờ, nhưng mời ba người này chơi thì họ biết gì? Chơi chữ là trò trước kia tôi thường chơi một mình, nhớ lại lúc đó. Những người thuộc tầng lớp trung lưu chúng tôi, tầng lớp sung túc, ngày Chủ nhật thường ra ngoại ô đến bờ biển có cảnh đẹp, chiều đến uống trà với bánh ngọt, ăn dâu và kem, ngồi trong phòng trà nhìn ra phía tây chỗ có cảnh biển.
Một chiếc xe quay ra, có chỗ cho chúng tôi vào đậu. Vercueil nói “Tôi ngồi lại ngoài này”.
Tôi hỏi bàn thường trực “Người bị chấn thương ở đầu ở đâu?”
Chúng tôi đi dọc hành lang đông người tìm đến tầng C-5, chui vào thang máy chật ních với bốn phụ nữ Hồi giáo, trùm khăn, tay cầm đĩa thức ăn. Bheki thấy mình băng bó nên giấu tay ra sau lưng. Qua C-5, đến C-6, vẫn không thấy thằng bé. Florence  giữ một cô y tá lại hỏi. Cô ta nói “Thử sang nhà mới xem”. Tôi mệt quá lắc đầu nói “Tôi chịu, không đi được nữa, cô và Bheki cứ đi đi. Tôi đợi ngoài xe”.
Đúng là tôi rất mệt, hông đau, tim đập thình thịch, miệng đắng ngắt. Nhưng tôi chợt nhìn ra thấy có rất nhiều người đau ốm. Họ làm tôi bực bội, sợ hãi. Đàn ông, đàn bà, da đen, da trắng, họ đi lại trong hành lang nhìn nhau bằng những con mắt ganh tị, họ nhìn tôi rất gần, cảm thấy từ người tôi phát ra mùi chết chóc. “Đồ lừa đảo!” hình như họ khẽ nói với tôi như thế, sắp sửa nắm lấy cánh tay tôi kéo lại. “Bà tưởng có thể tiếp tục ở lại chỗ này được ư? Bà không biết thể lệ ư? Đây là ngôi nhà của bóng tối, của đau khổ, phải qua đây trên đường đi đến chỗ chết. Đây là chỗ tuyên án mọi người, là kỳ hạn ngồi tù trước khi bị hành quyết”. Những con chó săn già đi tuần tiễu trong hành lang, chú ý không cho phạm nhân nào chạy trốn lên trời, lên thế giới sáng sủa hưởng lộc trên kia. Chỗ này là địa ngục, còn tôi là cái bóng đang trốn chạy. Bước qua cửa, tôi rùng mình lo sợ.
Chúng tôi ngồi đợi ngoài xe, Vercueil và tôi, như một đôi đã lấy nhau quá lâu, lầm lì, không thèm nói. Tôi nghĩ có lẽ mình đã quen với mùi hôi của anh ta và cùng với Nam Phi tôi cũng cảm thấy thế, không biết chừng đã quen với mùi hôi của nó? Hôn nhân là số phận, ta lấy nhau thế nào sẽ thành ra thế. Chúng tôi ở Nam Phi thì sẽ trở thành người Nam Phi, xấu xí, tối tăm, lờ đờ, dấu hiệu duy nhất của sự sống là những con chó răng nanh khi ta thoáng gặp. Nam Phi là con chó già xấu tính nằm lim dim ở lối đi vào, chờ đến lúc thức dậy. Ai mà đặt một cái tên ngẫu hứng cho một đất nước như thế. Ta hãy hy vọng họ sẽ đổi tên khi bắt đầu lại.
Một tốp mấy cô y tá đi qua, cười nói vui vẻ. Họ vừa xong việc. Tôi nghĩ bụng mình vừa thoát khỏi tay họ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ giá được họ chăm sóc cho thì tốt hơn, khăn trải giường sạch sẽ những bàn tay lanh lẹn xoa dịu khiến mình sẽ đỡ được bao nhiêu vất vả. Nhưng tại sao tôi lại không chịu? Tôi cảm thấy nghẹn trong cổ, nước mắt muốn tràn ra, tôi quay mặt đi chỗ khác. Tôi biết đó chỉ là cơn mưa bóng mây, như thời tiết nước bốc hơi. Nhưng sự thật là càng lúc tôi càng dễ khóc, càng dễ thẹn. Có lần tôi quen biết một người đàn bà (mẹ kể chuyện này được chứ con?) rất dễ sướng trong lúc làm tình. Bà ta bảo cái sướng ấy chạy trong người làm bà ta rùng mình liên tục như sóng cuộn. Tôi tự hỏi sao có thể sống với một cơ thể như vậy được? Chẳng lẽ cái sướng ấy biến mình thành nước sao? Bây giờ thì tôi đã có câu trả lời. Đó chỉ là một loạt những cảm giác của nước mắt, làm cho mình loãng ra. Không phải nước mắt của đau đớn mà nước mắt buồn tủi, nỗi buồn nhẹ nhàng, thoáng qua, như màu xanh, không xanh đậm, mà xanh nhạt của bầu trời xa xăm, giống như những ngày đông vắng sương mù. Đó chỉ là những điều riêng, là một lúc náo động trong cái ao của tâm hồn, điều mà tôi không còn bận tâm giấu giếm nữa.
Tôi lau nước mắt, khịt mũi. Tôi bảo Vercueil “Anh chẳng cần ngượng thay cho tôi. Tôi khóc mà không có lý do gì. Tôi cám ơn anh đã cùng đi”.
Anh ta nói “Tôi không hiểu bà cần tôi làm gì”.
–         Khó có thể cô đơn mãi được. Có vậy thôi. Tôi không chọn anh, nhưng anh đang có mặt tại đây, và thế là đủ. Anh đã đến. Giống như tôi có đứa con vậy. Làm sao mà chọn con được. Nó tự đến thôi.
Anh ta nhìn ra xa mỉm cười ranh mãnh.
Tôi nói “Vả lại, anh đã đẩy xe giúp tôi. Nếu không dùng xe được, tôi chỉ có việc nằm kẹt ở nhà”.
–         Xe bà chỉ cần có bình ắc quy mới thôi.
–         Tôi không cần ắc quy mới. Anh không hiểu gì sao? Có cần giải thích không? Xe này cũ rồi, nó thuộc về một thế giới hầu như không còn tồn tại nữa, nhưng mà nó vẫn còn chạy được. Những gì còn lại của thế giới ấy, những gì còn chạy được, tôi cố bám lấy. Tôi thích hay ghét cũng không quan trọng. Lạy Chúa, sự thật là tôi thuộc về nó cũng chỉ như tôi thuộc về cái gì đã thành xưa cũ. Đây là một thế giới trong đó xe cộ không thể tuỳ thuộc ở chỗ khi nào anh muốn chạy thì nó chạy. Ở cái thế giới của tôi, anh phải thử bộ phận tự khởi động. Nếu nó không chạy, anh phải thử bằng cách quay tay. Nếu nó vẫn nhất định không chạy thì phải có người đẩy. Còn nếu xe đã không chạy thì anh phải ngồi xe đạp hoặc đi bộ về nhà. Đó, sự vật là như thế trong cái thế giới mà tôi thuộc về nó. Ở đây tôi thấy dễ chịu, vì nó là một  thế giới tôi hiểu được. Tôi thấy không cần phải thay đổi gì hết.
Vercueil không nói gì hết.
Tôi nói thêm “Còn nếu anh tưởng tôi là một loại hoá thạch của quá khứ, thì đã đến lúc anh cũng nên tự hỏi lại mình. Anh đã thấy đấy, lớp trẻ thời nay nghĩ thế nào về rượu chè, nằm vật vạ và mặc sự đời. Anh cứ đứng đấy. Ở nước Nam Phi tương lai, mọi người đều phải làm việc, kể cả anh. Có thể anh không thích cái triển vọng đó, nhưng anh nên chuẩn bị cho mình thì hơn”.
Chỗ đỗ xe đã gần tối. Florence đâu nhỉ? Cái đau ở hông làm tôi mệt bã người. Đã quá giờ tôi phải uống thuốc.
Tôi nghĩ về ngôi nhà trống vắng, về đêm dài nằm ngủ. Tôi lại ứa nước mắt. Dễ khóc thế đấy.
Tôi nói “Tôi đã kể anh nghe về con gái của tôi ở Mỹ. Nó là tất cả đối với tôi. Tôi chưa nói cho nó biết toàn bộ sự thật về tình trạng của tôi. Nó biết là tôi đau ốm, biết là tôi đã được mổ, nó nghĩ là mổ thành công và tôi đã khá hơn. Ban đêm nằm trên giường tôi nhìn vào cái hố đen ngòm tôi sẽ rơi xuống đó, chỉ có nghĩ đến nó tôi mới giữ được tỉnh táo. Tôi tự nhủ, mình đã cho cuộc đời này một đứa con, đã thấy nó trưởng thành, thấy nó được an toàn trong cuộc sống mới, điều tôi đã làm ấy không bao giờ có thể lấy đi của tôi được. ý nghĩ đó là chiếc gối cho tôi bám chặt vào mỗi khi gặp giông tố”.
–         Có một nghi thức nhỏ thỉnh thoảng giúp tôi giữ được bình tĩnh. Tôi tự nhủ: ở đây, bên này thế giới là hai giờ sáng, vậy là sáu giờ chiều ở bên nó. Thử tưởng tượng đi, sáu giờ chiều. Tưởng tượng nữa, tưởng tượng đủ mọi thứ đi. Nó vừa đi làm về, treo áo lên mắc, mở tủ lạnh lấy gói đậu, đổ đậu vào bát, rồi lấy hai củ hành ra bóc. Hãy tưởng tượng những thứ đó đi, hãy tưởng tượng cái thế giới nó đang làm việc ấy, thế giới của những mùi vị và âm thanh ấy. Hãy tưởng tượng một buổi chiều hè ở Bắc Mỹ, đám ruồi bu ngoài cửa sổ, lũ con nít í ới gọi nhau ngoài đường phố. Hãy tưởng tượng con gái tôi trong nhà, sống cuộc sống của nó, tay cầm hành ở một đất nước nó sẽ sống và chết trong hoà bình. Thời gian trôi đi, đất nước ấy cũng như đất nước này và cả thế giới, đều sống cùng một nhịp. Hãy tưởng tượng những cái đó trôi đi như thế nào, trôi đi với nơi này sáng nơi kia tối. Nó đi ngủ, nằm mơ màng, bên cạnh chồng trên chiếc giường cưới, ở một đất nước thanh bình. Tôi nghĩ đến thân hình nó, vững vàng, sống thật thanh thoát. Tôi thèm được ôm nó. Tôi muốn nói với nó tự đáy lòng “Mẹ cám ơn con”. Tôi cũng muốn nói “Hãy cứu mẹ!” Nhưng không bao giờ nói được!
Anh hiểu không? Anh hiểu không?
Cửa xe mở. Vercueil nghiêng người ra xa, dựa đầu vào khung cửa, để một chân xuống đất. Tôi nghe anh ta lẩm bẩm. Chắc anh ta mong Florence quay lại cứu, vì anh ta đã chán chẳng muốn nghe những lời tôi rên rỉ, giọng đòi hỏi.
Tôi vẫn nói “Có điều tôi chả bao giờ đòi hỏi một ai đó phải ôm lấy mình, an ủi mình, cứu mình. An ủi với tình yêu phóng lên phía trước chứ không bao giờ quay ngược lại, đó là quy luật, một quy luật sắt thép. Khi một người già bắt đầu bênh vực cho tình yêu thì mọi thứ trở nên đe doạ. Bậc cha mẹ mà bò vào giường với đứa con là không tự nhiên.
Thế nhưng tự mình cắt đứt mọi sự đụng chạm ấy, cắt đứt tất cả những gì gắn bó ta với cuộc sống, thì rất khó! Như một con tàu rời bến, những sợi dây buộc đứt rơi lả tả, con tàu lên đường cho một chuyến đi rằng dài.
Người thân cũng chia tay. Sao mà buồn thế! Lúc nãy nhìn thấy những cô y tá đi ngang qua đây, tôi đã định ra khỏi xe nộp mình cho các cô ấy, nộp mình cho bệnh viện, để họ cởi bỏ quần áo đặt tôi lên giường và dùng tay xoa bóp, tôi thèm muốn được có bàn tay họ trên người, những bàn tay biết đụng chạm. Chẳng phải ta thuê những người ấy, những cô gái ấy, những đứa trẻ ấy, để có được bàn tay của họ đụng chạm và xoa bóp đấy ư? Nếu không thì bàn tay của họ sẽ héo đi và không còn đáng yêu nữa. Ta đã đem ánh sáng đến cho họ và gọi họ là thiên thần, họ đến từ cõi chết của đêm tối và bảo ta đã đến lúc ra đi. Có lẽ thế. Nhưng có lẽ cũng vì họ đưa ra đổi mới một sự đụng chạm đã bị tan vỡ.
Vercueil nói nhỏ nhẹ “Bà hãy nói điều đó với con gái bà. Nó sẽ đến”.
–         Không.
–         Bà nói ngay bây giờ đi. Bà gọi điện sang Mỹ nói với nó là bà cần nó ở đây.
–         Không.
–         Đừng để sau này mới nói. Vì lúc đó đã quá trễ. Nó sẽ không tha thứ cho bà đâu.
Phản ứng của anh ta như cái tát vào mặt.
Tôi nói “Có những điều anh không hiểu được. Tôi không hề có ý định gọi con gái tôi về. Tôi có nhớ nó nhưng không muốn nó về đây. Vì thế tôi mới gọi đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ phải đi một đường dài, đến cùng trời cuối đất”.
Anh ta đáng khen ở chỗ không bị hoang mang vì câu chuyện vô nghĩa ấy. Anh ta nói “Tuỳ bà. Nếu bà không nói với con gái bà thì tuỳ bà”.
Tôi nói “Anh có thể tin là tôi sẽ không nói với nó” (Sao tôi lại nói dối thế nhỉ). Giọng tôi có cái gì đó không kiềm chế được. “Tôi muốn nhắc để anh biết, đất nước này không bình thường đâu nhé. Dân chúng không được tự ý đi lại”.
Anh ta không thèm đỡ lời.
–         Con gái tôi sẽ không về chừng nào mọi thứ ở đây được thay đổi. Nó đã thề như vậy. Nó sẽ không trở về cái đất Nam Phi như nó, anh và tôi đã biết. Chắc chắn nó sẽ không làm đơn xin với – có thể gọi họ là gì nhỉ? – với những kẻ đó để xin phép về. Nó bảo nó sẽ về khi nào những kẻ đó bị treo ngược lên cột đèn. Lúc đó nó sẽ tới để ném đá vào chúng và được nhảy nhót trên đường phố.
Vercueil nhe răng cười toe toét, răng anh ta vàng khè như răng ngựa già.
Tôi nói “Anh không tin điều tôi nói, nhưng có lẽ một ngày kia anh sẽ gặp nó và sẽ thấy. Nó rất sắt đá. Tôi không muốn nó phản bội lời thề”.
Anh ta nói “Bà cũng sắt đá đấy chứ”.
Rồi hai người im lặng. Có gì đó đổ vỡ trong tôi.
Tôi buột miệng nói “Nghe anh nói như có gì đó đổ vỡ trong tôi vậy. Nếu tôi cũng sắt đá thì không có gì đổ vỡ như thế được”. Rồi tôi không biết nói gì hơn.
Mấy người đàn bà khi nãy chúng tôi gặp trong thang máy đi qua đó. Một người đàn ông nhỏ bé mặc đồ xanh đội mũ trắng đi kèm. Anh ta đưa họ lên xe rồi chở đi.
Vercueil hỏi “Con gái bà đã làm gì mà phải bỏ đi?”
–         Nó không làm gì hết. Nó chỉ chán thôi. Nó không muốn về nữa. Nó tìm một cuộc sống khác. Nó có chồng, lập gia đình. Làm như thế là tốt hơn cả, có nghĩa hơn cả.
–         Nhưng nó có quên đâu.
–         Không, nó không quên. Nhưng tôi phải nói rằng người ta sẽ quên dần. Tôi không thể hình dung được nhưng điều đó sẽ xảy đến. Nó nói “Tôi sinh ra ở Châu Phi, ở Nam Phi”. Tôi đã nghe nó dùng câu nói đó khi nói chuyện. Hình như đấy chỉ là nửa câu đầu. Chắc còn nửa câu sau nhưng không nghe nó nói. Thế là câu nói lơ lửng trong không khí như trẻ sinh đôi bị lạc nhau vậy. “Tôi sinh ra ỏ Nam Phi và sẽ không bao giờ trở lại nơi đó nữa”. “Tôi sinh ra ở Nam Phi và một ngày kia tôi sẽ trở về”. Chả biết câu nào lạc với câu nào.
–         Vậy nó là người biệt xứ.
–         Không nó không phải là kẻ biệt xứ. Chỉ có tôi mới là người biệt xứ.
Anh ta đã biết nói chuyện với tôi. Đã biết nghe chuyện. Tôi chợt muốn dừng lại, muốn bảo anh ta “Nói chuyện với anh rất vui!” nhưng rồi tôi im lặng và lại ứa nước mắt.
Tôi không biết anh ta có con hay không. Tôi cũng không biết đàn ông có nghĩ như vậy không. Nhưng khi có một đứa con trong mình, thì ta cho nó cuộc sống của ta, nhất là với đứa con đầu lòng. Cuộc sống không còn đi một mình nữa, cuộc sống không còn là của mình nữa, mà là của đứa bé. Vì thế thật sự là ta không chết, ta chỉ đơn giản chuỷên giao cuộc sống, cuộc sống đã có một lúc ở trong ta nay được để lại sau. Như anh thấy đó, tôi chỉ là một cái vỏ mà con tôi đã để lại. Cái gì xảy đến với tôi không quan trọng. Cái gì xảy đến với người già không quan trọng. Thật tình tôi không mong anh hiểu cho một kẻ ra đứng bên lề cái lúc sắp ra đi cũng đáng sợ vậy. Dù chỉ được chạm đầu ngón tay thôi, người ta cũng không muốn bỏ đi.
Lúc này Florence và con cô ta đã ra, đang đi đến chỗ chúng tôi.
Vercueil nói “Lẽ ra bà nên sang đó với con gái bà”.
Tôi cười đáp “Tôi không đủ tiền đê sang chết bên Mỹ. Không ai có thể làm thế, trừ người Mỹ”.
Florence nhảy vào ngồi phịch xuống ghế sau, làm xe chao đảo.
Tôi hỏi “Có thấy nó không?”
Cô ta đáp “Có”. Mặt cô ta lạnh tanh. Bheki bước vào ngồi cạnh.
Tôi hỏi “Rồi sao nữa?”
Florence đáp “Có tìm thấy nó, nó nằm trong bệnh viện này”.
–         Nó khoẻ chứ?
–         Nó khoẻ.
Tôi bực mình “Tốt. Cám ơn cô đã cho biết”.
Xe chạy đi. Mọi người im lặng. Về đến nhà, Florence mới nói “Họ để nó nằm trong bệnh viện cùng với mấy ông già. Khiếp quá. Có một ông điên, suốt ngày hét la chửi thề, các cô y tá sợ không dám đến gần. Sao họ lại để thằng bé nằm trong phòng đó cơ chứ. Chỗ nó nằm không phải là bệnh viện mà là phòng chờ tang lễ”.
Phòng chờ tang lễ. Mấy chữ đó cứ luẩn quẩn trong óc tôi. Tôi định ăn mà không còn bụng dạ nào ăn được.
Tôi tìm Vercueil trong lán củi. Anh ta đang làm gì đó với chiếc giày dưới ánh nến. Tôi nói “Tôi trở lại bệnh viện. Anh đi với tôi được không?”
Căn phòng Florence mô tả ở tận cuối ngôi nhà và còn phải đi xuống hầm, qua bếp mới đến được chỗ ấy.
Đúng như cô ta nói, một người đầu cạo trọc lóc gầy như cái que, ngồi trên giường, đập tay vào đùi, miệng hát oang oang. Lưng ông ta đeo dải băng đen buộc xuống chân giường. Ông ta hát gì? Tôi không nhận ra lời bài hát ấy. Tôi đứng ngoài cửa không dám vào, sợ trông thấy tôi ông ta sẽ thôi hát và giơ cánh tay gầy guộc đen xì vào mặt tôi chăng.
Vercueil nói “Hoang tưởng. Ông ta mắc bệnh hoang tưởng”.
Tôi khẽ đáp “Không, còn tệ hơn thế”.
Vercueil nắm khuỷu tay tôi, tôi để cho anh ta dẫn vào.
Hai chiếc bàn dài ở giữa phòng để một đống khay. Một người ho khạc ra một đám trắng, y như phổi ông ta bị rách. Vercueil nói “Trong góc kia”.
Thằng bé không biết chúng tôi là ai. Tôi cũng không nhận ra thằng bé mà ngón tay của tôi đã dính bết máu của nó. Đầu nó băng kín, mặt nó sưng vù, cánh tay trái bó vào người, nó mặc bộ đồ xanh nhạt của bệnh viện.
Tôi bảo “Cậu đừng nói. Chúng tôi đến xem cậu có bị gì không thôi”.
Nó hé đôi môi sưng vù rồi ngậm lại.
Cậu có nhớ ra tôi không? Tôi là bà cụ được mẹ của Bheki giúp việc đấy. Sáng nay mọi việc xảy ra như thế nào tôi đã biết. Cậu cố khoẻ lại đi. Tôi đem cho cậu ít trái cây này. Tôi để quả táo và quả lê lên chiếc bàn nhỏ.
Nó không có biểu hiện gì.
Lúc trước tôi đã không thích thằng bé này. Bây giờ tôi cũng không thích. Trong lòng tôi chẳng có tí cảm tình gì đối với nó. Có những người mới gặp đã có ngay cảm tình, có những người vừa thấy mặt đã không ưa. Thế ra thằng bé này không giống như Bheki. Nó không có sức quyến rũ. Nó có cái gì đó như ngu ngốc, cố tình ngu ngốc, ngang bướng, khó bảo. Nó là một trong những đứa trẻ sớm có kiểu nói như ông cụ, mới mười hai tuổi đã vứt lại thời niên thiếu, biến thành thứ người già dặn. Loại người đơn giản thì khác, nhanh nhẹn, tháo vát, biết chịu đựng hơn người thường, không hoài nghi, không thành kiến, không đùa cợt, không ham muốn, rất vô tư lự. Lúc nó nằm trên hè đường tôi đã tưởng nó sắp chết nên cố cứu nó. Thật lòng tôi nghĩ bỏ sức cứu người khác còn hơn.
Tôi nhớ có lần tôi nuôi một con mèo, một con mèo mướp già bị sưng miệng không há ra được. Tôi đem nó về từ lúc nó quá yếu không cựa quậy nổi, cho nó uống sữa bằng ống, uống thuốc kháng sinh. Lúc nó khoẻ, tôi thả nó ra và vẫn cho nó ăn. Quanh năm nó chỉ sang nhà hàng xóm ăn vụng. Rồi nó biến đâu mất. Vậy mà suốt thời gian ấy, kể lúc nó ốm đau được tôi ôm trên lòng, nó vẫn cưỡng lại và đối với tôi như kẻ thù. Tôi thấy thằng bé này đối với tôi cũng thế. Tuy mở mắt nhưng nó không thấy gì, không nghe tôi nói gì.
Tôi quay sang Vercueil nói “Ta đi chứ?” Tôi chợt sờ vào tay kia của thằng bé, do ý thức xui giục.
Tôi chỉ sờ bằng đầu ngón tay thôi, nhưng cảm thấy như nó khó chịu, nó rụt tay lại như bị điện giật.
Tôi tự nhủ: chỉ là tôi thay mặt mẹ cậu không có mặt thôi. Rồi tôi nói to cho nó nghe thấy “Đừng vộii xét”.
Đừng vội xét? Tôi nói thế nghĩa là sao? Nhưng tôi không hiểu thì ai hiểu? Chắc chắn nó không hiểu. Trong trường hợp này nó càng khó hiểu. Mấy lời nói đó buộc khỏi miệng đã như lá rụng. Lời nói của đàn bà chẳng có gì đáng kể, lời nói của một bà già lại càng không đáng kể, nhất là của đàn bà da trắng.
Đúng, tôi là người da trắng. Khi nghĩ đến người da trắng, tôi thấy gì? Tôi thấy bầy cừu (bầy, chứ không phải một con) ăn cỏ trên cánh đồng bụi bậm, dưới ánh nắng chói chang. Tôi lại nghe tiếng vó ngựa rầm rập, rồi một loạt những tiếng khác lộn xộn, nghe quen như tiếng be be của bầy cừu gọi nhau. Rồi thấy đám lợn rừng, mắt trắng dã ở đâu chạy đến, nhe răng gầm gừ “Chết! Chết!”. Thật chẳng hay gì, nhưng thằng bé rụt lại không muốn bị một bà già da trắng chạm vào tay nó, dù người đó không phải là tôi.
Tôi lại cố giải thích.
Tôi nói “Trước khi về nghỉ hưu, tôi là giáo viên, tôi dạy học”.
Vercueil đứng bên kia giường nhìn tôi chằm chặp, nhưng tôi đâu có nói chuyện với anh ta.
Tôi nói tiếp “Nếu cậu dự lớp Thucydides, có thể cậu biết qua về những gì xảy đến cho nhân loại trong thời kỳ nhân loại sinh ra ta và sống với ta ấy”.
Mắt thằng bé như mơ màng, lòng trắng đục mờ, con ngươi lờ đờ, đen như mực in. Tuy đã được uống thuốc an thần, nó biết là tôi đứng đó, biết tôi là ai, biết tôi đang nói với nó. Biết nhưng nó không nghe, cũng như nó chưa bao giờ nghe bất cứ giáo viên nào, ngồi như phỗng ở cuối lớp, nói gì cũng không vào tai, chỉ chờ chuông báo hết giờ.
–         Thucydides viết về những người làm ra luật lệ và tuân theo luật lệ. Cũng theo luật lệ họ đã giết chết toàn bộ giai cấp thù địch không trừ một ai. Tôi chắc hầu hết những ai đã chết đều cảm thấy hình như người ta đã mắc một sai lầm ghê gớm, vì dù luật lệ là thế chăng nữa  cũng không thể nhắm vào họ. Lúc bị cắt cổ, lời cuối cùng họ thốt ra là “Tôi…!”. Tiếng “Tôi” ấy là sự phản kháng, một tiếng ngoại lệ.
–         Có ngoại lệ không nhỉ? Sự thật là nếu có thể nói, tất cả chúng ta đều đòi có ngoại lệ. Mỗi điều lệ đều có trường hợp riêng. Tất cả chúng ta đều đòi được hưởng cái lợi của sự hoài nghi.
–         Nhưng có những thời người ta không có quyền nghe những điều ấy, những ngoại lệ ấy, những khoản nhân từ ấy. Không có thì giờ, thế là ta phải qua luật lệ. Thật thảm hại, cực kỳ thảm hại. Đó là những gì anh có thể học được ở Thucydides. Rất tiếc là chúng ta đang bước vào một thời buổi như vậy. Chúng ta bước vào đó với tráii tim chìm đắm. Chẳng thể hoan nghênh được.
Bỗng nó rụt tay kia vào dưới chăn, đề phòng tôi chạm vào nữa.
Tôi nói “Thôi chào, chúc cậu ngủ ngon, ráng mau khoẻ lại”.
Ông già ngoài kia không hát nữa. Bàn tay ông ta vỗ đêu lên đùi như đôi cá sắp chết. Mắt ông ta trợn ngược, nước dãi chảy xuống cằm.
Xe không chạy được. Vercueil lại phải đẩy.
Tôi nói “Thằng bé đó khác với Bheki, rất khác”.
Hôm nay tôi đã nói hơi nhiều, không kiềm chế được. “Tôi không muốn tỏ ra như vậy, nhưng nó làm tôi bực mình. Tôi rất tiếc Bheki đã bị ảnh hưởng của nó. Nhưng tôi biết sẽ có hàng vạn đứa như nó. Nhiều hơn loại như vậy. Thế hệ đang lên đấy”.
Chúng tôi về nhà. Tuy không mời, anh ta vẫn theo vào.
Tôi nói “Tôi phải đi ngủ đây. Mệt quá rồi”. Anh ta không có ý bỏ đi. “Anh có muốn ăn gì không?”
Tôi đem thức ăn để trước mặt anh ta, uống thuốc đầy đủ rồi chờ đó.
Anh ta dùng tay khoằm cắt một lát bánh, phết bơ rồi cắt phô mai. Móng tay của anh ta rất bẩn. Không biết anh ta đã sờ vào những gì nữa. Thế mà đây lại là người tôi thổ lộ tâm tình, là người tôi rất tin cậy. Tại sao tôi lại đi con đường ngoằn ngoèo đến thế nhỉ?
Đầu óc tôi như cái ao để ngón tay anh ta thọc vào khuấy. Không có ngón tay ấy, nó lắng đọng, tù hãm.
Một con đường không có hướng. Không hướng thì tự tìm ra hướng. Đi như con cua vậy.
Móng tay bẩn của anh ta thọc vào tôi.
Anh ta nói “Trông bà rầu rĩ lắm”.
“Tôi rất mệt”.
Anh ta nhe bộ răng dài nhai bánh.
Anh ta chỉ nhìn không nói gì. Ở người anh ta vẫn còn phảng phất hơi rượu. Rượu làm cho dịu, giữ cho người ta bớt giận dữ. Nó giúp ta tha thứ. Anh ta uống rượu từ tiền trợ cấp. Suốt đời anh ta sống bằng trợ cấp. Anh ta là ông V. mà tôi nói đến. Nói và viết. Nói để mà nói. Còn đối với thế hệ đang lên, không uống rượu, cũng không nói chuyện được, chỉ có có thể dạy thôi. Bàn tay và móng tay chúng sạch sẽ. Chúng là những người theo thánh giáo mới, nắm luật lệ, tuân thủ luật lệ. Chúng ghét rượu là thứ làm yếu luật lệ, làn tan cả luật lệ. Chúng hoài nghi tất cả những gì lười biếng, chịu đựng, chỉ biết quanh quẩn một xó. Chúng hoài nghi những bài diễn văn nói loanh quanh.
Tôi nói “Tôi cũng ốm nữa, ốm và mệt. Mệt và ốm. Tôi có đứa con trong bụng mà không đẻ ra được. Không thể đẻ vì nó sẽ không ra đời. Vì nó không thể sống ở ngoài tôi được. Nó là tù nhân của tôi hoặc tôi là tù nhân của nó. Nó đập cửa mà không thể bỏ đi. Ngày nào cũng diễn ra như vậy. Đứa con bên trong đang đập cửa. Con gái tôi là đứa con đầu lòng. Nó là cuộc sống của tôi. Đứa này là đứa thứ hai. Đứa của kiếp sau. Tôi không cần đến. Anh có muốn xem ti vi không?”
–         Tôi tưởng bà muốn đi ngủ?
–         Không, bây giờ không chỉ còn mình tôi nữa. Dù sao đứa con trong tôi cũng đập rất mạnh. Nó đã uống thuốc rồi, đang ngủ lơ mơ. Anh thấy đấy, bao giờ tôi cũng uống hai viên. Một cho tôi, một cho nó.
Chúng tôi ngồi bên nhau trên ghế dài. Người có bộ mặt hồng hào đang được phỏng vấn. Hình như anh ta là chủ một trại thú, cho các hãng phim thuê voi và sư tử.
Người phỏng vấn hỏi “Xin anh kể cho nghe về một loài vật hải ngoại anh đã từng gặp”.
Tôi đứng dậy nói “Để tôi đi pha trà”.
Vercueil hỏi “Trong nhà còn gì khác không?”
Rượu anh đào.
Tôi cầm chai rượu anh đào quay lại thấy anh ta đang đứng ở kệ sách. Tôi tắt ti vi rồi hỏi “Anh đang xem gì vậy?”
Anh ta giơ một cuốn sách nặng.
Tôi nói “Anh sẽ thấy cuốn đó rất hay. Người đàn bà đó đã cải trang làm đàn ông, đi qua cả Palestine kỳ bí. Đó là thế kỷ trước. Bà ta là một trong những phụ nữ Anh rất dũng cảm. Nhưng bà ta không chụp hình. Ảnh là của một tay minh hoạ nhà nghề”.
Chúng tôi cùng giở trang. Người minh họa đã khéo vẽ nên những bức ảnh cắm trại dưới ánh trăng, những núi đá lởm chởm trên sa mạc, những đền miếu hoang tàn với không khí bí ẩn. Chưa ai làm được như vậy để biến Nam Phi thành một vùng đất bí ẩn. Bây giờ thì quá muộn rồi. Trong đầu óc mọi người thì vùng đất này chỉ còn là nơi bằng phẳng, chói chang, không có bóng râm cũng không có chiều sâu.
Tôi nói “Anh thích gì cứ đọc. Trên gác còn có nhiều sách. Anh thích đọc sách không?”
Vercueil bỏ sách xuống nói “Bây giờ tôi đi ra ngoài đây”.
Tôi chợt thấy lúng túng. Sao thế? Nói thật ra là tôi không ưa cái mùi của anh ta. Vì tôi không hề nghĩ đến Vercueil mặc đồ lót. Trông chân anh ta gầy gò hơn. Móng chân xù xì, xương xẩu.
Tôi nói “Tôi hỏi anh một câu được không? Trước kia anh sống ở đâu? Tại sao anh bắt đầu đi lang thang?”
Vercueil đáp “Tôi sống ở biển. Tôi đã nói với bà điều đó rồi”.
–         Nhưng người ta đâu có sống ở biển. Đâu có thể đẻ ở biển. Anh có ở biển suốt đời đâu?
–         Tôi làm trên tàu kéo.
–         Rồi sao?
Anh ta lắc đầu.
Tôi nói “Tôi chỉ hỏi thế thôi. Chúng tôi thích biết một chút về những người ở gần mình. Điều đó hoàn toàn là tự nhiên”.
Anh ta nhếch mép cười, một bên răng nanh chĩa ra vừa dài vừa vàng. Tôi nghĩ bụng anh ta còn giấu giếm những gì. Nhưng là điều gì? Một tình yêu bi thảm chăng? Hay là tù tội chăng? Rồi tôi cũng mỉm cười.
Cả hai chúng tôi đứng cười, mỗi người có lý do riêng để mà cười.
Tôi nói “Nếu anh thích, cứ việc ngủ trên ghế dài”
Anh ta lưỡng lự. “Con chó thường ngủ với tôi”.
Hôm qua tôi có thấy con chó đâu?
Nếu tôi không về, nó cũng không đến.
Hôm qua tôi không thấy con chó. Chừng nào anh ta không cho nó ăn thì nó cần gì biết anh ta ngủ ở đâu. Tôi ngờ rằng anh ta bịa chuyện con chó như nhiều đàn ông thường bịa chuyện về vợ đang chờ ở nhà. Mặt khác, có lẽ vì con chó mà tôi tin anh ta. Chó thường đánh hơi được người xấu, nó còn biết đi tuần tiễu nữa.
Con chó chả làm tôi ấm lên chút nào. Nhà đã quá nhiều mèo rồi. Mèo với đàn bà là đủ. Còn anh ta, sau khi lang thang trên biển với chiếc tàu kéo, chẳng qua là bị rơi vào đây thôi.
Tôi nói “Tuỳ anh”. Tôi để anh ta đi ra, làm như không để ý trên tay anh ta còn cầm chai rượu anh đào. Tôi nghĩ bụng thật đáng thương hại. (Đó là ý nghĩ của tôi khi những viên thuốc kéo tôi vào giấc ngủ). Vào lúc hiếm hoi này hai chúng tôi có thể cùng ở trong nhà được chứ, tôi trên gác, anh ta dưới nhà. Như vậy ban đêm tôi có sẵn người. Dù sao mỗi khi cần đến là có người để tôi gọi trong đêm tối. Là mẹ hay ai thì cũng sẵn sàng cho mẹ được.
Từ khi tôi tuyên  bố với Florence là sẽ làm đơn gởi đến Quảng trường Caledon định kiện hai viên cảnh sát, nhưng hình như họ chỉ cho phép kiện nếu có “người trực tiếp liên quan”.
Viên sĩ quan ở bàn thường trực nói “Bà cho biết đặc điểm, rồi chúng tôi sẽ điều tra. Tên hai thằng bé là gì?”
–         Không được phép của chúng nó, tôi không thể nói ra tên.
Anh ta đặt bút xuống. Đó là một thanh niên, gọn gàng  sạch sẽ, một trong những lớp cảnh sát mới được đào tạo qua loa ở Cape Town để có thể đối phó với những người chủ trương tự do nhân văn chủ nghĩa.
Tôi nói “Tôi không biết anh có tự hào với bộ đồng phục ấy không, nhưng các đồng nghiệp của anh ở ngoài phố đã làm nó mất thể diện. Họ còn làm tôi mất thể diện nữa. Tôi lấy làm xấu hổ. không phải xấu hổ cho họ mà xấu hổ cho tôi. Anh không cho tôi kiện vì anh bảo tôi không liên quan. Nhưng tôi rất liên quan, trực tiếp liên quan nữa kia. Anh hiểu tôi nói gì không?”
Anh ta không trả lời, đứng thẳng người, cảnh giác sẵn sàng với những điều sẽ xảy ra. Người đằng sau anh đang xem giấy tờ, làm như không nghe thấy gì. Nhưng chẳng có gì đáng sợ. Tôi không còn gì để nói, hoặc ít nhất cũng chả còn bụng dạ nào nghĩ ra điều gì.
Vercueil ngồi đợi trong xe ở phố Buitenkam. Tôi nói “Tôi thật là ngu ngốc”, và suýt khóc. Tôi đã bảo họ “Các anh làm cho tôi xấu hổ”. Có lẽ họ đang cười nhau Eke ou kruppel dame met die kaffertjie. Nhưng làm sao tôi nghĩ thế nào khác được? Có lẽ tôi nên đơn giản mà tự nhận rằng từ nay trở đi phải sống và sống trong cùng sự nhục nhã. Có lẽ nhục nhã chỉ là cái tên dành cho những gì tôi thường cảm thấy thôi, không hơn gì. Cái đó dành cho lối sống của những người sống mà nghĩ thà chết còn hơn.
Nhục nhã. Chịu cúi đầu. Chết trong cái sống.
Hai người im lặng một lúc lâu.
Vercueil nói “Bà cho tôi vay mười rand được không? Đến thứ năm tôi mới có tiền trợ cấp. Hôm ấy tôi  sẽ trả lại cho bà”.

CHƯƠNG 3

Khuya đêm qua bỗng có chuông điện thoại vang lên, giọng đàn bà hớt hải, như giọng một người béo phì không thở được “Tôi muốn gặp Florence”.
–         Cô ấy đang ngủ. Mọi người đang ngủ.
–         Vâng, bà gọi giùm.
Trời mưa không to lắm. Tôi gõ cửa phòng Florence. Cửa mở liền, y như cô ta đã đứng chờ sẵn. Sau cửa tôi nghe tiếng trẻ lầu bầu trong giấc ngủ. Tôi bảo “Cô có điện thoại”.
Năm phút sau cô ta đến phòng tôi. Không đội nón, để đầu trần, mặc áo ngủ dài trắng, trông cô ta trẻ ra hơn.
Cô ta nói “Lại có chuyện rắc rối”.
–         Bheki hả?
–         Vâng, tôi phải đi thôi.
–         Nó đang ở đâu?
–         Phải đi Guguletu trước, rồi sau đó mới đến Công trường C.
–         Tôi không hiểu Công trường C ở đâu.
Cô ta nhìn tôi, chưa hiểu thế nào.
Tôi bảo “Ý tôi nói nếu cô chỉ đường, tôi sẽ lái xe đưa cô đi”.
Cô ta ngập ngừng đáp “Vâng, nhưng tôi không thể bỏ bọn trẻ”.
“Thì cho chúng đi theo.”
Cô ta đáp “Vâng”. Chưa bao giờ thấy cô ta lưỡng lự như vậy.
Tôi nói “Còn Vercueil. Phải gọi anh ta đi giúp, để còn đẩy xe nữa”.
Cô ta lắc đầu.
Tôi nằng nặc “Thế nào cũng phải để anh ta cùng đi”.
Con chó nằm cạnh Vercueil, thấy tôi đến, nó chỉ đập đuôi xuống sàn, không đứng dậy.
–         Ông Vercueil – tôi gọi to. Anh ta mở mắt. Tôi đứng lùi ra xa. Anh ta càu nhàu – Tôi phải đưa Florence đi Guguletu. Việc rất gấp, phải đi ngay bây giờ, ông cùng đi có được không?
Anh ta không trả lời, quay nằm nghiêng. Con chó vẫy đuôi.
Tôi chĩa đèn vào anh ta gọi “Ông Vercueil!”
Anh ta lẩm bẩm “Mặc kệ bà!”
Tôi nói lại với Florence “Tôi không gọi anh ta được thì phải có người nào đẩy xe chứ?”
Cô ta nói “Để tôi đẩy”.
Florence để hai đứa nhỏ trùm chăn ấm ngồi ghế sau rồi lại đẩy xe. Chúng tôi lên đường. Hơi thở trong xe làm mờ kính, tôi phải cố nhìn, cho xe đi từ từ lên dốc On Waal, bị lạc một lúc ở phố Claremont, rồi tìm ra đường Landsdowne. Những chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày đã thấy xuất hiện, đèn sáng trưng, chở đầy khách. Lúc này chưa đến năm giờ.
Chúng tôi đi qua những ngôi nhà cuối cùng, những ngọn đèn cuối cùng, cho xe chạy trong cơn mưa tầm tã lên phía tây bắc, chỉ biết nhìn vào ánh đèn vàng từ đèn pha chiếu mà đi.
Florence nói “Nếu có ai vẫy xe hoặc gặp chuyện gì trên đường, bà đừng có ngừng lại, cứ phải đi tiếp tục”.
Tôi nói “Tôi sẽ không làm thế đâu. Lẽ ra cô phải nói trước. Florence, phải nói để cô biết nếu gặp chuyện gì rắc rối tôi sẽ quay đầu xe về ngay”.
“Tôi không bảo là có chuyện rắc rối. Chỉ nói thế thôi”.
Tôi cho xe đi liều trong đêm tối. Không có ai chặn đường, không có ai vẫy xe, dọc đường cũng không có chuyện gì. Hình như chuyện rắc rối còn chưa xảy ra mà chỉ chuẩn bị cho trận sau. Mọi khi vào giờ này hai bên đường đã có hàng nghìn người làm việc, còn  bây giờ thì vắng tanh. Những đám mây mù lởn vởn quệt ngang rồi bay đi. Như có cả ma quỷ nữa. Chỗ này là Amern, nơi không có chim chóc. Tôi rùng mình, bắt gặp cái nhìn của Florence. Tôi hỏi “Còn bao xa?”
“Không xa lắm đâu”.
“Trên điện thoại họ nói thế nào?”
–         Hôm qua lại bắn nhau. Họ cấp vũ khí cho quân witdoeke bắn.
–         Guguletu có bắn nhau không?
–         Không, họ bắn nhau trong rừng.
–         Florence, nếu gặp rắc rối là tôi quay về đấy. Chúng ta tới thăm Bheki thôi, ngoài ra không làm gì khác, rồi tôi về. cô không bao giờ nên thả cho nó đi nữa.
–         Vâng, nhưng ở đây bà phải rẽ trái.
Tôi quay xe. Đi được một trăm mét thấy rào chắn giữa đường, đèn nhấp nháy, xe cộ đỗ dọc hai bên, cảnh sát cầm súng. Tôi dừng lại, một viên cảnh sát tiến tới.
Anh ta hỏi “Đến đây làm gì?”
Tôi nói “Tôi đưa người giúp việc về nhà”. Tôi ngạc nhiên thấy sao có thể bình tĩnh mà nói dối như thế được.
Anh ta liếc nhìn bọn trẻ nằm ngủ ở ghế sau. “Nhà cô ta ở đâu?”
Tôi đáp “Ở năm mươi bảy.”
–         Bà có thể cho cô ta xuống đây đi bộ, không xa lắm.
Tôi cương quyết “Trời đang mưa, cô ta lại có trẻ nhỏ, tôi không thể để cho cô ta đi bộ một mình”.
Anh ta ngập ngừng, rồi vẫy đèn cho tôi đi tiếp. Đứng trên mui xe gần đó có một thanh niên mặc quần áo dã chiến, tay lăm lăm khẩu súng chĩa vào bóng tối.
Tôi thấy trong không khí có mùi tro ướt, cao su cháy. Chúng tôi cho xe chạy từ từ trên con đường rộng phẳng lát đá, hai bên là những ngôi nhà như hộp diêm. Tôi liếc chiếc xe cảnh sát bọc lưới thép chạy qua. Florence nói “Đến đây bà rẽ phải đi, rẽ phải nữa, rồi dừng lại”.
Cô ta bế đứa con nhỏ, tay dắt đứa kia còn ngái ngủ loạng choạng đi vào con đường nhỏ đến số nhà 218 rồi gõ cửa vào. Hope và Beauty mở mắt ngỡ ngàng. Tôi ngồi bên ngoài, vẫn để xe nổ máy.
Chiếc xe cảnh sát khi nãy đến bên, chiếu đèn thấu vào chỗ tôi. Tôi phải đưa tay che mắt. Xe ấy lại chạy đi tiếp.
Florence bước ra, chùm áo nhựa lên người và đứa bé, ngồi vào sau xe. Một người đội mưa chạy ra theo, không phải Bheki, mà một ông khoảng ba bốn chục tuổi, có râu mép, vẻ nhanh nhẹn. Ông ta ngồi cạnh tôi. Florence nói “Đây là ông Thabane, anh họ tôi. Ông ấy sẽ chỉ đường”.
Tôi hỏi “Hope đâu?”
–         Tôi gởi lại để bà chị trông giùm.
–         Còn Bheki đâu?
Im lặng.
Người đàn ông nói “Tôi cũng không rõ lắm”. Giọng ông ta nhỏ nhẹ. “Sáng hôm qua nó có đến đây, để đồ đạc rồi đi ngay. Từ đó đến giờ không thấy nó đâu nữa. Nó không về đây ngủ. Nhưng tôi biết các bạn nó ở đâu. Bây giờ chúng ta phải đến đó tìm”.
Tôi hỏi “Florence, có phải cô muốn tìm nó không?”
Florence đáp “Phải tìm nó chứ. Chẳng có cách nào khác”.
Người kia nói “Bà để tôi lái cho. Dù sao như vậy cũng tốt hơn, phải không?”
Tôi vào ngồi sau xe, bên cạnh Florence. Mưa bắt đầu nặng hạt. Xe lõm bõm qua những vũng nước trên con đường gồ ghề. Rẽ trái, rẽ phải, xe vòng một quãng dưới ánh đèn đường tù mù màu da cam rồi đỗ lại. Tôi nói với ông Thabane, anh họ của Florence “Cẩn thận, đừng tắt máy”.
Ông ta bước ra, gõ cửa sổ, nói chuyện khá lâu với người nào đó tôi không trông rõ. Lúc quay ra, người ông ta ướt sũng, lạnh run. Ông ta lóng ngóng rút bao thuốc lá, định châm hút. Tôi bảo “Đừng hút trong xe”. Ông ta và Florence đều có vẻ khó chịu.
Tất cả ngồi im lặng. Tôi hỏi “Ta còn chờ gì nữa?”
–         Họ sắp cử người đến chỉ đường.
Một chú bé đội chiếc mũ to hơn người từ trong nhà chạy ra. Cậu ta cười chào mọi người, vẻ tự tin, nhảy vào trong xe chỉ đường. Cậu ta chỉ độ mười tuổi là cùng. Một chú bé của thời đại, đã quen với cảnh bạo lực. Nghĩ đến thời trẻ, tôi chỉ nhớ những buổi chiều dài nắng gắt, nhớ mùi thơm của bạch đàn trên đại lộ, nhớ tiếng nước róc rách bên đường, tiếng chim bồ câu rúc rích. Tuổi ấu thơ chỉ biết ngủ, khúc dạo đầu của cuộc sống không biết đến phiền muộn, êm ả đi tới Nát bàn. Ít ra thì tuổi trẻ của chúng ta, tuổi trẻ của thời đã qua, cũng được phép đi lên Nát bàn chứ? Tôi không tin điều đó. Nếu như có công lý thì chúng ta đã được chặn lại ở ngưỡng cửa Âm phủ rồi. Như đám côn trùng trắng bệch, sống nhung nhúc, chúng ta sẽ được họ gởi theo những linh hồn trẻ con trẻ mãi mãi ê a tiếng khóc. Màu trắng của ta bị bỏ quên. Cát trắng, đá trắng, ánh sáng trắng tràn ngập khắp phía, mãi mãi nằm ngoài bãi biển trong ngày Chủ Nhật vô tận giữa hàng ngàn đồng loại trì trệ ngủ gật, với tiếng sóng vỗ êm ru. Trước hết là nằm ở ngưỡng cửa cái chết, ngưỡng cửa của cái sống, là những sinh vật do biển vứt lên, chui xuống cát, vô định, không biết chắc điều gì, chẳng nóng cũng chẳng lạnh, chẳng phải cá cũng không phải chim.
Chúng tôi qua mấy ngôi nhà cuối cùng. Xe chạy qua ánh sáng mờ qua vùng đất cháy, cây cỏ đen xì. Một chiếc xe tải chạy q  ua, ba người ngồi sau chui dưới vải bạt. Đến đoạn đường sau chúng tôi theo kịp họ. Họ lặng lẽ nhìn chúng tôi  trong khi chờ kiểm tra. Viên cảnh sát vẫy cho họ đi, rồi vẫy cho chúng tôi đi.
Chúng tôi quay lên phía bắc, bỏ xa rặng núi, rồi qua đường cao tốc đến một quãng đường đá sắp biến thành cát. Ông Thabane dừng xe lại nói “Chúng ta không thể đi xa hơn được, nguy hiểm lắm”. Rồi chỉ tay vào đèn đỏ nhấp nháy ở xe nói tiếp “Ổ điện của bà có vấn đề”.
Tôi nói “Tôi để nó hỏng đấy”. Tôi không muốn giải thích gì thêm.
Ông ta tắt máy. Chúng tôi ngồi một lúc lâu nghe mưa rơi thình thình trên mui xe. Rồi Florence và chú bé bước ra. Con nhỏ đèo trên lưng cô ta vẫn ngủ yên. Ông Thabane nói “Bà nên đóng cửa vào thì hơn”.
“Các người đi bao lâu?”
–         Không thể biết được, nhưng chúng tôi sẽ cố mau về.
Tôi lắc đầu nói “Tôi không ngồi ở đây được”.
Tôi không có mũ, không có dù. Mưa hắt vào mặt, tóc bết vào da đầu, chảy xuống cổ. Tôi nghĩ đi thế này có thể bị cảm lạnh. Chú bé dẫn đường đã đi một quãng xa. Ông Thabane đưa cho tôi chiếc áo mưa “Bà đội cái này lên đầu đi”.
Tôi nói “Không cần, mưa nhỏ không sao đâu”.
Ông ta nằng nặc “Bà cứ đội lên đi”. Tôi làm theo.
Chung quanh toàn những cồn cát xám hoang vắng, đều thuộc giống Cảng Jackson, những đống rác và tro bụi. Những mảnh nhựa, sắt vụn, thuỷ tinh, xương động vật rải rác hai bên đường. Tôi đã bắt đầu run vì lạnh, nhưng đi nhanh hơn thì tim đập rất khó chịu. Tôi tụt lại sau. Florence có dừng lại nghỉ không? Không. Lòng mẹ khiến cô ta không dừng lại vô ích.
Đến một ngã ba, ông Thabane dừng lại chờ. Tôi hổn hển nói “Cám ơn, ông rất tốt bụng, xin lỗi phải để ông chờ. Tôi có chỗ đau ở bên hông”.
Ông ta nói “Bà hãy dựa vào tay tôi”.
Nhiều người nối nhau đi qua, họ có râu, mặt lầm lì, tay cầm gậy. Ông Thabane tránh sang bên đường. Tôi phải bám chặt lấy ông ta.
Đường rộng dần, cuối cùng đến một cái ao to, bên kia bờ ao là một dẫy nhà lụp xụp, những nhà thấp đều ngập nước. Một số nhà có khung gỗ và sắt, những nhà khác chỉ có vải nhựa bọc khung gỗ, nằm ngả nghiêng trên cồn cát.
Đến bờ ao tôi đứng lại. Ông Thabane nói “Bà cứ theo tôi”. Tôi bám ông ta đi, nước ngập đến mắt cá chân. Một chiếc giày của tôi bị nước hút đi đâu mất. Ông ta dặn “Coi chừng mảnh chai”. Tôi tìm lại được chiếc giày.
Ở cổng vào chỉ có một bà già đứng đó trễ miệng, chẳng có đèn đóm gì. Đi sâu vào trong nghe có tiếng ù ù, lúc đầu tưởng là gió và mưa, nghe dần thành tiếng kêu, tiếng hét, tiếng gọi nhau, trên nền đất thấp những tiếng đó giống như tiếng thở dài. Tiếng thở dài của bàn dân thiên hạ.
Rồi chú bé dẫn đường lại xuất hiện, nắm lấy ống tay áo ông Thabane, nói vội vã. Hai người bỏ đi. Tôi cố theo họ đi qua những cồn cát.
Chúng tôi đứng phía sau một đám đông hàng trăm người, nhìn xuống cảnh tàn phá dưới kia. Những túp lều bị đốt trụi, có chỗ còn đang cháy, toả khói đen. Bàn ghế, giường tủ, đồ vật trong nhà, vứt lổng chổng dưới mưa. Mấy tốp người ra sức cứu những thứ còn lại trong túp lều cháy, dập từng đám lửa. Tôi chợt nghe không hiểu họ cứu lửa hay đốt lửa, vì tôi tưởng như họ không chiến đấu với lửa mà chiến đấu với mưa.
Tiếng thở dài là từ những người đứng ngoài cồn cát. Như những người đưa tang, họ đứng dưới mưa, đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào người nấy sũng nước, chẳng che đậy gì, chỉ biết nhìn cảnh tàn phá.
Một người mặc áo choàng đen vung chiếc rìu đập vỡ cửa sổ, rồi đạp cửa chính cho bật vào trong. Một bà ôm con nhỏ chạy ù ra như vừa được sổ lồng, ba đứa nhỏ đi chân đất chạy theo. Ông ta để họ đi qua rồi đập nhát nữa vào khung cửa, túp nhà kêu răng rắc.
Một người nữa bước vào trong, tay mang chiếc bô. Người đàn bà chạy vào theo, đem ra một bọc khăn trải giường. Bà ta định vào nữa nhưng bị đuổi ra ngoài.
Từ trong đám đông, một hòn đá ném lên nóc nhà đang cháy kêu cạch một tiếng, một hòn khác ném vào tường, một hòn khác nữa ném cạnh chân người đang cầm rìu. Ông ta hét một tiếng hăm doạ. Rồi ông ta cùng hơn chục người nữa dừng tay, giơ gậy gộc tiến đến đám đông. Họ kêu hét bỏ chạy. Tôi cũng  bỏ chạy nhưng bị hút vào cát không nhấc chân lên được. Tim tôi đập mạnh, ngực đau nhói. Tôi dừng lại thở, nghĩ bụng: mình gặp chuyện này ở đây thật sao? Mình ở đây làm gì thế? Dường như tôi trông thấy chiếc xe màu xanh lục lặng lẽ chờ bên đường. Tôi không mong gì khác hơn là ngồi vào xe của tôi, đóng chặt cửa, chạy thoát khỏi cái thế giới điên rồ và bạo lực này.
Một bé gái, rất to béo, huých vào vai tôi bắn sang một bên. Tôi ngã xuống mắng nó “Đồ quỷ!”. Nó hung hãn chửi lại “Đồ quỷ! Cút đi! Cút đi!” rồi nó chạy lên cồn cát, ngúng nguẩy cái lưng to béo.
Tôi nằm úp mặt xuống cát nghĩ bụng chỉ một chút nữa là mình đi đứt. Những loại người như nó có thể đánh nữa, mà tôi thì yếu ớt như con sâu.
Tiếng chân đi lạo xạo bên cạnh. Tôi chợt nhìn thấy chiếc ủng da nâu, mũi quặp xuống, gót buộc dây. Tôi bị ngã nhưng chưa hề gì.
Tôi đứng dậy. Phía trái hình như còn đang đánh nhau. Đám người bỏ chạy vào rừng trước đây một phần bỗng kéo lại. Một người đàn bà hét rất to. Tôi không biết có thể chạy khỏi chỗ khủng khiếp này bằng cách nào. Cái ao tôi lội qua lúc nãy không biết bây giờ ở đâu, đường đi ra xe ở đâu? Chỗ nào cũng thấy ao, hồ, vũng nước, những lối nhỏ này đi ra đâu không biết.
Tôi nghe rõ tiếng súng nổ. Một tiếng, hai tiếng, ba tiếng, không gần lắm, nhưng cũng không xa.
Một giọng nói vang lên. Ông Thabane vừa đến. “Đi thôi!” “Vâng!” tôi cám ơn, cố chạy theo không kịp.
Tôi gọi “Xin ông đi chậm lại cho!” Ông ta chờ. Chúng tôi quay lại cái ao khi nãy và ra đến đường cũ.
Một thanh niên đến bên cạnh chúng tôi, mắt đỏ lè. Anh ta nói “Các người đi đâu?” Tôi chẳng biết phải trả lời thế nào.
Tôi đáp “Tôi đang bỏ chạy. Chẳng biết đây là nơi nào”.
Ông Thabane nói “Chúng tôi đi tìm xe”.
Anh ta nói “Chúng tôi cần đến chiếc xe đó”.
Tôi nói “Tôi không cho bất cứ ai lấy xe của tôi”.
Ông Thabane nói “Anh này là bạn của Bheki”.
Tôi mặc kệ, tôi không cho anh ta lấy xe.
Anh thanh niên này chưa phải là người lớn, thật ra chỉ ăn mặc như người lớn, cử chỉ như người lớn, làm một động tác hơi lạ. Anh ta giơ một tay lên ngang đầu, tay kia đánh vào tay này bốp một tiếng. Thế nghĩa là gì? Động tác ấy có nghĩa gì chứ?
Lưng tôi đau muốn chết vì đi bộ. Tôi đi chậm rồi đứng lại nói “Tôi phải về nhà ngay!”. Tôi nói như van lơn, giọng run run.
Ông Thabane nói “Bà đã thấy đủ chưa?” Giọng ông có vẻ nhẹ hơn.
“Tôi thấy đủ rồi. Tôi không đến để xem gì hết. Tôi chỉ đi tìm Bheki thôi”.
“Và bây giờ bà muốn về nhà?”
“Phải, tôi muốn về. Tôi  đang đau lắm, tôi mệt lắm rồi”.
Ông ta quay người đi tiếp. Tôi tập tễnh bước theo.
Rồi ông ta dừng lai nói “Bà muốn về nhà ư? Còn những người ở đây thì sao? Họ muốn về nhà tức là về đây thôi. Bà nghĩ sao?”
Chúng tôi đứng giữa đường, dưới cơn mưa nhìn nhau. Những người đi qua cũng dừng lại, họ tò mò nhìn tôi. Việc của tôi cũng là việc của họ, việc của tất cả.
Tôi nói “Tôi chẳng biết nói thế nào. Kinh khủng quá”.
Ông ta nói “Không chỉ kinh khủng thôi đâu. Đó là tội ác. Khi bà thấy tận mắt một tội ác, thì sẽ nói gì nào? Bà có thể nói “tôi thấy đủ rồi, tôi không đến để xem, tôi muốn về nhà” được không?”
Tôi lắc đầu thất vọng.
Ông ta nói “Không, bà không nói thế đâu, đúng không? Vậy bà nói thế nào? Bà đã thấy tội ác gì? Tên tội ác đó là gì?”
Ông ta là một nhà giáo, tôi nghĩ thế. Cho nên ông ta nói khá giỏi. Những gì ông ta vừa làm đều đã thực hành ở trường. Một cái mẹo thường dùng để người ta tưởng như trẻ con cũng trả lời được. Cách nói từ trong bụng ấy là di sản của Socrates, được áp đặt ở Châu Phi cũng như ở Athens.
Tôi nói “Ông Thabane, có rất nhiều điều tôi có thể nói được. Nhưng phải đúng là những lời từ tôi mà ra. Ông nên biết, khi người ta bị buộc phải nói thì ít khi nói ra sự thật”.
Ông ta định trả lời nhưng tôi ngăn lại.
–         Khoan đã, ông hãy chờ đấy. Tôi không né tránh câu hỏi của ông đâu. Ở đây đang diễn ra những chuyện khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ gì về những chuyện dó thì tôi phải nói theo cách của tôi.
–         Vậy xin bà cho nghe bà định nói thế nào! Chúng tôi nghe đây! Chúng tôi đang chờ đây!
Ông ta giơ tay cho mọi người im lặng. Đám đông lẩm bẩm tán thành.
Tôi thủng thẳng nhắc lại “Đây là những cảnh khủng khiếp. Phải lên án những cảnh đó. Nhưng tôi không thể lên án bằng những lời của người khác được. Tôi phải có những lời lẽ của riêng tôi. Nếu đó không phải là sự thật. Bây giờ tôi chỉ nói thế thôi”.
Một người trong đám đông lên tiếng “Bà này nói bậy” Anh ta nhìn quanh rồi nhắc lại “Nói bậy”. Không ai phản đối anh ta. Vài người bỏ đi.
Tôi nói “Phải, anh có lý. Điều anh vừa nói là đúng đấy”.
Anh ta nhìn tôi như nhìn một người điên.
Tôi nói tiếp “Nhưng anh tưởng thế nào? Nếu nói về những cái này” – tôi chỉ tay vào bụi cây, vào đám khói, vào đống rác rưởi vứt bên đường – “Anh phải cần đến ngôn ngữ của thánh nhân”.
Anh ta lại lớn tiếng thách thức “Bậy!”
Ông Thanbane quay lưng bỏ đi. Tôi lết theo sau. Đám đông cũng bỏ đi. Lát sau chú bé cũng chạy vội bên tôi. Tôi trông thấy chiếc xe.
Ông Thabane nói “Xe của bà là chiếc Hillman phải không? Trên đường chẳng còn mấy chiếc xe này nữa đâu”.
Tôi ngạc nhiên. Sau bao nhiêu chuyện vừa rồi, tôi tưởng như đã có sự ngăn cách giữa ông ta và tôi. Nhưng hình như ông ta không giận.
Tôi đáp “Từ hồi những chiếc xe của Anh được coi là tốt nhất đấy. Tôi xin lỗi vì đã làm ông phật ý”.
Ông ta không để tâm, hỏi lại “Đồ của Anh vẫn là tốt nhất sao?”
–         Không, tất nhiên không. Đó chỉ là khẩu hiệu của thời gian sau chiến tranh mà thôi. Ông chẳng nhớ được gì đâu vì hồi đó ông còn trẻ.
Ông ta nói “Tôi sinh năm 1043. Nay đã bốn mươi ba tuổi. Bà không tin à?” Ông ta quay lại cho tôi nhìn kỹ. Cũng tầm thường thôi, tầm thường nhưng có chỗ hấp dẫn.
Tôi khởi động xe. Ắc quy không chạy. Ông Thabane và chú bé đứng ra đẩy, chân cắm chặt xuống cát. Cuối cùng máy nổ. Chú bé nói “Đi luôn đi!” Tôi nghe theo.
Tôi hỏi ông Thabane “Ông là nhà giáo phải không?”
–         Trước kia là nhà giáo. Nhưng tôi tạm bỏ nghề, cho đến khi nào thuận tiện. Hiện nay tôi bán giày.
Tôi quay sang hỏi chú bé “Còn chú?”
Nó lẩm bẩm câu gì tôi không nghe rõ.
Ông Thabane quay hỏi nó “Chú cũng là thiếu niên thất nghiệp, phải thế không?”
Nó mỉm cười rồi bảo “Rẽ đây, ngay sau cửa hàng kia”.
Ba cửa hàng nằm chơ vơ giữa khoảng đất hoang cháy xém, một hàng có biển đề HÃNG BHAWOODEN, tôi còn đọc được.
Ông Thabane nói “Lâu rồi, từ năm ngóai cơ”.
Chúng tôi ra đường đất rộng hơn. Phía trái có một căn nhà sạch sẽ hơn, tường gạch, mái xi măng đúc, có cả lò sưởi. Xa đó một chút quanh đó là những ngôi nhà lụp xụp.
Chú bé chỉ tay “Nhà kia kìa”.
Nhà này dài và thấp, có lẽ là phòng họp hay trường học gì đó, chung quanh có hàng rào lưới. Nhiều chỗ đã bị dẫm bẹp, chỉ còn vài bức tường khói đen. Một đám đông đã đứng trước nhà. Một số quay ra nhìn chiếc xe Hillman của tôi đang đến.
Tôi hỏi “Có nên tắt máy không?”
Ông Thabane nói “Bà cứ tắt máy đi, không có gì phải sợ”.
Tôi bảo “Tôi không sợ”. Thật không? Kể ra sau vụ vừa rồi cũng sợ chứ, nhưng tôi không quan tâm mấy nữa.
Ông ta bảo “Dù sao cũng chẳng đáng sợ”. Rồi chỉ tay nói “Đám trẻ ở đây sẽ bảo vệ cho bà”.
Tôi trông thấy ba đứa mặc quần áo kaki lính, đội mũ sắt, đứng sau đám cây ở cuối đường, hình chúng hiện rõ trên nền trời.
Ông ta lại nói “Nếu bà tưởng đây là xung đột giữa đám da đen với nhau thì không phải đâu. Kìa, nhìn cô em tôi kìa”.
Ông ta gọi là cô em tôi, chứ không gọi là Florence. Có lẽ trên đời này chỉ mình tôi gọi cô ta là Florence. Gọi cô ta bằng bí danh. Bây giờ tôi sẽ có thể biết được sự thật của họ.
Cô ta đứng tựa lưng vào tường tránh mưa, trông giống một phụ nữ đáng kính khoác áo màu nho chín, được viền trắng. Chúng tôi đi về phía đó. Cô ta không có biểu hiện gì nhưng tôi chắc cô ta đã thấy tôi. Tôi gọi “Florene!” Cô ta nhìn lên, vẻ buồn bã. “Cô tìm thấy nó chưa?”
Cô ta gật, hất đầu vào phía trong rồi quay đi, không trả lời tôi. Ông Thabane len qua đám người vào bên trong. Tôi lúng túng ngồi  chờ. Mọi người đi qua đây đều đến gần nhìn tôi như có vẻ không bằng lòng.
Một cô bé mặc váy học sinh màu táo xanh tiến về chỗ tôi giơ tay lên như muốn tát vào mặt. Tôi rụt người lại nhưng cô bé chỉ đùa. Chưa biết chừng cô ta định làm như thế thật.
Ông Thabane chạy ra, thở hồng hộc “Có lẽ bà nên vào xem”. Ông ta đến chỗ Florence, ôm cô ta vào lòng. Cô ta bỏ kính, gục đầu vào vai ông ta khóc.
Trong nhà chất đầy gạch đá gậy gộc. Cuối phòng chỗ tránh mưa tốt nhất có năm xác người được xếp nằm gọn ghẽ. Cái xác nằm giữa chính là Bheki, con của Florence. Nó vẫn còn mặc quần nỉ màu xám, sơ mi trắng, áo lên cộc tay màu nâu đậm của trường học, nhưng chân không đi giày. Mắt nó mở trừng trừng và miệng há to. Nó và các bạn đều đã phải dưới mưa hàng giờ, không chỉ ở đây mà nhiều chỗ khác trước khi chết. Quần áo, tóc tai cả bọn đều xơ xác. Đuôi mắt và miệng của Bheki còn có cả những hạt cát. Một người nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngỡ ngàng, nhìn mặt một cô bé gái, nghiêm nghị mở to mắt. Cô bé gọi “Bà ơi..” rồi không nói gì nữa.
Một bà đứng gần đó mỉm cười giải thích “Nó muốn hỏi bà có phải là một trong số nữ tu không đấy”.
Lúc này tôi không muốn ai đưa tôi đi đâu. Tôi lắc đầu.
Bà kia nói “Nó muốn hỏi bà có phải là một trong số nữ tu của Giáo hội Cơ đốc không”. Bà ta lại quay sang tôi rồi nói tiếng Anh với nó “Không, bà ấy không phải là nữ tu đâu”. Rồi nhấc tay nó ra khỏi tay áo tôi.
Một đám người quây chung quanh Florence.
Tôi hỏi ông Thabane “Để chúng nằm dưới mưa như thế này sao?”
–         Chúng phải nằm đó để cho mọi người được thấy.
–         Nhưng ai gây ra chuyện này?
Khắp người tôi run rẩy, cả tay nữa. Tôi nghĩ đến đôi mắt thằng bé mở trừng trừng. Không biết lần cuối cùng nó thấy gì trên đời này? Đây là điều tệ hại nhất tôi được chứng kiến. Rồi tôi nghĩ bụng: bây giờ mình đã mở mắt rồi, sẽ không bao giờ có thể nhắm mắt được nữa.
Ông Thabane nói “Ai gây ra ư? Nếu bà lấy được những viên đạn trong người chúng thi tôi hoan nghênh. Nhưng tôi nói trước để bà biết. “Chế tạo tại Nam Phi đã được SABS duyệt”. Đó là những gì bà sẽ thấy”.
Tôi nói “Xin ông hãy nghe đây. Tôi không liên quan với…cuộc chiến tranh này đâu. Sao tôi có thể bàng quan được? Chẳng gì chúng tôi ngăn được điều này”. Tôi cảm thấy muốn khóc nhưng ở đây, bên cạnh Florence, tôi không có quyền khóc. Tôi nói khẽ “Điều đó sống trong tôi, và tôi cũng sống trong lòng nó”.
Ông Thabane nhún vai. Trông ông ta càng xấu xí. Chắc chắn bây giờ tôi cũng xấu hơn. Sự biến dạng làm cho lời nói của ta nặng nề, cảm nghĩ của ta tê dại, biến ta thành thú vật. Liệu trên đất này cây cỏ có thể mọc ở đâu để giúp cho ta thoát khỏi tình trạng ấy?
Mẹ kể lại cho con câu chuyện sáng nay, bụng vẫn nhớ rằng người kể chuyện có cái quyền chính đáng của mình. Phải qua con mắt của mẹ con mới thấy được chuyện đó. Tiếng nói trong đầu óc con là tiếng nói của mẹ. Chỉ có qua mẹ con mới đến được đây để nhìn những căn nhà hoang vắng, ngửi thấy khói, nhìn thấy xác chết, nghe thấy tiếng khóc, thấy người ta phơi mình dưới mưa. Điều con nghĩ là ý nghĩ của mẹ, điều con cảm thấy là nỗi thất vọng của mẹ, cũng như mong chờ bất cứ điều gì có thể chấm dứt ý nghĩ muốn ngủ đi, chờ chết. Tình cảm của con tràn trong lòng mẹ, trái tim cùng nhịp đập với trái tim mẹ.
Này con, da thịt của da thịt mẹ, cái tốt đẹp nhất của mẹ, mẹ yêu cầu con hãy trở lại đi. Mẹ kể chuyện này chẳng phải để con thông cảm với mẹ, mà để con biết câu chuyện là thế nào. Mẹ biết sẽ dễ cho con hơn nếu như câu chuyện do người khác kể lại, tiếng con nghe được là tiếng của người xa lạ. Nhưng sự thật là không có ai khác, duy nhất chỉ có mẹ. Mẹ là người viết ra những điều này. Mẹ yêu cầu con hãy nghĩ đến những gì viết ra, đừng nghĩ đến mẹ. Nếu những lời ấy là nói dối, kêu ca một cách vô cớ, con cũng cứ nghe. Đừng bỏ qua, đừng dễ dàng tha thứ. Con hãy đọc hết, dù mẹ khẩn thiết yêu cầu bằng con mắt lạnh lùng.
Có ai đó ném đá vào kính chắn gió. Cục đá to bằng đầuđứa trẻ nằm lặng im trên ghế xe giữa những mảnh kính vỡ, y như nó là chủ chiếc xe vậy. Tôi nghĩ không biết tìm đâu được tấm kính chắn gió cho xe Hillman bây giờ đây? Rồi nghĩ cũng may mà mọi thứ cùng chấm dứt một lúc!
Tôi cầm cục đá trên ghế vứt ra ngoài, nhặt những mảnh vỡ. Bây giờ có việc làm nên tôi bình tĩnh hơn, càng bình tĩnh hơn nữa vì tôi không còn quan tâm đến chuyện mình còn sống hay không. Cái gì có thể xảy đến với tôi không còn quan trọng nữa. Tôi nghĩ đời mình cũng là bỏ đi rồi. Ta bắn giết những người đó vì họ là đồ bỏ đi, nhưng cuối cùng thì chính cuộc sống và bản thân ta cũng không đáng sống.
Tôi nghĩ đến năm cái xác to lớn nằm lồ lộ trước ngôi nhà bị cháy rụi. Tôi nghĩ hồn ma của họ chưa bay đi và sẽ không bỏ đi. Hồn ma của họ còn ngồi vững vàng ở đó, còn chiếm lĩnh họ.
Nếu ai đào cho tôi nấm mồ ở đây, đào trong cát và chỉ chỗ tôi, tôi sẽ lặng lẽ chui vào đó nằm, khoanh tay trên ngực, không nói một lời nào. Rồi khi cát phủ vào miệng, vào mắt, tôi sẽ không hề nhấc một ngón tay mà phủi đi.
Con đừng vì cảm tình mà đọc những dòng này. Trái tim con cùng đập với trái tim mẹ.
Tôi giơ một đồng tiền ra ngoài cửa xe. Người lớn tranh nhau chạy đến. Trẻ con xô đẩy nhau. Máy xe nổ. Tôi dốc cả túi tiền vào những bàn tay chìa tới.
Qua quãng đường cây cối rậm rạp đến một chỗ có nhiều xe quân sự. Tôi đếm, không chỉ có ba mà những năm xe. Bằng con mắt trẻ thơ, đội mũ che mưa, tôi bước ra khỏi xe, quần áo ướt thấm lạnh khiến tôi tưởng như mình đang trần trụi.
Tôi đã hy vọng những gì cần nói sẽ bật ra, nhưng chẳng nói được gì. Tôi chìa tay, lật ngửa bàn tay, bàn tay bảo tôi không nói được.
“Wag in die motor, ek sal die polisie skakel”, chú bé kêu lên. Cậu ta có má lúm đồng tiền, làm ra vẻ quan trọng, muốn chơi trò chết người. “Bà cứ ngồi chờ trong xe đi, để tôi gọi cảnh sát cho”. Tôi lắc đầu, lắc đầu mãi. Cậu ta như đang nói với ai đó ngồi bên mà tôi không trông thấy. Cậu ta cười. Chắc họ đã quan sát tôi từ trước và có nhận xét gì về tôi rồi. Họ cho tôi là một bà già điên khùng có thiện chí đang bị kẹt trong mưa, một con gà mái ủ rũ. Họ nói đúng chăng? Tôi là người có thiện chí ư? Không đâu, tôi chưa thấy mình làm gì tốt cả. Hay tôi điên khùng thật? Đúng đấy, tôi điên khùng. Nhưng họ cũng điên khùng. Tất cả chúng ta đều điên khùng, bị ma ám. Khi sự điên khùng đã lên ngôi, thử hỏi còn ai trên đất nước này không bị nhiễm?
Tôi bảo “Đừng gọi cảnh sát, tôi tự lo được”. Nhưng chung quanh vẫn có tiếng rầm rì, có những con mắt liếc nhìn. Có lẽ họ đã nghe đài.
Tôi gọi chú bé hỏi “Cậu định làm gì thế?” Cậu ta mỉm cười. “Cậu định làm gì thế?” Tôi lại quát lên, giọng the thé. Cậu ta chưng hửng nhìn xuống. Chưng hửng vì bị một bà người da trắng quát tháo, một người có cái tuổi có thể là bà ngoại cậu ta được.
Một người mặc đồ dã chiến từ chiếc xe đỗ phía sau đi tới. Anh ta nhìn tôi. “Wat is die moekikheid?” Anh ta hỏi chú bé ngồi trong xe quân sự. “Nee, niks moeilikheid nie”. Không có vấn đề. “Net hierdie dame wat wil weet wat aangaan”.
Anh ta quay sang tôi nói “Chỗ này nguy hiểm lắm, thưa bà”. Rõ ràng anh ta là một sĩ quan. “Ở đây có thể xảy ra nhiều chuyện. Để tôi cho người hộ tống, đưa bà trở lại đường cũ”.
Tôi lắc đầu. Tôi đã tự làm chủ được mình. Tôi không chảy nước mắt nữa, tuy biết không để chuyện gì làm mình sụp đổ vào bất cứ lúc nào.
Tôi muốn gì chứ? Bà già này muốn gì? Điều tôi muốn là nói ra hết với họ, nói bất cứ gì có thể nói được vào lúc này, ở chỗ này. Điều tôi muốn, trước khi bị họ tống khứ, là phô bày vết sẹo, vết thương, bắt họ phải tận mắt nhìn thấy. Vết sẹo nào cũng được, vết sẹo của tất cả sự đau khổ, vì đó là vết sẹo của chính tôi, vết sẹo duy nhất tôi có thể mang theo. Tôi đã đưa tay lên định cởi khuy áo nhưng ngón tay tôi bỗng tê dại hẳn đi.
Tôi hỏi bằng một giọng khàn khàn “Các anh đã nhìn thấy gì trong ngôi nhà kia chưa?” Nước mắt tôi bắt đầu ứa ra.
Viên sĩ quan vứt điếu thuốc lá xuống đất, chân dí vào mặt cát ướt.
Anh ta nhẹ nhàng nói “Trong hai mươi bốn giờ qua đơn vị này chưa bắn một viên đạn nào. Tôi đề nghị với bà thế này: bà đừng thất vọng trước khi bà biết rõ mình nói gì. Những người trong đó không phải là những người duy nhất bị chết đâu. Những cuộc bắn giết lúc nào cũng có. Họ chỉ là những xác nhặt về từ chiều hôm qua. Hiện nay chuyện đánh nhau đã giảm bớt, nhưng tạnh mưa sẽ lại bùng lên ngay. Tôi không hiểu bà làm sao đến đây được – lẽ ra họ đã chắn đường – nhưng chỗ này không tiện đâu, bà không nên ở đây. Chúng tôi sẽ điện báo cho cảnh sát, họ có thể hộ tống bà ra khỏi chỗ này”.
Chú bé trong xe quân sự nói “Ek het reeds geskakel!”
Tôi bảo “Tại sao các anh không bỏ súng xuống mà về nhà đi, về tất cả đi. Vì chắc chắn là không có gì tệ hơn những việc các anh làm ở đây. Ý tôi muốn nói là tệ hại cho tâm hồn của các anh”.
Anh ta đáp “Không”. Tôi đã tưởng anh ta không hiểu, nhưng không, anh ta rất hiểu tôi nói gì. “Bây giờ chúng ta sẽ rõ hết”.
Khắp người tôi ớn lạnh. Ngón tay tôi cụp vào, không duỗi ra được nữa. Gió thổi quần áo dính vào da thịt tôi.
Tôi nói “TG biết một trong những đứa trẻ đã chết ấy. Tôi biết nó từ khi nó lên năm tuổi. Mẹ nó giúp việc cho tôi. Tất cả các anh đều quá trẻ để làm những việc này. Tôi ghê tởm, chỉ có vậy thôi”.
Tôi lùi xe vào trong nhà, ngồi trên xe đợi. Họ đã mang mấy cái xác ra ngoài. Tôi cảm thấy đám đông nhìn tôi như bực bội, căm ghét, thậm chí thù hận. Nếu như tôi không nói gì với đám lính kia sẽ khác chăng? Không.
Ông Thabane bước đến xem tôi cần gì. Tôi nói “Tôi xin lỗi, nhưng tôi không chắc có biết đường về không”.
Ông ta đáp gọn “Bà ra đường nhựa, rẽ phải, theo bảng chỉ đường”.
–         Phải, nhưng bảng nào?
–         Bảng đến chỗ văn minh – nói rồi ông ta quay gót.
Tôi cho xe đi chậm, phần vì gió táp vào mặt, phần vì thể xác và linh hồn tôi tê dại. Tôi lạc vào một vùng ngoại ô chưa nghe nói đến bao giờ, phải mất hai mươi phút đi quanh các phố lạ mới tìm được đường ra. Cuối cùng tôi đến đường Voortrekker. Đến đây, mọi người thấy lạ, chăm chú nhìn xe tôi có tấm kính chắn gió bị vỡ toang. Họ còn nhìn theo tôi đến tận nhà.
Ngôi nhà vừa lạnh vừa xa lạ. Tôi tự nhủ: hãy tắm nước nóng cái đã, rồi nghỉ. Nhưng người tôi bỗng mệt rũ ra, lạnh cứng. Tôi phải cố lê lên gác, cởi hết quần áo ướt, khoác chiếc áo ngủ rồi lên giường. Cát sỏi ở ngoài Mũi Xóm chui vào kẽ chân. Tôi nghĩ bụng mình sẽ chẳng bao giờ còn ấm lên được. Vercueil có con chó để nằm với nó. Vercueil biết sống như thế nào với hoàn cảnh này. Còn tôi, với thằng bé lạnh lẽo sắp đem vùi trong lòng đất ấy, chẳng có con chó nào giúp. Cát đã chui vào miệng nó, đòi mạng nó.
Đã mười sáu năm kể từ khi mẹ không chung giường với một người đàn ông hoặc với một đứa trẻ. Mười sáu năm cô đơn. Con có lấy thế làm lạ không?
Mẹ đã viết, đang viết. Mẹ đi theo cây bút, nó đi đến đâu mẹ đến đấy. Bây giờ mẹ còn gì nữa đâu?
Thức dậy người tôi mỏi nhừ. Vẫn đang đêm. Không thấy ngày đâu.
Trong buồng vệ sinh có đèn sáng. Vercueil ngủ ngồi trên hố xí, quần kéo xuống ngang đầu gối, đầu đội mũ. Tôi nhìn mà ngạc nhiên hết sức.
Anh ta không tỉnh, trái lại, mặc dù đầu lắc lư, miệng há hốc, anh ta vẫn ngủ như đứa trẻ. Đùi anh ta dài ngoẳng, hầu như không có lông chân.
Cửa bếp mở toang, thùng rác đổ kềnh, rác tung toé ở sân. Con chó đùa với mảnh giấy gói đồ cũ. Trông thấy tôi, nó vểnh tai, vẫy đuôi. Tôi lẩm bẩm “Thật quá đáng! Thật quá đáng!” con chó lẻn ra ngoài.
Tôi ngồi vào bàn bật khóc. Không phải vì đầu óc hoang mang, cũng không phải vì cảnh bề bộn trong nhà, mà vì thằng Bheki. Tôi quay nhìn hướng nào cũng nó trước mặt, mắt nó mở to như đứa trẻ ngơ ngác về cái chết. Tôi gục đầu nức nở, thương tiếc nó, thương tiếc những gì đã lấy đi của nó, lấy đi của tôi. Sống thì tốt đẹp biết chừng nào! Sống là ý tưởng tuyệt vời của Chúa! Chưa bao giờ có ý tưởng nào hay hơn thế. Không quà tặng nào hào phóng hơn thế, tự nó lại đổi mới qua các thế hệ. Vậy mà bây giờ Bheki đã bị tước mất, không còn nữa!
Tôi muốn về nhà! – tôi xấu hổ vì đã nói thế với ông Thabane, người bán giày. Câu nói trẻ con của một người già. Về nhà để được an toàn, để ngủ trên chiếc giường của thời niên thiếu. Tôi có bao giờ tỉnh táo đâu? Tôi nên tự hỏi: người chết có biết là mình chết không. Không. Người chết không được biết gì hết. Nhưng trong giấc ngủ như chết, ít nhất ta cũng được báo trước. Tôi được báo trước nhiều hơn mọi ký ức được biết đã có một thời tôi sống, chắc chắn là như vậy. Sống, rồi sau đó cái sống bị đánh cắp. Việc đánh cắp diễn ra từ trong nôi. Đứa trẻ bị lấy đi, thay vào là con búp bê được bú mớm, nuôi nấng, và tôi phải gọi búp bê ấy chính là tôi.
Búp bê? Cuộc sống của búp bê? Phải chăng tôi đã sống như thế? Phải chăng búp bê được ban cho quan niệm như thế? Hay ý nghĩ ấy chỉ đến và đi như báo trước, chớp nhoáng, như mũi tên trí tuệ của thiên thần chọc thủng đám sương mù? Búp bê có thể nhận thức mình là búp bê không? Búp bê có biết chết là gì không? Không, búp bê lớn lên được, biết nói năng đi đứng, biết lang thang trên đường đời. Nó già đi, héo hắt và tàn lụi. Nó bị vứt vào lửa hoặc chôn xuống đất, nhưng nó không chết. Nó mãi mãi tồn tại đúng vào lúc nó bị bất ngờ, sững sờ trước khi nó nhớ ra rằng cái sống đã bị lấy đi, cái sống không phải của nó mà ở chỗ người ta để nó lại như một vật thay thế. Hiểu biết của nó là hiểu biết không có chất, không có sức nặng trần tục, chỉ là một cái đầu búp bê rỗng tuếch, nhẹ tênh. Bản thân nó không phải là đứa trẻ mà chỉ có ý nghĩ của đứa trẻ, tròn hơn, đỏ hơn, mắt xanh hơn chính mắt đứa trẻ, không biết là sống mà chỉ là ý tưởng về cái sống, không đạo lý, không chết, như mọi ý tưởng khác vậy.
Âm phủ, Địa ngục, là lĩnh vực của ý tưởng. Tại sao cần phải lấy địa ngục làm chỗ cho nó trong băng lạnh ở Nam cực hay ở miệng núi lửa? Tại sao địa ngục lại không phải ở dưới chân châu Phi, và tại sao các sinh vật của địa ngục lại không thể đi giữa cái sống?
Đứa trẻ đứng bên giường cha nài hỏi “Cha không thấy con đang bị đốt cháy hay sao?” Nhưng cha nó vẫn ngủ, vẫn mơ, không thấy gì hết.
Đó là cái lý tôi nêu ra để thấy tại sao tôi phải bám chặt vào ký ức về mẹ tôi. Vì nếu không phải bà cho tôi sự sống thì chẳng ai khác cho được. Tôi không chỉ bám vào ký ức về bà mà bám vào người bà, bám vào thân thể bà, bám vào cái đã sinh ra tôi trên đời này. Nhờ có bà và sữa của thân thể bà mà tôi ra đời. Rồi bị đánh cắp và mất đi từ đó đến nay.
Có một tấm ảnh về mẹ, con đã xem rồi và có lẽ không nhớ. Ảnh chụp năm 1918, hồi đó mẹ chưa đầy hai tuổi. Ảnh chụp mẹ đứng với tay đến máy ảnh, bà ngoại quỳ phía sau, tay nắm chiếc đai buộc vào vai mẹ. Đứng bên cạnh là Paul, ông anh mẹ, đầu đội mũ chéo, chẳng nhìn đến mẹ.
Mẹ nheo mắt nhìn vào máy ảnh. Không hiểu lúc đó mẹ liếc nhin vào ánh nắng, hay như dân man rợ Borneo, mẹ có cảm giác máy ảnh cướp mất tâm hồn mình? Hơn nữa, bà ngoại giữ mẹ lại, không cho đụng vào máy ảnh sợ rơi xuống đất, sợ rằng mẹ cũng như búp bê, không nhìn thấy mình trong máy ảnh. Không biết bà ngoại có hiểu rằng chính bà cũng không có?
Paul chết rồi, vì thế mẹ viết những dòng này. Lúc bác ấy ra đi, mẹ nắm chặt tay, thì thầm bên tai “Anh sẽ được thấy mẹ, cả mẹ và anh sẽ được sung sướng”. Bác thật nhợt nhạt, mắt trắng dã có màu xanh của khoảng trời xa. Mắt không hồn, bác ấy nhìn mẹ như muốn nói nhưng chẳng hiểu gì hết! Không biết Paul đã sống thật sự bao giờ chưa? Có lần bác ấy viết thư cho mẹ nói “đời chỉ là vay mượn”. Cuối cùng chẳng biết bác ấy có biết là mình sai lầm không? Chẳng hiểu đôi mắt đục mờ ấy có thể nhìn thấu mẹ không?
Hôm đó chụp ảnh trong vườn. Sau lưng bồn hoa giống như hoa thục quỳ, phía trái có luống dưa, mẹ nhận ra chỗ này. Đó là Uniondale, ngôi nhà trên phố Nhà Thờ do ông ngoại mua khi đà điều bắt đầu mọc lông. Mỗi năm trong vườn đều có hoa quả, rau cỏ, mọc mầm rồi chết, rồi lại mọc, um tùm như ban lộc cho mọi người. Nhưng có ai chăm sóc đâu? Ai ngắt hoa thục quỳ? Ai gieo hạt giống dưa vào luống đất ẩm ướt? Có phải ông ngoại dậy từ bốn giờ sáng lạnh buốt để mở cống dẫn nước vào vườn? Nếu không phải là ông ngoại thì vườn đo thuộc quyền ai? Ngoài tấm ảnh ra, còn ai là người đào xới chăm bón?
Dies irae, dies illa, khi người vắng phải có mặt nhưng hiện tại vắng mặt. Tấm ảnh không còn thấy ai ở trong vườn hôm đó mà lại không có đó. Những năm qua đi khắp nơi trên đất nước tìm chỗ che giấu, trong các tập ảnh, trong ngăn kéo bàn, tấm ảnh này cũng như hàng ngàn tấm khác đều đã trưởng thành, biến dạng. Ảnh không giữ được như cũ, hoặc đã khác đi – ai mà biết đã xảy ra chuyện gì – nhưng chúng đã trở Thành âm bản, một loại âm bản mới trong đó ta bắt đầu thấy những gì còn lại bên ngoài nó, bí mật.
Có lẽ vì thế mà lông mày tôi trụi đi, vì thế mà tôi cố vươn tay đến máy ảnh. Phải chăng tôi thầm nghĩ máy ảnh là kẻ thù? Nó không dối trá ma     bộc lộ cái thật trong ta: đó là con người búp bê? Phải chăng lúc ấy tôi cố giằng ra khỏi chiếc đai để đập chiếc máy ảnh trong tay ai đó, sợ để chậm sẽ quá muộn? Ai là người cầm máy ảnh? Ai không hình dáng mà lại cố ngả người vào mẹ tôi và hai đứa nhỏ đứng bên kia giường?
Nỗi đau buồn qua đi, chỉ còn biết khóc. Người tôi trống rỗng. Tôi chỉ là cái vỏ. Số phận dành đúng bệnh cho từng người. Bệnh của tôi là thứ bệnh ăn từ trong ăn ra. Nếu mở tung, họ sẽ thấy tôi rỗng ruột như búp bê, búp bê có con cua nằm bên trong, thè lưỡi liếm, ánh sáng làm chói mắt.
Bây giờ nó gặm nhấm xương tuỷ tôi đến nỗi không còn lại chút thịt nào. Nó gặm nhấm xương hông của tôi, gặm nhấm cột sống của tôi, bắt đầu gặm đến đầu gối. Nói thật ra, đám mèo chưa bao giờ thật sự yêu quý tôi. Chỉ có giống này trung thành với tôi đến cùng. Cơn đau đớn là vật cưng của tôi.
Tôi lên gác mở cửa phòng vệ sinh. Vercueil vẫn ngồi đó, ngủ gục. Tôi lay anh ta “Ông Vercueil!” Anh ta mở một mắt. “Lại đây mà nằm”.
Nhưng anh ta không chịu. Tôi nghe anh ta đi từng bậc thang xuống nhà như ông cụ. Rồi nghe cửa sau đóng.

Một ngày đẹp trong số những ngày đông yên ắng và mọi chỗ trên bầu trời đều sáng sủa. Vercueil lái xe đưa tôi xuống phố Breda, vào phố Cam. Qua đại lộ Chính Phủ, tôi bảo anh ta đỗ xe.
Tôi nói “Tôi định cho xe đi suốt đại lộ. Qua khỏi chỗ chắn dây xích, sẽ không còn ai chặn xe nữa. Anh nhắm có thể qua được không?”
(Chắc con nhớ. ở đầu đại lộ chắn dây xích, hai bên có hai cọc sắt to).
Anh ta nói “Được chứ, có thể lách đi được”.
–         Sau đó ta có thể đi thẳng tuốt.
Cặp mắt ti hí nhìn tôi hỏi “Bà định làm thế thật ư?”
–         Nếu tôi có đủ can đảm.
–         Nhưng tại sao? Để làm gì chứ?
Với cái nhìn ấy, tôi khó mà trả lời rõ ràng. Tôi nhắm mắt, hình dung chiếc xe của tôi phóng nhanh, nhả khói ở phía sau, chạy dọc con đường qua đám du khách, người đi bộ, những cặp tình nhân, qua bảo tàng, phòng triển lãm tranh, qua vườn bách thảo, rồi đi chậm lại và đỗ hẳn trước ngôi nhà nhục nhã đang cháy rụi.
Tôi nói “Bây giờ ta có thể quay về. Tôi chỉ muốn xem có thể làm như thế được không thôi”.
Anh ta vào nhà. Tôi mời anh ta uống trà. Con chó nằm dưới chân, vểnh tai nghe chúng tôi nói chuyện. Con chó thật ngoan. Nó có mặt lúc này như một ngôi sao vậy.
Tôi nói “Vừa rồi anh hỏi “để làm gì”, tôi xin trả lời, điều ấy liên quan đến cái sống của tôi. Làm gì với cái sống đó là chuyện không đáng kể nữa. Tôi chỉ định thử xem làm như thế thì được gì”.
Anh ta vuốt ve con chó. Nó nhắm mắt nằm yên. Tôi nghĩ bụng đó là tình yêu, dù không hẳn thế thì điều tôi chứng kiến đó cũng là tình yêu.
Tôi nói tiếp “Có một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nói về một người đàn bà bị buộc tội ngoại tình – xưa kia ngoại tình bị coi là tội ác – họ đem bêu chị ta trước công chúng với chữ A (Adultery – ngoại tình) khâu trên áo. Chị ta mặc áo có chữ A mà không ai hiểu chữ ấy là thế nào. Rồi người ta quên đi, chẳng ai hỏi nữa. Đó chỉ là thứ đeo vào người như chiếc nhẫn hay ghim hoa cài trên áo thôi. Rồi nó trở thành thứ mốt thời trang, viết chữ lên áo. Trong tiểu thuyết không nói thế”.
“Ai mà biết được người ta muốn nói lên cái gì trong những cuộc trình diễn trước công chúng, những cuộc biểu thị như vậy? – đây mới là mấu chốt của câu chuyện. Chẳng hạn một bà già tự thiêu. Tại sao thế? Bà ta bị điên ư? Bà ta thất vọng ư? Bà ta bị ung thư chăng? Tôi đã nghĩ đến việc viết chữ gì đó lên xe để giải thích. Nhưng viết chữ gì? A hay B hay C? Trường hợp của tôi thì viết chữ gì? Mà việc gì phải giải thích chứ? Chuyện riêng của tôi thì có dính gì đến ai đâu?”
Đáng lẽ tôi còn nói nữa nhưng lúc đó có tiếng cạch ngoài cổng và con chó đã gầm gừ. hai những đàn bà, một người tôi nhận ra là chị của Florence, tay xách vali bước vào.
Cô chị Florence lên tiếng chào. Tay chị ta cầm chìa khoá “Chúng tôi đến lấy đồ đạc của Florence”.
Tôi đáp “Vâng, được”.
Họ vào phòng Florence. Lát sau tôi theo vào hỏi “Florence vẫn mạnh khoẻ chứ?”
Cô chị đang mở ngăn kéo đứng dậy thở dài. Rõ ràng câu hỏi ngớ ngẩn của tôi làm chị ta nhẹ người.
Chị ta nói “Không ạ, không thể nói là cô ấy mạnh khoẻ được. Không mạnh khoẻ. Làm sao cô ấy có thể mạnh khoẻ được?”
Người đàn bà kia làm như không nghe thấy gì, tiếp tục gói ghém quần áo của bọn trẻ. Trong phòng còn nhiều thứ khác không thể bỏ hết vào hai chiếc vali được.
Tôi nói “Ý tôi không phải thế, nhưng thôi, không sao, tôi có thể nhờ cô đem một thứ cho Florence được không?”
–         Được, nếu không cồng kềnh lắm.
Tôi viết một tấm séc.
–         Cô nói giùm với Florence là tôi rất tiếc. Nói là tôi rất tiếc, không thể nói gì hơn. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến Bheki.
–         Bà rất tiếc.
–         Vâng.

Lại một ngày đẹp trời nữa. Vercueil có vẻ kích thích lạ thường. Anh ta hỏi “Hôm nay là ngày đó ư?” Tôi nói “Phải”. Thấy anh ta có ý sốt sắng với vẻ không lành mạnh, tôi định nói thêm “Nhưng việc gì đến anh?”.
Đúng, tôi đã nói hôm nay là ngày đó. Nhưng “cái hôm nay” ấy đã qua rồi, và tôi không làm được như đã hứa. Vì chừng nào còn tiếp tục nói những lời lê thê, chắc chắn tôi chưa thực hiện được điều tôi đã quy định. Thực ra cái chết là kẻ thù lớn cuối cùng của việc viết lách, nhưng viết lách lại cũng là kẻ thù của cái chết. Do đó, viết lách, nắm cái chết trong tay, phải nói là tôi muốn viết cho xong hẳn, muốn nói được nhiều điều. Tôi muốn tắm rửa, mặc quần áo, chuẩn bị cho mình chút tự hào để trở lại cái ngày đó. Nằm ở giưỡng chờ đợi tắt thở hay đi ra ngoài để chấm dứt đời mình, thì có khác gì nhau?
Có thật là tôi muốn làm cho xong việc đó không? Có. Không. Có- Không. Có từ này nhưng chưa bao giờ được đưa vào tự điển. Có-Không: Mỗi người đàn bà đều biết nó có nghĩa như thế nào vì mọi đàn ông đều chịu thua cái từ đó. Vercueil hỏi “Bà có định làm thế không?” Mắt anh ta sáng lên. Lẽ ra tôi đã trả lời “Có-Không”.
Tôi mặc đồ trắng lẫn xanh, bộ đồ xanh trắng, chiếc áo trắng hở cổ. Tôi cẩn thận sửa soạn mặt mũi một lần nữa. Tôi ngồi lì trước gương, người khẽ run rẩy. Tôi không thấy đau chút nào. Con cua trong mình đã thôi gặm nhấm.
Vercueil tò mò theo tôi vào bếp. Anh ta lảng vảng khi tôi đang ăn sáng. Cuối cùng, tôi khó chịu bảo “Xin anh để tôi yên!” Anh ta quay đi, vẻ giận dữ rất trẻ con. Tôi nắm tay áo anh ta kéo lại nói “Tôi không có ý thế đâu. Nhưng anh ngồi xuống đây đã. Tôi chỉ muốn yên nhưng anh làm tôi bực mình. Tôi phải quay ra quay vào mãi. Đến một lúc tôi nghĩ: hãy để tôi kết thúc cho nhanh cuộc sống vô vị này đi. Rồi tôi lại nghĩ: nhưng tội gì tôi chịu khổ như vậy? Tại sao tôi cứ muốn vươn mình lên trên thời buổi của tôi? Phải chăng những gì tôi làm là đáng xấu hổ? Tại sao cái già yếu, cái đau đớn lại cứ rơi vào tôi, khiến tôi phải tự mình cố ngoi lên khỏi cái hố nhục nhã mà không có ai giúp đỡ?
Tôi muốn nổi điên với những ai đã tạo ra thời buổi này. Tôi muốn tố cáo họ đã làm hỏng đời tôi, y như một con gián bò vào làm hỏng thức ăn mà chúng không ăn, chỉ bò vào ngửi và bôi bẩn thôi. Tôi nghĩ bụng: chỉ tay đổ tội cho người khác là trẻ con. Nhưng tại sao tôi lại nhận để cuộc sống của tôi thành vô vị dù cho ai có quyền ở đất nước này cũng thế? Dù sao quyền lực vẫn là quyền lực. Nó xâm chiếm cuộc sống. Tự nhiên phải thế.
Anh muốn biết tôi hiện đang thế nào ư, rồi tôi sẽ nói. Tôi muốn đem bán bản thân tôi, muốn chuộc lại bản thân tôi, nhưng tôi hoàn toàn hoang mang chẳng biết làm thế nào. Có thể nói sự điên rồ đã thấm vào người tôi. Anh chẳng cần ngạc nhiên. Anh đã biết đất nước này thế nào rồi. Không khí ở đây là điên rồ”.
Nghe tôi nói, Vercueil vẫn nheo mắt nhìn với vẻ khó chịu. Bỗng anh ta nói một câu rất lạ “Bà muốn ra xe đi một lúc không?”
–         Ông Vercueil, chúng ta không đi được. Có hàng ngàn lý do tại sao không đi được.
–         Chúng ta sẽ đi ngắm cảnh, mười hai giờ quay lại đây.
–         Chúng ta không thể đi ngắm cảnh bằng cái lỗ hổng ở kính chắn gió. Như vậy kỳ cục lắm.
–         Tôi sẽ bỏ kính chắn gió đi. Nó chỉ là mảnh kính. Cần gì đến nó.
Tại sao tôi nghe theo? Có lẽ cuối cùng anh ta đã để ý đến tôi chăng? Anh ta như đứa trẻ trong tuổi đầy phấn khích, phấn khích tình dục, mà tôi lại là đối tượng. Tôi thấy thú vị, dù thế nào cũng thấy khoái. Trong thâm tâm có thể tôi cảm thấy không thích, chẳng qua như con chó đào miếng thịt thối bị chôn sâu mà thôi. Nhưng tôi không thể phân biệt rõ ràng. Tg muốn lắm chứ? Tôi muốn được treo người lên. Treo lên mà không cần nghĩ ngợi, không đau, không nghi ngờ, không mặc cảm, treo lên cho đến trưa. Cho đến khi súng nổ trên đồi Tín Hiệu với chai xăng để trên ghế cạnh tôi. Hoặc tôi lái, hoặc tôi không lái qua qua chỗ có dây xích trên Đại lộ. Cho đến lúc đó, tôi sẽ chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ nghe chim hót, cảm thấy có gió thôi vào người, được nhìn bầu trời. Và được sống.
Thế là tôi nghe theo. Vercueil quấn chiếc khăn quanh tay, đấm mạnh vào mảnh kính, mở một lỗ to đủ cho đứa trẻ chui vào được. Tôi đưa chìa khoá xe. Một nhát đẩy và chúng tôi lên đường.
Như cặp tình nhân đi thăm lại cảnh vật lúc mới tỏ tình lần đầu, chúng tôi leo lên đường ven núi lên Muizenberg. (Tình nhân! Không biết tôi đã nói gì với Vercueil? Bảo anh ta đừng uống rượu. Anh ta nói gì với tôi? Không nói gì hết, có lẽ cả tên thật cũng không nói). Chúng tôi đỗ xe chỗ cũ. Tôi tự nhủ: nào, bây giờ hãy ngắm cảnh một lần cuối đi, móng tay quặp vào lòng bàn tay, tôi nhìn ra vịnh Giả Tạo, vịnh của những hy vọng giả tạo, nhìn về phía nam đang gợn gió mùa đông, nơi bị bỏ quên hơn cả trong các đại dương.
Tôi khẽ nói “Nếu có thuyền, anh có thể đưa tôi ra biển”.
Đi về phía nam. Chỉ có Vercueil và tôi. Chúng tôi đi đến tận những vùng nào có hải âu bay. Đến một nơi anh ta có thể buộc tôi vào tấm ván hay chiếc thùng, cái gì cũng được, để một mình tôi vẫy vùng trên sóng, dưới những cánh chim trắng thật to.
Vercueil quay xe lại. Tôi đoán nhầm, hay là anh ta điều khiển xe nhẹ nhàng hơn tôi?
Tôi nói “Tôi xin lỗi nếu nói không phải. Tôi cố tình mất hướng. Tôi cố tỏ ra khẩn trương, một ý nghĩ khẩn trương vẫn trốn khỏi tôi. Ngồi đây, giữa cảnh đẹp này, hoặc ngồi nhà giữa đồ đạc quen thuộc, hình như tôi thấy khó tin là chung quanh tôi có một vùng giết chóc và làm mất danh dự. Nó như một giấc mơ tồi tệ. Trong tôi như có gì thúc bách, giục giã. Tôi cố không nghĩ, nhưng nó khăng khăng đến. Tôi càng lui, nó càng thúc tới. Tôi đành để mặc, thế là cuộc sống lại bình thường Tôi yên tâm trở lại bình thường. Tôi lăn lộn trong đó. Tôi mất ý nghĩ xấu hổ, trở thành đứa không biết xấu hổ là gì. Xấu hổ hay không xấu hổ đó là điều tôi không thể quên, điều sau này có thể chịu đựng được. Vì thế tôi phải giữ mình để đi tiếp nếu không tôi sẽ lạc. Anh hiểu không?”
Vercueil gò mình trên tay lái, như người mắt kém. Con mắt diều hâu mà thế. Nhưng anh ta hiểu hay không có quan trọng gì đâu?
Tôi vẫn nói “Y như người ta cố bỏ rượu vậy. Cố mãi, từ đầu đã biết thế nào rồi cũng quay lại. Có chút xấu hổ trong tâm tư riêng ấy, xấu hổ mà nồng ấm, thân mật, dễ chịu, để cảm thấy xấu hổ hơn. Hình như một người cảm thấy xấu hổ không có bờ bến nào hết.
“Nhưng tự giết mình thì khó lắm! người ta bám lấy cuộc sống! Tôi thấy hình như đến lúc cuối cùng có cái gì đó ngoài ý chí, một cái gì xa lạ, không tư duy, quét mình ra khỏi miệng vực thẳm. Anh phải trở thành một người nào đó khác với mình. Nhưng cái gì chờ tôi bước vào chỗ đó? Tôi tìm người đó ở đâu được?”
Đồng hồ tôi chỉ 10 giờ 20. Tôi nói ” Ta phải quay về thôi”.
Verceuil cho xe chậm lại. Anh ta nói “Nếu bà muốn thế, tôi sẽ đưa bà về. Hoặc nếu bà muốn, ta tiếp tục đi. Chúng ta có thể đi quanh bán đảo. Hôm nay đẹp trời mà”.
Đáng lẽ tôi đáp: Không, đưa tôi về ngay. Nhưng tôi ngập ngừng, lúc đó không nói được.
Tôi bảo “Dừng lại đây”.
Verceuil lái xe cạnh đường đỗ lại.
Tôi nói “Tôi muốn nhờ anh một việc. Nhưng anh đừng cười tôi”.
“Tại sao lại cười?”
Phải, bây giờ hoặc sau này.
Anh ta nhún vai.
Bên kia đường có người mặc quần áo rách ngồi cạnh đống củi, chờ bán. Anh ta nhìn chúng tôi rồi quay đi.
Thời gian trôi.
Cuối cùng tôi nói, giọng nhỏ nhẹ “Đã có lần tôi kể cho anh nghe chuyện về mẹ tôi. Chuyện hồi bà còn nhỏ ngủ trong bóng tối, không biết cái gì đang lăn trên người mình, là bánh xe hay là các ngôi sao.
Và đời tôi chỉ nghĩ đến chuyện ấy. Nếu mỗi chúng ta có câu chuyện để nói về mình, hỏi mình là ai và đã ở đâu ra, thì đó chính là câu chuyện của tôi. Đó là câu chuyện tôi đã chọn, hay câu chuyện đó chọn tôi. Tôi là từ đấy mà ra, từ đấy mà bắt đầu.
–         Anh hỏi tôi muốn tiếp tục đi hay không. Nếu thực tế có thể, tôi đề nghị chúng ta đi đến tận Mũi Đông, gần dãy núi Outeniqua, đến chỗ đỗ xe ở đỉnh đèo Hoàng tử Alfred. Thậm chí tôi muốn đề nghị ta hãy để bản đồ lại sau, đánh xe đi về phía bắc, phía đông, theo mặt trời, đến nơi đỗ  xe tôi sẽ nhận ra, chỗ bắt đầu, chỗ có cái rốn, chỗ tôi ra đời ấy. Anh bỏ tôi xuống bên đèo, rồi anh cứ tiếp tục đi, để tôi ở lại chờ đến đêm, chờ các ngôi sao và bánh xe lăn trên người tôi.
“Nhưng sự thật là có hay không có bản đồ thì tôi cũng không tìm ra chỗ ấy. Tại sao? Vì tôi chợt không muốn nữa. Trước đây một năm hay một tháng thì khác. Ý nghĩ mong muốn, có lẽ là mong muốn sâu sắc nhất đã tràn khỏi người tôi, dẫn tôi đến một nơi trên trái đất. Có lẽ tôi sẽ quỳ xuống đó nói: Đây là mẹ tôi, đây là nơi đã cho tôi cuộc sống. Đó là đất thiêng, không phải nấm mồ, mà là nơi phục sinh thiêng liêng, phục sinh vĩnh viễn từ trái đất.
“Bây giờ mong muốn ấy, điều mà tôi gọi nó là tình yêu, đã đi khỏi tôi rồi. Tôi không còn yêu đất nước này nữa. Đơn giản thế thôi. Tôi như một người bị thiến, bị thiến trong khi đang trưởng thành. Tôi cố hình dung ra một người bị thiến thì sống như thế nào. Tôi tưởng tượng anh ta nhìn những gì trước kia đã yêu, trong ký ức biết rằng còn phải yêu nữa, nhưng không thể gọi tình yêu tự đến. Tình yêu: đó là cái gì thế? Anh ta tự nhủ, lục tìm cảm giác cũ trong ký ức. Nhưng mọi thứ bây giờ bằng phẳng, bất động, yên tĩnh. Anh ta sẽ nghĩ: điều ta từng có đã phản bội ta. Anh ta tập trung, cố nghĩ xem phản bội thì nhức nhối như thế nào. Nhưng sẽ không nhức nhối. Nhức nhối sẽ ra đi, từ bỏ hết. Ngược lại anh ta sẽ thấy mình bị lôi kéo, nhẹ thôi nhưng liên tục, bị đẩy đến chỗ kinh hoàng,tách khỏi mọi thứ. Anh ta tự nhủ, tách ra rồi, và giơ tay sờ thử xem nó sắc đến đâu, nhưng lại thấy nó cùn và mòn. Anh ta nghĩ mọi thứ đều co lại, một tuần nữa, một tháng nữa và anh ta sẽ quên hết> Như người ta ăn từng hạt sen vậy. Vì cuối cùng ta sẽ cảm thấy nỗi đau của sự xa cách, mọi thứ đến với ta chỉ như nỗi buồn thoáng qua.
Ong Vercueil, không biết tôi nói như thế đã rõ chưa. Tôi đang nói đến quyết tâm, cố nắm lấy quyết tâm mà không được. Thú thật là tôi đang chết đuối. Tôi ngồi đây bên cạnh anh mà đang chết đuối”.
Vercueil ngả lưng dựa vào xe. Con chó khẽ kêu ư ử, chồm chân lên ghế, chúi đầu về phía trước như đòi đi nữa. Một phút trôi qua.
Anh ta lấy bao diêm trong túi đưa cho tôi nói “Bây giờ bà làm đi”.
–         Làm cái gì?
–         Cái đó.
–         Anh muốn thế sao?
–         Bà làm ngay đi. Tôi ra ngoài xe. Bà làm ngay ở đây đi.
Nước dãi phập phồng ở mép anh ta, tôi nghĩ chắc anh ta điên. Có thể nói anh ta ác độc, điên rồ, như con chó điên.
Anh ta lắc bao diêm trước mặt tôi, chỉ tay vào người đang ngồi bên đống củi “Bà lo cho hắn ư? Hắn sẽ không can thiệp đâu”.
Tôi nói “Ở đây không được”.
–         Chúng ta có thể lên ngọn Chapman. Nếu muốn, tôi có thể lái xe đến bờ vực.
Tôi như đang bị kẹt trong xe với một người đàn ông định quyến rũ, rồi nổi giận vì không chịu nghe. Như bị ai đem về những ngày bi đát của thời son trẻ.
Tôi nói “Ta về nhà được không?”
–         Tôi tưởng bà muốn làm việc ấy kia mà?
–         Anh không hiểu.
–         Tôi tưởng bà muốn phóng xe xuống dốc. Để tôi đẩy cho.
Đến bên ngoài khách sạn ở vịnh Hout, anh ta đỗ lại nói “Bà có tiền đấy không?”
Tôi đưa cho anh ta tờ bạc mười rand.
Anh ta vào cửa hàng tự do rồi quay ra với một chai rượu bọc trong túi giấy nâu. Anh ta vặn nút rồi đưa cho tôi “Bà hãy uống một chút”.
–         Không, cám ơn. Tôi không thích brandy.
–         Không phải brandy, đây là thuốc.
Tôi nhấp một ngụm, định nuốt nhưng sặc, rồi ho, răng muốn rơi ra.
Anh ta nói “Bà cứ ngậm trong miệng thôi”.
Tôi làm ngụm nữa, ngậm trong miệng. Vòm miệng tôi nóng cháy rồi tê đi. Tôi nhắm mắt nuốt. Trong người tôi như  có cái gì nhấc bổng tôi lên. Như tấm màn, như đám mây vậy. Tôi tự hỏi, hoá ra là thế? Chỉ có thế thôi ư? Vercueil chỉ đường cho tôi thế sao?
Anh ta quay xe, lái ngược lên đồi, đỗ lại chỗ người ta thường đi chơi dã ngoại nhìn xuống vịnh. Anh ta uống rồi đưa chai cho tôi. Tôi thận trọng uống từng tí một. Tấm màn xám vẫn che đậy các thư bây giờ sáng lên dần. Tôi nghi hoặc, thấy lạ, rồi tự hỏi: đơn giản thế thật sao, chẳng phải chuyện sống chết một tí nào ư?
Tôi bảo “Thôi được rồi, để tôi nói. Điều làm cho tôi muốn nổ tung không phải tình trạng của tôi, bệnh của tôi mà là một cái gì rất khác”.
Con chó lại kêu ư ử. Vercueil đưa tay ra. Nó liếm bàn tay anh ta.
–         Thằng con của Florence bị bắn hôm thứ Ba.
Anh ta gật.
–         Tôi trông thấy xác nó.
Tôi nói tiếp rồi nhấp một ngụm rượu nữa, nghĩ bụng sao mình nói lắm thế. Chúa tha tội cho tôi! Tôi nói lắm thì Vercueil cũng sẽ bắt chước tôi? Chẳng lẽ anh ta nói với tôi, hai người cùng ngồi trên xe lại thi nhau nói lắm hay sao?
Tôi nói “Tôi thương cảm. Tôi không dám nói là đau đớn vì không có quyền nói như vậy, điều đó để cho người thân của nó nói. Nhưng đến giờ tôi vẫn còn – nói như thế nào nhỉ – còn thấy rối ruột. Có cái gì đó rất nặng nề trong cái chết của nó, trong người nó. Hình như trong khi chết nó trở thành nặng như chì, hoặc như đống bùn dưới đáy đập nước. Như trong khi che6 t nó thở dài một lần cuối và sự nhẹ nhõm trong nó đã bay đi hết. Bây giờ nó nằm đè trên người tôi với tất cả sức nặng của nó. Không ép xuống, chỉ nằm thế thôi.
“Cũng giống thằng bạn nó nằm chảy máu hôm ở hè đường. Cũng nặng như thế. Máu cũng đọng như thế. Tôi đã cố gắng ngăn cho máu khỏi chảy xuống đường. Rất nhiều máu. Nếu để chảy ra đầy chậu, chắc tôi không nhấc nổi cái chậu, vì chẳng khác nào bê một chậu đựng đầy chì.
“Ông Vercueil ạ, trước đây tôi chưa từng thấy người da đen khi họ chết. Tôi biết họ chết nhiều lắm, nhưng xảy ra ở đâu ấy. Những người tôi thấy chết đều là người da trắng, họ chết trên giường, chết khô, thanh thoát và nhẹ như tờ giấy. Tôi chắc họ được thiêu, để lại ít tro, rồi gió cũng quét đi. Anh muốn biết tại sao tôi có ý định tự thiêu không? Vì tôi nghĩ tôi sẽ được thiêu tử tế.
“Thế mà Bheki và những người chết kia không được thiêu. Nếu có sẽ chỉ như thiêu những hình hài bằng gang thép hay bằng chì mà thôi. Có thể họ sẽ mất đi hình dáng sắc sảo, nhưng khi tắt lửa rồi họ vẫn còn đó, vẫn nặng như bao giờ. Cứ để đó lâu, họ sẽ có thể chìm đi từng ly một, cho đến khi đất khép kín trên mình họ, và họ sẽ không chìm sâu hơn nữa. Họ vẫn còn ở đó, bên dưới mặt đất. Nếu anh húc mũi giày vào đó sẽ phát hiện ra họ, mặt mũi tai mắt họ đều mở và chứa đầy cát”.
Vecueil đưa chai rượu và nói “Bà uống đi”. Nét mặt của anh ta đổi khác, môi trề ra, mắt ướt, lơ đãng. Như mặt người đàn bà anh ta đưa về hôm trước. Tôi cầm chai rượu, lấy tay áo lau.
Tôi nói tiếp “Anh nên hiểu chuyện rối ruột tôi nói vừa rồi đó là chuyện riêng thôi. Thực ra đó không phải là chuyện riêng. Tôi rất quý thằng Bheki khi nó còn nhỏ, nhưng tôi không bằng lòng với việc nó biến thành ra thế. Nó và các bạn nó bảo đã bỏ lại sau lưng tuổi niên thiếu. Tất nhiên chúng vẫn còn là trẻ con, nhưng đã trở thành cái gì khác? Những đứa trẻ nghiêm nghị, khắt khe, không biết cười, không biết chơi đùa. Vậy việc gì tôi phải đau đớn thay cho nó? Chẳng qua tôi đã nhìn mặt nó thôi. Khi chết nó trở lại là đứa trẻ. Có lẽ chiếc mặt nạ đã rơi xuống trong sự ngạc nhiên của đứa trẻ khi nó thấy việc ném đá bắn giết kia không phải là trò chơi, và cái tên hộ pháp chạy đến đổ đất cát vào miệng nó ấy, không thể đuổi hắn đi bằng lời hát hay khẩu hiệu được, rồi cuối cùng nó bị bắt, bị bịt miệng không thể thở được và không còn thấy ánh sáng nữa.
Bây giờ thì thằng bé bị chôn vùi, còn ta thì giẫm lên người nó. Nói để anh biết, đi trên đất nước này, đất Nam Phi này, tôi cảm thấy như mình giẫm lên xác những người da đen vậy. Họ chết nhưng tinh thần không rời khỏi họ. Họ nằm đó, nặng nề, rất cứng cỏi, chờ tôi qua đi, chờ vùng dậy. Hàng triệu khuôn mặt gang thép đang trôi nổi dưới bọ bọc trái đất. Tuổi sắt đá đang chờ ngày trở lại.
“Anh nghĩ là tôi thất vọng nhưng rồi sẽ vượt qua được. Anh nghĩ đó là nước mắt rẻ tiền, nước mắt vô cảm, nay đến mai đi. Đúng đấy, trước đây tôi thất vọng, tôi tưởng không thể nào tồi tệ hơn thế, nhưng rồi cái tồi tệ nó đến, tôi đã phải cố hoặc làm như cố để vợt qua nó. Nhưng chính thế mới khốn khổ. Để khỏi bị tê liệt trong nhục nhã, tôi đã phải sống cuộc sống vượt qua cái tồi tệ. Tôi không thể nào  vượt qua nó được nữa. Nếu lần này tôi không vượt qua được, sẽ chẳng bao giờ còn có cơ hội nào để không vượt qua nó nữa”.
vercueil lại đưa chai rượu ra. Đã cạn đi một nửa. Tôi gạt tay anh ta và nói “Tôi không muốn uống nữa”.
Anh ta nói “Cứ uống đi. Phải say cho khác đi chứ”.
Tôi dứt khóat “Không!” Trong người tôi bùng lên nỗi giận dữ chếnh choáng trước sự thô bạo và bàng quan của anh ta. Tôi đang làm gì thế? Trong chiếc xe cũ đã cạn dầu, hai chúng tôi chẳng khác gì những người tị nạn vùng đồng bằng thời kỳ Đại Suy Thoái. Chỉ còn thiếu chiếc đệm rơm và con gà nhốt trong lồng tre nữa thôi. Tôi giằng lấy chai rượu, định thò đầu ra cửa vứt đi nhưng anh ta giật lại được.
Tôi gắt “Cút ra khỏi xe tôi!”
Anh ta cầm chìa khoá xe bước ra ngoài. Con chó nhảy ra chạy theo. Trước mắt tôi anh ta ném chìa khoá vào bụi cây rồi quay lại, tay cầm chai rượu đi xuống đồi, ra vịnh Hout.
Tôi giận điên người, ngồi chờ, nhưng không thấy anh ta trở về.
Mấy phút trôi qua, một chiếc xe chạy lên ngang xe tôi, mở nhạc oang oang, trong xe có một cặp ngồi nhìn ra biển. Nam Phi đang ở thời buổi ăn chơi. Tôi bước ra khỏi xe. Người đàn ông quay sang nhìn tôi, miệng nhai kẹo cao su. Tôi nói “Cho tiếng nhạc nhỏ đi được không?” Anh ta làm như ngó nguáy vào cái gì đó, nhưng tiếng nhạc vẫn to như cũ. Tôi lại gõ nữa. Qua cửa kính, anh ta nói gì không rõ, rồi vụt quay xe đỗ sang phía bên kia đường.
Tôi chui vào bụi cây sục tìm  chìa khoá xe Vercueil vứt vào đó nhưng không thấy.
Cuối cùng xe kia phóng đi. Người đàn bà trong xe quay nhìn tôi. Mặt chị ta không phải không hấp dẫn nhưng tôi thấy nó xâu xấu thế nào, nó quắt lại như sợ hãi, có vẻ như chị ta bị cuộc sống giày vò. Không phải khuôn mặt mà chỉ như một biểu tượng đã mòn mỏi. Màng mỏng giữa thế giới bên ngoài với nội tạng cô ta dầy lên. Tiến hoá, nhưng tiến hoá giật lùi. Như con cá thời tiền sử nằm dưới đáy sâu (chắc con biết điều này) mọc những làn da nhạy cảm với ánh sáng, lâu dần biến thành mắt. Tôi thấy hiện nay Nam Phi có những cặp mắt mờ đi, kéo màng mỗi lúc mỗi dầy, trong khi bọn khám phá đất đai, bọn thực dân chuẩn bị trở lại những đáy sâu ấy.
Mẹ có nên đến chỗ con khi con mời không? Những lúc mềm yếu mẹ thường mong muốn được con an ủi. Cũng may mà mẹ không đi, vì quyền lợi của hai mẹ con đó thôi. Con chả cần đến chim báo bão của thế giới cũ này làm gì, còn mẹ dù có chạy đến chỗ con thì liệu có thoát khỏi cái đất Nam Phi này được không? Làm sao mẹ biết được là mắt mẹ đã kéo màng dầy? Có lẽ người đàn bà ngồi trong xe kia đã nói với  bạn “Bà già ấy thật khốn khổ. Tại sao khuôn mặt bà ta quắt lại thế?”
Với lại, vinh dự gì mà chuồn khỏi cái thời buổi này khi con tàu chứa đám sâu bọ đang chìm với bọn chơi quần vợt, bọn buôn lậu, và bọn  tướng tá nhét túi đầy kim cương bỏ đi tìm nơi ẩn náu để yên thân ở những nơi khác trên thế giới? Tướng G., bộ trưởng M. có tài sản ở Paraguay. Họ dùng lửa than nướng bít tết và nhậu nhẹt với nhau ở những xứ sở phía Nam, uống bia với bồ bịch, hát những bài xưa cũ, rồi chờ qua đời với giấc ngủ của tuổi già, con cháu, thợ thuyền cầm mũ đứng phục ở chân giường. Bọn người gốc Nam Phi ở Paraguay bắt tay với bọn người gốc Nam Phi ở Patagonia sống lưu vong, bọn bụng phệ, vợ béo tròn, phòng khách treo các loại súng trên tường, có két sắt chứa tiền gửi ở Rosario, chiều Chủ Nhật đi thăm con học ở Barbie, Eichman. Tất cả bọn chúng đều là những tên áp bức, ác ôn, tra tấn, giết người.
Tóm lại, mẹ cũng mệt lắm rồi! Mệt mà không biết nguyên nhân, mệt như chiếc áo giáp đã quá thời. Mẹ muốn nhắm mắt để ngủ đi. Với lại, cái chết là gì nếu không phải là thăng lên những nấc cuối cùng của mệt mỏi?
Mẹ nhớ lần cuối cùng con gọi điện. Con hỏi “Mẹ thấy thế nào?” Mẹ đáp “Mẹ thấy mệt nhưng không sao. Mẹ từ từ giải quyết mọi việc. Florence giúp mẹ rất tôi. Ngoài ra còn có thêm người làm vườn nữa”. Con nói với giọng rất Mỹ “Thế thì con mừng lắm. Mẹ phải cố ăn thật nhiều để lấy lại sức nhé?”
Mẹ con nói chuyện điện thoại. Bên đó là trưa, ở đây là đêm. Bên đó là mùa hè, ở đây là mùa đông. Vậy mà đây đó vạch rõ như con ở nhà bên cạnh. Lời mẹ con bay vút lên trời cao, chập làm một, không chút gợn. Không còn sợi dây cáp dưới đáy biển nối mẹ với con nữa, mà đây là sự kết nối hiệu quả, trừu tượng, là trời  sinh, ý con gắn với ý mẹ, không cần lời, không phải là hơi thở truyền sang nhau mà là ý của lời, ý của hơi đã được mã hoá, truyền đạt và giải mã. Cuối cùng con nói “Chúc mẹ ngủ ngon”. Và mẹ nói “Tạm biệt con yêu qúy, cám ơn con đã gọi điện cho mẹ”. Chữ yêu quý giúp cho tiếng nói của mẹ được ở lại với tất cả sức nặng của tình yêu (mẹ phóng túng thế đấy!) và mẹ cầu cho hình bóng tình yêu ấy còn mãi trên con đường mòn lạnh lùng của không gian đến tận nơi con ở.
Trên điện thoại có tình yêu nhưng không có sự thật. Trong thư này (thư dài) gửi từ một nơi khác, sự thật của tình yêu cuối cùng lại về với nhau. Ở mỗi chữ “con”, ngòi bút của mẹ lại nhấp nháy rung động như ngọn lửa tháng Elmo. Con đến với mẹ không như con đang hiện ở Mỹ, không phải như lúc con ra đi, con ở một dạng sâu sắc hơn, không thay đổi vì người thân của mẹ không thể chết được. Đây là mẹ nói chuyện với linh hồn con, như linh hồn mẹ sẽ ở lại với con khi viết bức thư này. Như con mối trong tổ bò ra vẫy cánh bay đi nghĩa là khi con đọc mẹ hy vọng con sẽ thấy linh hồn mẹ sắp bay lên nữa. Con mối trắng ấy là hình bóng xuất hiện từ miệng một hình hài nằm trên giường chết. Vật lộn với bệnh tật, với bóng tối và tự nguyệny nhốt mình trong những ngày này, mẹ chao đảo, lang thang nữa (nói thêm về  chuyến ra vịnh Hout – Vercueil say rượu quay lại, cáu gắt, anh ta tìm thấy chiếc chìa khoá xe, chở mẹ về, có lẽ phải nói thật là con chó đã đưa anh ta trở về). Mọi biến dạng đều có nghĩa là mẹ đang run rẩy, muốn thoát khỏi cái vỏ bọc đang chết dần.
Rồi sau đó, sau cái chết, thì sao? Con đừng sợ, mẹ không ám ảnh con đâu. Không cần phải đóng cửa sổ, bịt ống khói lò sưởi để ban đêm mối khỏi bay vào nhà, bay vào mí mắt con hay đứa trẻ nào. Con mối sẽ chỉ đậu nhẹ trên má khi con đọc trang cuối bức thư này, rồi nó sẽ vỗ cánh bay đi nơi khác. Không phải linh hồn mẹ đang đến với con, mà chỉ là tinh thần của linh hồn mẹ, là hơi thở, là không khí lay động với những chữ này, một chút xao động trong không gian khi hình bóng của ngòi bút mẹ bay qua mặt trang giấy con cầm trong tay mà thôi.
Rời mẹ ra, rời con ra, rời cả ngôi nhà còn sống với những ký ức, đó là việc khó khăn nhưng mẹ cố tập. Cả âm nhạc nữa. Nhưng âm nhạc mẹ đem theo ít ra cũng sẽ là vết thương trong linh hồn. Những khúc ca của Matthew. Đam mê đã thành vết và thắt lại ngàn lần mà không ai và không có gì có thể tháo ra được.
Nếu Vercueil không đem gởi những gì mẹ viết, con sẽ chẳng bao giờ được đọc. con sẽ chẳng bao giờ biết là đã có những bức thư ấy.
Sự thật về mẹ sẽ chẳng bao giờ được hiện diện, và con sẽ chẳng bao giờ biết được ở đây mẹ đã sống như thế nào trong những ngày này.
Vậy con đoán xem mẹ làm gì với Vercueil, về Vercueil?
Chỉ đoán là có tin được không thôi. Chẳng cần phải yêu cầu nhiều, chỉ yêu cầu anh ta cầm gói thư ra đưa cho bưu điện. Chuyện nhỏ đến mức hầu như không có gì. Cầm đi hay không cầm đi có khác nhau gì lắm. Nếu còn chút tin cậy, còn chút nghĩa vụ, còn chút tình thương sau khi mẹ chết đi, chắc chắn anh ta sẽ cầm.
Nếu không thì sao?
Nếu không thì còn gì lòng tin cậy nữa, chúng ta, tất cả chúng ta, chỉ đáng nhảy xuống hố và hoàn toàn biến mất.
Vì mẹ không thể tin Vercueil mà phải tin anh ta.
Mẹ cô giữ cho linh hồn được sống trong thế giới không ai đón nhận linh hồn nữa.
Rất dễ bố thí cho trẻ mồ côi, những kẻ thiếu ăn, đói kém. Rất khó bố thí cho những người đau lòng (mẹ đang nghĩ đến Florence). Nhưng của bố thí cho Vercueil là khó hơn cả. Những gì mẹ cho, anh ta không tha thứ việc mẹ đã cho. Trong anh ta không có từ thiện, không có tha thứ. (Vercueil nói: từ thiện là cái gì? Tha thứ là cái gì?) Nếu anh ta không tha thứ thì mẹ có cho cũng không phải vì từ thiện, phục vụ không phải vì tình yêu. Chỉ như mưa không thấm đất thôi.
Hồi còn trẻ, mẹ đã có thể hiến thân cho anh ta được. Đó là điều người ta đang làm, đã làm, dù cho có lầm lẫn. Bây giờ mẹ phó mặc đời mình trong tay anh ta dù đó là cuộc sống của mẹ, những lời của mẹ, những vết động thái của ngón tay mẹ quều quào trên trang giấy.
Nếu con có đọc, những lời này sẽ đi vào con, làm con phải nín thở. Có thể nói cách sống của mẹ là thế. Xưa kia con sống trong lòng mẹ như mẹ đã sống trong lòng bà. Dường như bà vẫn sống trong lòng mẹ cũng  như mẹ lớn lên trong lòng bà và trong lòng con.
Mẹ trao cuộc sống của mẹ cho Vercueil mang đi. Mẹ tin cậy Vercueil vì mẹ không tin ở Vercueil. Mẹ yêu anh ta vì mẹ không yêu anh ta. Vì mẹ dựa vào anh ta là cây sậy yếu ớt.
Hình như mẹ hiểu được điều mẹ nọi nhưng nói thật là mẹ không hiểu. Ngay từ đầu, khi mẹ thấy anh ta nằm bẹp trong túp nhà bằng hộp giấy sau nhà để xe, mẹ không hiểu gì hết. Mẹ cứ luôn luôn tìm đường trong bóng tối. Mẹ tìm đường đến chỗ con, mỗi lời nói ra là từng bước tìm đường.

Tôi bị cảm lạnh đã mấy ngày. Bây giờ nó vẫn nằm trong ngực biến thành ho khan, ho mấy phút liền, khiến tôi không thở được, người mệt rã rời.
Chừng nào cái đau chỉ là đau thôi, tôi có thể chịu đựng và tránh xa nó. Tôi tự nhủ đây không phải mình mà là người khác đau, một người nào đó cùng nằm trên giường với tôi. Vì thế tôi tìm cách vứt nó ra chỗ khác. Nếu vứt không được, cái đau vẫn bám lấy tôi, tôi đành chịu vậy .
Khi những cơn đau nổi lên, tôi tin rằng mình có thể xua chúng đi như xua những con dê ở vùng đất tận cùng.
Nhưng bây giờ khi những cơn ho đến co giật, tôi không thể tránh được nữa. Chẳng có đầu óc nào hay cơ thể nào khác, chỉ có tôi là một sinh vật cố chống chọi, cố hít lấy chút không khí để khỏi chết ngạt. Khủng khiếp, khủng khiếp đến ô nhục. Trên đường đến cái chết còn phải qua một thung lũng nữa. Sao điều này lại có thể đến với tôi được chư ? Lúc ho rũ rượi, tôi nghĩ: vậy có công bằng không? Ngây thơ đến ô nhục. Ngay một con chó bị đánh gẫy lưng và thở hơi cuối cùng nó cũng không nghĩ như thế có công bằng không.
Marcus Aurelius nói cái sống đòi hỏi phải có nghệ thuật ở tay đô vật, chứ không phải ở vũ nữ. tất cả phải cần đứng được trên đôi chân, không cần có những bước đi đẹp.
Hôm qua đã hết thức ăn trong chạn, tôi phải đi ra cửa hàng. Xách túi đi lững thững, tôi bỗng thấy trong người rất đau. Ba cậu học sinh đi qua đó đứng nhìn một bà già đang dựa vào cột đèn, chung quanh chân thực phẩm rơi vãi tứ tung. Mỗi lần ngừng ho, tôi vẫn cố bảo chúng ra chỗ khác. Tôi không thể tưởng tượng được lúc đó mình ra như thế nào. Một chiếc xe ngừng lại, người đàn bà trong xe lên tiếng hỏi “Bà có sao không?” Tôi hổn hển đáp “Tôi đi mua hàng về”. Bà ta nghe không rõ, nhăn mặt hỏi lại “Gì cơ?” Tôi lại thở và đáp “Không có gì”. Bà ta lại phóng xe đi.
Chúng ta ngày càng trở nên xấu xa, không thể nghĩ tốt về bản thân mình. Ngay cả việc nhìn hoa hậu cũng thấy khó chịu. Xấu xa là thế nào nếu không phải đó là linh hồn biểu lộ qua xác thịt?
Thế rồi đêm qua chuyện tồi tệ đã xảy ra. Trong khi thuốc  ngủ sắp làm tôi mê đi, bỗng có tiếng chó sủa chen vào làm tôi rất khó chịu. Con chó sủa liên hồi. Tại sao Vercueil không ngăn nó lại?
Tôi xuống cầu thang mà bước không vững. Khoác áo, đi dép, tôi bước ra ngoài hiên. Trời lạnh. Đang mưa nhỏ. Tôi gọi gắt “Ông Vercueil đâu? Chó sủa gì thế, ông Vercueil?”
Tiếng sủa dừng lại, rồi tiếp tục. Không thấy Vercueil đâu.
Tôi quay về giường nằm, không sao ngủ được. Tiếng sủa như những nhát búa gõ vào tai.
Tôi tự cảnh báo những bà già ngã gẫy xương hông là thế này đây. Họ bị bẫy mà không biết.
Tôi nắm cả hai tay vào lan can bò xuống.
Có người trong bếp, nhưng đó không phải là Vercueil. Dù là ai tôi cũng không trốn tránh. Trời ơi! Tôi tưởng là Bheki! Tôi rùng mình sợ hãi.
Trong ánh sáng lờ mờ từ tủ lạnh hắt ra, cậu ta đến trước mặt tôi, vết thương trên trán còn quấn băng trắng.
Tôi khẽ hỏi “Anh muốn gì? Tìm thức ăn hả?”
Cậu ta hỏi “Bheki đâu?”
Giọng cậu nhỏ và trầm hơn Bheki. Ai thế nhỉ? Tôi hoang mang, cố nghĩ xem tên anh ta là gì.
Anh ta đóng cửa tủ lạnh. Chung quanh tối đen. Tôi chợt quát gọi “Ông Vercueil!” Con chó lại sủa. Tôi khẽ nói “Hàng xóm đến đấy!”
Anh ta lướt qua chỗ tôi đứng, vai chạm vào người tôi. Tôi lùi lại, ngửi mùi, tôi biết anh ta là ai.
Anh ta  chạy ra cửa. Con chó lại sủa như điên.
Tôi bật đèn nói “Florence không còn ở đây nữa”.
Anh ta không mặc quần áo của mình. Hoặc giả đây là kiểu mới chăng? Áo khoác ngoài như của người lớn, quần quá dài. Một bên tay áo không có cánh tay.
Tôi hỏi “Tay  cậu làm sao thế?”
Cậu ta đáp “Tôi không cử động được”.
Tôi bảo “Cậu đứng xa cửa đi”.
Tôi hé mở cửa. Con chó nhảy lên thích thú. Tôi đập vào mũi nó và bảo “Im đi!” Nó rên ư ử. “Chủ mày đâu?” Nó vểnh tai. Tôi đóng cửa lại.
Tôi hỏi cậu ta “Cậu muốn gì ở đây?”
–         Bheki đâu?
–         Bheki chết rồi. Nó bị giết tuần trước, lúc cậu còn nằm bệnh viện. Người ta bắn. Nó chết tại chỗ. Ngay sau hôm xảy ra vụ chiếc xe đạp ấy.
Cậu ta liếm môi, vẻ sợ sệt, không biết làm gì.
–         Cậu muốn ăn gì không?
Cậu ta lắc đầu nói “Tiền. Tôi không có tiền để đi xe buýt”.
–         Tôi sẽ cho cậu tiền. Nhưng cậu định đi đâu?
–         Tôi phải về nhà.
–         Đừng làm thế, tôi bảo thật đấy. Tôi biết tôi đang nói gì. Tôi đã thấy những gì xảy ra ở khu đó. Trốn đi và chờ đến khi nào mọi chuyện trở lại bình thường hãy về.
–         Sẽ không bao giờ bình thường đâu.
–         Xin cậu nghe tôi. Tôi biết cậu sẽ nói thế. Tôi không có thì  giờ, cũng không quan tâm đến chuyện đó đâu. Cậu cứ ở đây đến lúc yên ắng đã. Ở đây đến lúc khoẻ hẳn đã. Tại sao cậu lại ra viện? Bị đuổi à?
–         Vâng, tôi bị đuổi.
–         Cậu mặc quần áo của ai thế?
–         Của tôi đấy.
–         Không phải của cậu. Cậu lấy ở đâu ra?
–         Của tôi thật mà. Một anh bạn đem đến cho.
Cậu ta nói dối. Không dối giỏi hơn những đứa trẻ mười hai tuổi khác.
–         Ngồi xuống đó đã. Tôi đi kiếm cái gì cho cậu ăn, rồi ngủ đi một lúc. Có định làm gì thì sáng mai hãy tính.
Tôi pha trà. Cậu ta ngồi xuống không để ý đến tôi. Còn tôi không tin những gì cậu ta nói, nhưng cậu ta không lúng túng. Tôi tin hay không tin chẳng có gì quan trọng. Nhưng cậu ta nghĩ gì về tôi? Có nghĩ không? Cậu ta có phải là người biết nghĩ không? Không, so với Bheki thì cậu ta không biết nghĩ, nói năng không rõ ràng, đầu óc không biết tưởng tượng. Nhưng cậu ta còn sống, còn Bheki thì chết. Kẻ năng động mất đi, kẻ ngớ ngẩn sống sót. Số phận Bheki quá thiệt thòi. Tôi chưa bao giờ ngại Bheki, nhưng với cậu bé này thì tôi không chắc.
Tôi để bánh kẹp và tách nước trước mặt cậu ta và bảo “Ăn uống đi”. Cậu ta không động đậy, díp mắt, gục đầu vào tay ngủ. Tôi vỗ vào má cậu ta gọi “Dậy đi”. Cậu ta giật mình, ngồi thẳng dậy, cắn miếng bánh nhai vội. Rồi không thấy nhai nữa. Miệng còn đầy bánh, cậu ta có vẻ hoảng hốt, rã rượi. Tôi cầm miếng bánh ở tay cậu ta nghĩ bụng, khi bọn nó gặp rắc rối là tìm đến đàn bà. Cậu ta tìm Florence nhưng cô ta lại không có ở đây. Chẳng lẽ cậu ta không có mẹ hay sao?
Vào phòng Florence cậu ta tỉnh ra ngay, miệng lẩm bẩm “Xe đạp”.
–         Xe không sao. Tôi đã giữ lại rồi. Phải sửa một chút thôi. Để tôi bảo ông Vercueil làm cho.
Thế là ngôi nhà đã từng là của mẹ và của con bây giờ biến thành ngôi nhà tị nạn, ngôi nhà cho người ta quá cảnh.
Con yêu quý nhất của mẹ, mẹ đang ở trong đám sương mù lầm lỗi. Đã quá muộn, mẹ không biết tự cứu mình như thế nào. Nếu có thể xưng tội, mẹ chỉ xưng tội với con thôi. Con hỏi mẹ lầm lỗi thế nào ư? Nếu có thể bỏ nó vào chai như bắt con nhện bỏ vào đó và giữ nó cho con xem, mẹ sẽ làm ngay. Nhưng nó như sương mù, chỗ nào  cũng có mà không có ở đâu hết. Mẹ không thể sờ nó, bắt nó, đặt tên cho nó được. Tuy vậy, dù miễn cưỡng, cũng để cho mẹ từ từ nói ra. Mẹ chẳng yêu qúy gì thằng bé đang ngủ trên giường của Florence kia. Mẹ yêu con nhưng không yêu nó. Trong lòng mẹ chẳng có chút tình cảm nào cho nó hết.
Con bảo là nó không đáng yêu chứ gì. Nhưng chẳng phải trong mình con đã không có chút gì làm  cho con đáng yêu ư?
Mẹ không phủ nhận, nhưng mẹ cũng không tin điều đó. Trái tim mẹ không chấp nhận nó là của mẹ, đơn giản thế thôi. Trong lòng mẹ chỉ muốn nó đi đi, để mẹ được yên.
Đó là lời đầu tiên mẹ xưng tội. Mẹ không muốn chết trong tình trạng hiện nay, một tình trạng xấu xa. Mẹ muốn được cứu rỗi. Cứu như thế nào? Bằng cách làm những việc mà mẹ không muốn làm ư? Mẹ biết đó là bước thứ nhất. Trước hết mẹ phải yêu cái không đáng yêu, mẹ phải yêu cái thằng bé này. Không phải thằng nhỏ mặt mũi sáng sủa, mà là thằng bé này cơ. Nó đến đây là có lý do. Nó là một phần của việc cứu rỗi cho mẹ. Mẹ phải yêu nó. Nhưng mẹ không yêu nó. Cũng không muốn yêu ra yêu, vô luận mẹ là người như thế nào.
Chính vì không muốn có một trái tim để làm khác đi nên mẹ mới lang thang trong đám sương mù.
Mẹ không thể tìm thấy nó trong tim để mà yêu. Mẹ muốn yêu và được yêu.
Mẹ đang chết dần trong tim nên không muốn sống. Mẹ đang chết dần vì mẹ muốn chết.
Vậy con hãy nghe mẹ thốt ra lời thứ hai đây. lời của hoài nghi. Không muốn yêu nó, và điều mẹ nói là yêu con có thật không? Vì tình yêu không phải là chuyện đói khát. Tình yêu không bao giờ có thể thoả mãn, không bao giờ tĩnh lặng. Khi người ta đã yêu lại càng yêu hơn. Yêu con bao nhiêu mẹ lại càng phải yêu nó bấy nhiêu. Có lẽ mẹ không yêu nó thì cũng không yêu con.
Một thứ lô gíc mang hình thập giá, nó đưa mẹ đến chỗ mẹ không muốn đi! Nhưng mẹ có đề nghị người ta đóng đinh mẹ lên đó nếu mẹ thật sự không muốn!
Khi mẹ bắt đầu viết lá thư dài này mẹ nghĩ nó sẽ giống như triều dâng, những con sóng dưới đó chen chúc trồi  lên mặt nước, có sức kéo liên tục như mặt trăng kéo mẹ đến chỗ con  và kéo con đến chỗ mẹ, như giọt mật kéo con gái đến với mẹ, kéo người đàn bà đến với người đàn bà. Nhưng mỗi ngày mẹ viết thêm vào thư này hình như lại thấy nó thêm trừu tượng, thành một bức thư viết gởi các vì sao ở khoảng không gian trống rỗng, không cơ thể, trong như pha lê, không có máu. Số phận tình yêu của mẹ là như thế chăng?
Mẹ nhớ khi bị thương, máu của cậu ta chảy vô số không biết bao nhiêu mà kể, chảy rất dữ. So sánh thì máu mẹ trên mặt giấy này mỏng vô cùng, vì nó là của trái tim đã khô héo.
Mẹ biết trước đây đã viết về máu, viết về mọi thứ, viết cho đến cạn máu mà vẫn viết. Bức thư đã trở thành mê cung và mẹ là con chó trong mê cung, chạy lên chạy xuống giữa những cành cây và đường hầm, vẫn mệt mỏi cào cấu và kêu rên ở những chỗ cũ. Tại sao mẹ không kêu cứu, kêu gọi Chúa? Vì Chúa không thể giúp mẹ. Chúa tìm mẹ nhưng không thể với tới mẹ. Chúa là một con chó khác trong mê cung, mẹ ngửi Chúa và Chúa ngửi mẹ. Mẹ là một con chó cái đang gặp thời. Chúa là con chó đực. Chúa ngửi mẹ, không nghĩ gì ngoài việc tìm thấy mẹ và lấy mẹ. Chúa nhảy lên nhảy xuống trên cành, cào tay vào mắt lưới. Nhưng Chúa lạc đường và mẹ cũng lạc nốt.
Mẹ mơ, nhưng mẹ không tin là mẹ mơ thấy Chúa. Khi mẹ thiếp đi, dưới mi mắt bắt đầu hiện lên động tác của một hình bóng không hình hoặc thân thể, ngoài phủ sương mù xám xịt, nâu, hoặc vàng như lưu huỳnh. Trong giấc ngủ, mẹ nhìn thấy chữ Borodino, thấy một chiều hè nóng bỏng trên cánh đồng Nga, mọi nơi đều có khói, cỏ cháy khô, thấy hai đám người mất hết ý chí, đi lại đó đây, sống trong nỗi khủng khiếp của lửa cháy. Hàng vạn con người không mặt, không tiếng nói, khô  cứng như xương, bị kẹt trong trường giết chóc, đêm đêm hành quân qua cánh đồng cỏ cháy, giữa mùi diêm sinh và máu, một địa ngục cho mẹ nhắm mắt nhảy vào đó.
Mẹ càng tin chắc rằng những viên thuốc ngủ Diconal, đã triệu tập những đội quân ấy trong giấc ngủ của mẹ. Nhưng không có viên thuốc đó, mẹ cũng không ngủ được.
Borodino, Diconal, mẹ tưởng đó là những chữ cái đảo ngược, vì nó rất là giống những chữ cái đảo ngược. Nhưng để làm gì kia chư? Và ở ngôn ngữ nào?
Tỉnh khỏi giấc ngủ Borodino, mẹ gọi, hoặc khóc, hoặc ho bằng những tiếng sâu thẳm trong lồng ngực. Rồi mẹ bình tĩnh lại, nằm nhìn chung quanh. Phòng mẹ, nhà mẹ, đời mẹ, tất cả đều như bắt chước. Thật ra mẹ như thấy mình được trở lại lần nữa, trở lại từ trong bụng cá voi bị phanh ngực. Mỗi lần là một phép lạ nhưng không được công nhận, chào đón hoặc hoan nghênh. Mỗi sáng mẹ được nhả ra, vứt lên bờ biển, được cho một cơ hội khác. Rồi mẹ biết làm gì nữa? Nằm bất động trên cát chờ nước triều ban đe6m quay lại quấn lấy mẹ và mang mẹ về trong lòng đêm tối. Không được sinh ra tử tế, mẹ chỉ là một sinh vật hữu hạn, không biết thở trong nước, thiếu can đảm để rời xa biển để trở thành người sống trên đất liền.
Ở sân bay, ngày con ra đi, con ôm chặt người mẹ và nhìn  vào mắt mẹ nói “Mẹ đừng gọi con về nhé, con sẽ không về đâu”. Rồi con vung chân đá văng hết cát bụi của đất nước này. Con làm thế là đúng, nhưng trong người mẹ vẫn còn chút gì luôn luôn cảnh báo, mẹ đã quay mặt về hướng tây bắc, thèm khát được đón con, ôm con, nếu như con nhất định về thăm mẹ bằng bất cứ cách nào. Trong ý chí của con có cái gì đó vừa ghê gớm vừa rất đáng khâm phục, những thư con viết – mẹ nói thật nhé – không có tình ye6u, hoặc ít nhất là không đủ để có thể biến tình yêu thành cuộc sống. Rất thân mật, tốt bụng, thậm chí tâm sự nữa, đầy những lo âu về mẹ tuy nhiên những thư đó vẫn như của một người nào xa lạ, không quen biết.
Mẹ buộc tội con ư? Không, nhưng đó là lời trách cứ từ trong tim mẹ. Bức thư dài này – bây giờ mẹ xin nói – là tiếng gọi vẳng vào đêm tối, gọi vào miền tây bắc để con trở về với mẹ. Con hãy về rúc đầu vào lòng mẹ như đứa trẻ, như con thường làm, mũi con chui vào chỗ tối mà từ đó con đã chui ra. Thư này nói: nào con, con đừng tách khỏi mẹ. Đó là lời thứ ba.
Nếu con nói rằng con từ mẹ mà ra, mẹ sẽ không nói rằng mẹ từ bụng cái voi mà ra nữa.
Mẹ không thể sống mà không có con, cũng không thể chết mà không có con.
Vắng con, mẹ chỉ biết chịu đựng nỗi đau. Mẹ làm ra nỗi đau. Con là nỗi đau của mẹ.
Đó là buộc tội con ư? Đúng, mẹ đang buộc tội. Mẹ tố cáo con đã bỏ rơi mẹ. Mẹ vứt lời buộc tội này sang chỗ con, vứt hết về phía tây bắc, vứt vào hàm răng của gió. Mẹ vứt nỗi đau vào chỗ con.
Borodino là cách đáo chữ thay cho Trở về đi bằng thứ ngôn ngữ nào đó. Còn Diconal là Mẹ gọi.
Lời nói nôn ra từ bụng cá voi, méo mó, bí ẩn, con gái ơi.

Giữa đêm, tôi gọi điện cho Đường Sống. Người đàn bà ở đó hỏi “Trao hàng tận nhà ư? Không còn ai làm việc ấy đâu, trừ hãng Stuttafords. Bà thử hỏii hãng Xe Thực phẩm xem”.
Tôi nói “Không phải chuyện nấu nướng. Tôi tự nấu nướng được. Tôi chỉ yêu cầu chở thực phẩm đến nhà. Tôi bị đau không xách được”.
Chị ta nói “Bà cho số điện thoại. Sáng mai tôi sẽ bảo một nhân viên gọi lại cho bà biết”.
Tôi bỏ máy.
Kết thúc đến nhanh như ngựa phi nước đại. Tôi không dè khi xuống dốc người ta càng đi nhanh. Tôi tưởng có thể từ từ đi hết con đường. Nhầm, hoàn toàn nhầm.
Trong kết thúc có cái gì đó làm mất danh dự, mà ý tưởng của ta, của nhân loại, cũng mất danh dự. Người ta vào trong những phòng ngủ tối tăm, lộn xộn, bất lực. Người ta nằm dưới mưa ngoài hàng rào. Con chưa hiểu điều này đâu. Vercueil hiểu được.
Vercueil lại đi đâu mất, bỏ con chó lại sau. Tội nghiệp cho Vercueil. Không có Odysseus, không có Hermes, có lẽ cũng không có cả người đưa tin. Anh ta chỉ chạy quanh, lo sợ, mặc dù đã trải qua nắng gió.
Còn tôi? Nếu Vercueil không thử được, tôi thế nào? Phải chăng cách thử của tôi là tự thiêu trước Ngôi Nhà Dối Trá? Tôi đã trải qua hàng ngàn lần giây phút ấy. Giây phút đánh cây diêm khi tôi đã bịt tai, ngạc nhiên, thậm chí thích thú ngồi giữa đống lửa, không ai đụng vào mình, quần áo cháy từ từ, ngọn lửa có màu xanh bình thản. Đem ý nghĩa đến cho cuộc sống của mình thì dễ biết bao, tôi suy nghĩ và ngạc nhiên, nghĩ rất nhanh vào lúc cuối cùng khi mi mắt, lông mày bắt lửa, không còn nhìn thấy gì nữa. Rồi sau đó cũng không nghĩ gì nữa, chỉ còn lại nỗi đau (vì không có gì đến mà không có cái giá của nó).
Liệu nỗi đau ấy có tệ hơn đau răng không? Tệ hơn sinh đẻ con không? Tệ hơn cái đau ở hông này không? Tệ hơn phải đẻ một lúc hai đứa không? Phải mất bao nhiêu viên Diconal thì nỗi đau mới tê dại đi được? Hay là phải giả bộ nuốt hết Diconal rồi quay xe chạy dọc đại lộ Chính Phủ và lách qua sợi dây xích kia? Người chết rồi mà vẫn hiểu biết đầy đủ về mình được không? Sinh ra cái chết mà không cần gây mê được không?
Sự thật là mỗi lúc hưng phấn bao giờ cũng có cái gì đó không thật, rất không thật, dù cho kết quả là điên rồ hay thất vọng. Nằm chết từ từ trên giường qua hàng tuần, hàng tháng, lấy cái đau và buồn tủi để chuộc tội như vậy cũng chẳng cứu rỗi được linh hồn, vậy tại sao tôi không tự cứu bằng cách chết trong hai phút giữa đống lửa? Liệu một bà già tự giết mình có chấm dứt được những điều dối trá hay không? Có thay đổi được cuộc sống của ai không và thay đổi như thế nào? Thỉnh thoảng tôi nghĩ đến Florence. Nếu Florence qua đây, dắt Hope và cõng Beauty trên lưng, liệu cô ta có xúc động trước cảnh này không? Cô ta có thèm nghĩ đến tôi không? Sẽ chỉ như người tung hứng ở rạp xiếc, như tay hề, như người mua vui. Florence sẽ nghĩ tôi không phải là người đứng đắn. Rồi cô ta bỏ đi.
Nhìn mắt Florence ai mà tin được cái chết ấy có thật? Cái gì được cô ta chấp nhận? Trả lời: cái chết suy tôn cuộc sống của một người lao động đáng kính, hoặc cứ lẳng lặng mà chết, không cưỡng lại được, cũng không công bố, sẽ chỉ như một tiếng sấm hay viên đạn bắn vào giữa trán.
Florence là người phán xét. Đàng sau đôi mắt kính, cô ta bình tĩnh xét đoán được tất cả. Cái bình tĩnh này cũng đã truyền sang các con gái. Florence là toà án. Tôi là người bị đưa ra xử. Nếu cuộc sống của tôi là cuộc sống phải đưa ra xét xử, đó là vì suốt mười năm tôi đã bị xét xử ở toà án Florence.
–         Bà có Dettol không?
Tôi đang ngồi viết trong bếp. Cậu ta lên tiếng làm tôi giật mình.
–         Lên gác, trong phòng tắm, cửa bên phải. Tìm ở tủ thuốc dưới bồn ấy.
Cậu ta lục lọi một lúc rồi xuống nhà. Băng quấn trên đầu đã tháo hết. Tôi ngạc nhiên thấy vết khâu vẫn còn.
–         Họ không tháo chỉ à?
Cậu ta lắc đầu.
–         Nhưng cậu rời bệnh viện từ bao giờ?
–         Hôm qua. Hôm kia.
Tại sao phải nói dối thế?
–         Sao cậu không nằm lại cho họ chăm sóc?
Không trả lời.
–         Cậu phải che vết thương ấy đi, nếu không sẽ nhiễm trùng rồi thành sẹo đấy.
Chỗ đó sẽ thành vết suốt đời, như bị ai quất vào trán vậy. Để làm kỷ niệm chăng?
Cậu ta là gì với tôi để tôi phải mắng mỏ chứ? Vậy mà tôi là người đã bịt vết thương cầm máu cho cậu ta đấy. Sự thôi thúc của người mẹ thật là kiên trì. Như gà mẹ mất con phải nhận vịt con về, không biết vịt con lông vàng, mỏ dẹt, rồi dạy nó tắm cạn và bắt sâu bọ.
Tôi rút khăn bàn màu đỏ, cắt ra một mảnh rồi nói “Nhà không còn băng, nhưng mảnh khăn này sạch, màu đỏ cũng không sao”. Tôi quấn hai vòng lên đầu cậu ta rồi thắt nút sau gáy. “Cậu phải đến ngay bác sĩ hay bệnh viện nào đó, để họ cắt chỉ cho. Không thể để như vậy được”.
Cổ cậu ta cứng như gỗ. Người cậu ta xông lên một thứ mùi đến chó cũng phải bỏ chạy, một thứ mùi gay gắt, đáng sợ.
Cậu ta hắng giọng, vai cựa quậy “Đầu tôi không đau, nhưng cánh tay không cử động được”.
–         Cậu nói thật đi, cậu đang chạy trốn phải không?
Cậu ta im lặng.
Tôi nói “Tôi nói nghiêm túc nhé, cậu còn quá trẻ đối với việc này. Tôi đã bảo Bheki thế rồi, bây giờ tôi nói lại với cậu. Cậu phải nghe tôi. Tôi đã già và biết mình đang nói gì. Các cậu vẫn còn là trẻ con. Các cậu vứt bỏ đời mình mà chưa biết đời là như thế nào. Các cậu chỉ mới mười lăm tuổi chứ mấy. Mười lăm tuổi mà chết thì quá trẻ. Mười tám cũng còn quá trẻ. Hai mươi mốt cũng còn trẻ”.
Cậu ta đứng dậy, sờ nhẹ vào chiếc băng đỏ trên đầu như muốn cám ơn. Ở thời các hiệp sĩ, đàn ông đánh nhau đến chết vì đàn bà ra ơn khẽ đập tay vào mũ sắt họ đội trên đầu. Tôi chả phí hơi mà dạy khôn cậu ta. Trong người cậu ta, bản năng chiến đấu còn thở rất mạnh. Chiến đấu là cách tự nhiên để thanh toán kẻ yếu và kiếm bạn cho kẻ mạnh. Trở về trong vinh quang, họ muốn gì được nấy. Máu và vinh quang. Cái chết và tình yêu. Một bà già như tôi, đã tàn tạ, sắp chết, quấn băng lên đầu cậu ta cũng là cách ra ơn như thế chăng.
Cậu ta hỏi “Bheki đâu?”
Tôi nhìn cậu ta không hiểu. Cậu ta chưa nghe tôi nói gì sao? Hay cậu ta quên? Tôi bảo “Ngồi xuống đã”. Cậu ta ngồi xuống.
Tôi dướn người lên bàn nói “Bheki đã nằm dưới đất. Người ta bỏ nó vào hòm, chôn xuống hố, đổ đất lên người nó rồi. Nó không bao giờ rời khỏi cái hố ấy đâu. Không bao giờ. Không bao giờ. Cậu nên hiểu, đó không phải là trò chơi đá bóng, ngã rồi còn đứng dậy tiếp tục chơi được. Đám người mà các cậu đấu với họ ấy, chúng không hề bảo nhau “thằng bé này là trẻ con, hãy dùng đạn giả bắn nó như bắn chơi thôi”. Chúng không cho các cậu là trẻ con đâu. Chúng nghĩ các cậu là kẻ thù, các cậu căm ghét chúng thế nào thì chúng căm ghét các cậu như thế. Chúng không ngần ngại gì mà không bắn các cậu. Trái lại, thấy các cậu ngã xuống chúng càng vui thích và ghi thêm một vạch thành tích vào khẩu súng nữa”.
Cậu ta nhìn như bị tôi đánh vào mặt, đánh liên tiếp. Nhưng cậu ta mím môi, cắn răng, không tỏ ra sợ hãi. Mắt cậu ta long lanh.
Tôi lại nói “Cậu tưởng chúng không có kỷ luật ư? Cậu nhầm đấy. Chúng rất kỷ luật. Nếu như chúng có kiềm chế, không tiêu diệt hết bọn con trai các cậu, đó không phải vì chúng thương tình hay nghĩ  đến đồng loại gì đâu. Đó chỉ là kỷ luật thôi, không có gì khác. Lệnh trên đó thôi, mà lệnh có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Tình thương bị vứt hết rồi. Đây là chiến tranh. Cậu hãy nghe tôi nói. Tôi biết mình nói gì. Cậu nghĩ tôi định xúi cậu đừng đấu tranh nữa chứ gì. Đúng đấy. Chính tôi đang làm thế đấy. Tôi chỉ bảo là các cậu hãy khoan đã, vì các cậu còn quá trẻ”.
Cậu ta như ngồi không yên. Chỉ nói suông! Từ đời ông bà cha mẹ cậu ta đã nghe nói suông rồi! Toàn những lời dối trá, hứa hẹn, lừa phỉnh, đe doạ. Họ đã từng trải qua và cúi đầu trước sức nặng của người lời nói suông ấy. Nhưng cậu ta thì chưa. Cậu ta không thèm nghe những lời nói suông nữa. Cứ nói suông thì chiết đi cho rảnh!
Tôi nói “Các cậu bảo đã đến lúc phải chiến đấu, đã đến lúc một mất một còn. Tôi nói để cậu biết thế nào là  mất hoặc còn nhé. Hãy nghe tôi, tôi sẽ nói về chữ hoặc ấy.
“Cậu biết là tôi bị bệnh. Cậu biết là tôi bị bệnh gì không? Tôi bị ung thư. Tôi bị ung thư vì tích luỹ những ô nhục phải chịu đựng trong cuộc sống. Ung thư tự nguyền rủa thân mình đã biến thành ác tính và bắt đầu mục rữa.
“Tội gì mà phải huỷ hoại thân mình bằng ô nhục. Tự nguyền rủa, cậu muốn nói như thế chứ gì? Tôi không cần biết cậu nghĩ thế nào, đó là chuyện khác, nhưng tôi muốn hỏi tại sao cậu không làm một cái gì đi? Cậu nói ra tôi sẽ “đồng ý” ngay.
“Nếu cậu nêu câu hỏi, tôi chỉ có thể “đồng ý” chứ không thể làm gì khác. Nhưng tôi phải nói “Đồng ý” là thế nào. Đem cuộc đời ra xét xử thì người ta chỉ được quyền nói Có hay Không thôi. Khi cậu nín hơi để nói ra điều gì, cậu sẽ bị toà án cảnh báo “Có hay Không” mà không được nói gì hơn. Cậu sẽ nói “Có” chứ gì. Nhưng cậu vẫn cảm thấy có gì đó cựa quậy trong người như sự sống cựa quậy trong dạ con vậy. Chưa phải đứa trẻ đó đạp đâu, nó chỉ như lúc đầu khi người đàn bà biết rằng mình có mang thôi.
chúng tôi không chỉ có cái chết. Còn có cả sự sống nữa. Nhưng chết thì mạnh, còn sự sống thì yếu. Nhiệm vụ của tôi là giữ lấy sự sống, phải giữ cho nó sống. Nhất định phải thế.
Cậu không tin vào lời nói. Cậu chỉ nghĩ đánh mới là thật, đánh và súng đạn. Nhưng cậu nghe đây, cậu có tin những lời tôi nói là thật không? Nghe đi! Có thể đó chỉ là không khí thôi, nhưng đó đến từ trái tim tôi, ruột gan tôi. Nó không phải là Có, cũng không phải là Không. Tôi chiến đấu cho nó theo cách của tôi, chiến đấu để nó không bị bóp nghẹt. Tôi giống như một trong những bà mẹ Trung Hoa biết rằng con mình sẽ bị người ta bắt đi, nếu là con gái thì diệt ngay. Vì gia đình, làng xóm, chỉ cần có những con trai khoẻ mạnh mà thôi. Họ biết rằng sau khi mình đẻ sẽ có người đến nhà, che mặt, giật đứa bé trong tay bà đỡ, nếu đứa bé không phải là con trai, người đó sẽ quay đi, ra vẻ tế nhị, đưa tay bóp mũi bịt miệng cho đứa bé chết ngạt, rồi một phút sau là mọi chuyện đã xong.
“Người mẹ đau buồn, nhưng sau đó người ta bảo đau buồn là chuyện tất nhiên. Chớ có hỏi: sao lại gọi đứa bé là con trai, tại sao đứa bé là con gái thì phải chết?
“Cậu đừng hiểu lầm tôi, cậu là con trai, con trai của ai đó. Tôi không phản đối con trai, Nhưng đã bao giờ cậu trông thấy đứa bé mới đẻ chưa? Nói để cậu nghe cậu sẽ khó mà phân biệt được đó là con trai hay con gái. Bất cứ đứa bé nào mới đẻ cũng có mẩu nhỏ phồng lên giữa hai chân. Mẩu nhỏ chìa ra để biết đó thật sự là con trai cũng chẳng có gì quan trọng, rất ít để phân  biệt giữa sự sống và cái chết. Vậy mà mọi thứ khác, mọi thứ không được xác định, mọi thứ nếu ta đòi thì cho, lại bị kết án là chưa bao giờ nghe nói đến. Tôi đang lý sự về cái chưa bao giờ nghe nói đến ấy.
“Tôi có thể thấy cậu chán không muốn nghe một bà già nói. Cậu đang nóng lòng muốn trở thành người lớn và làm những việc người lớn. Cậu cũng chán không sẵn sàng với cuộc sống. Cậu nghĩ đã đến lúc phải để cuộc sống tự nó sống. Như thế là cậu nhầm đấy! Cuộc sống không đi theo một cây gậy, một ngọn cờ, một tiếng súng, để đi đến chỗ nào nó đem cậu đi. Cuộc sống không ở ngay góc đường. Chính cậu đang ở trong lòng cuộc sống”.
Chuông điện thoại reo.
Tôi bảo “Cứ để đó, tôi sẽ không trả lời đâu”.
Chúng tôi ngồi yên chờ chuông ngừng lại.
Tôi nói “Tôi không biết tên cậu là gì”.
–         John.
John, tôi chưa từng nghe cái tên này. Y như tên lính vậy.
–         Cậu định như thế nào?
Cậu ta không hiểu tôi định nói gì.
–         Cậu định làm gì? Cậu có muốn ở đây không?
–         Tôi phải về nhà.
–         Nhà ở đâu?
Cậu ta ngơ ngác nhìn tôi. Cậu ta đã quá mệt, không còng nghĩ ra được điều gì để nói dối nữa. Tôi lẩm bẩm “Cậu bé tội nghiệp”.

Tôi không có ý do thám. Nhưng tôi đi dép nhẹ, cửa phòng Florence mở, cậu tay quay lưng về phía tôi. Cậu ngồi trên giường, đang cầm một vật gì trong tay. Trông thấy tôi, cậu giật mình nhét vật đó dưới tấm trải giường.
Tôi hỏi “Cậu có cái gì đấy?”
Cậu ta ngửng nhìn tôi đáp “Không có gì”.
Tôi đã không ép cậu ta nhiều nếu như không nhìn thấy một mảnh ván ốp rơi ra khỏi tường để trơ gạch lót bên trong.
Tôi nói “Cậu định làm gì thế? Sao cậu lại phá nhà tôi thế?”
Cậu ta im lặng.
Tôi nhòm vào tường. Hàng gạch có một lỗ hổng để quạt gió. Qua lỗ hổng có thể thò tay xuống dưới ván sàn.
–         Cậu để cái gì dưới mặt sàn thế?
–         Tôi có làm gì đâu.
Tôi gọi số điện Florence để lại. một đứa trẻ nhấc máy. Tôi bảo “Cho tôi nói chuyện với bà Mkubukeli”. Im lặng. “Bà Mkubukeli. Florence ấy mà”.
Có tiếng thì thầm rồi một giọng đàn bà đáp “Bà muốn nói chuyện với ai?”
–         Với bà Mkubukeli. Florence.
–         Cô ấy không có đây.
Tôi nói “Tôi là bà Curren. Bà Mkubukeli giúp việc cho tôi. Tôi gọi về việc có thằng bạn con trai bà ấy tới xưng tên là John. Tôi không biết tên thật của nó là gì. Việc này quan trọng. Nếu Florence không có đấy thì cho tôi nói chuyện với ông Thabane được không?”
Lại một lúc im lăng. Rồi giọng đàn ông “Vâng, tôi là Thabane đây”.
–         Tôi là bà Curren. Chắc ông nhớ, chúng ta đã gặp nhau rồi. Tôi gọi về việc thằng bạn của Bheki ở trường. Có lẽ ông không biết, nó đã nằm viện”.
–         Tôi biết.
–         Bây giờ nó đã ra viện, hoặc trốn khỏi bệnh viện và đến đây. Tôi tin rằng nó có vũ khí hay một thứ gì đó không rõ lắm, mà nó và Bheki giấu ở phòng Florence. Có lẽ vì thế nó quay về đây.
Ông ta đáp gọn “Phải”.
–         Ông Thabane, tôi không yêu cầu ông ra oai với thằng bé, nhưng nó không được khoẻ. Nó bị thương rất nặng. Tôi nghĩ tâm trạng nó đang rối bời. Tôi không có cách nào liên lạc với gia đình nó, cũng không biết nó có gia đình ở Cape Town hay không. Nó không chịu cho tôi biết. Tôi chỉ yêu cầu có người đến đây nói chuyện với nó, người nào mà nó tin cậy được, rồi đưa nó đi trước khi nó gặp chuyện gì không hay chăng.
–         Bà bảo tâm trạng nó rối bời nghĩa là thế nào?
–         Ý tôi nói là nó cần được giúp đỡ. Có thể nó không chịu trách nhiệm về những gì nó làm. Nó bị đánh vào đầu. Tôi không sức đâu mà chăm sóc nó được. phải có người đến đây cơ.
–         Để tôi xem đã.
–         Không, như thế không được. Tôi muốn ông phải hứa cơ.
–         Tôi sẽ đề nghị cho người đến đón nó, nhưng không thể nói khi nào.
–         Hôm nay được không?
–         Không thể nói được. Có lẽ hôm nay, có lẽ ngày mai. Để tôi xem.
–         Ong Thabane, tôi phải nói rõ để ông biết, tôi không định bảo thằng bé này hay bất cứ ai phải làm như thế nào. Nó đủ lớn và đủ ý chí để làm những gì nó muốn. Nhưng việc giết chóc và đổ máu nhân danh những đồng chí này thì tôi rất ghét, ghét bằng cả trái tim và tâm hồn tôi. Tôi nghĩ đó là dã man. Tôi chỉ muốn nói thế thôi.
–         Bà Curren, như vậy không hay đâu. Nghe tiếng bà nhỏ và xa lắm. Bà nghe tôi có rõ không?
–         Tôi nghe được.
–         Tốt. Vậy bà Curren, bà nghe tôi nói nhé. Tôi nghĩ bà không hiểu lắm về tình đồng chí.
–         Tôi hiểu quá đi chứ. Cảm ơn ông.
Ông ta nói chắc nịch “Không, bà không hiểu. Khi nào cả thể xác và tâm hồn bà cũng đấu tranh như  bọn trẻ, khi nào bà sẵn sàng hy sinh mạng sống cho nhau mà không đòi hỏi điều gì, khi đó sẽ nảy ra mối quan hệ mạnh hơn bất cứ quan hệ nào bà sẽ thấy được. Đó là tình đồng chí. Chính mắt tôi trông thấy hàng ngày. Thế hệ tôi chẳng có gì để so sánh, vì thế chúng tôi phải lùi nhường bước cho bọn trẻ. Chúng tôi lùi lại nhưng vẫn đứng sau lưng chúng. Đó là điều bà không hiểu được vì bà xa quá”.
Tôi nói “Đúng là tôi quá xa, quá xa và quá nhỏ. Tuy nhie6n tôi e rằng tôi cũng biết khá rõ về tình đồng chí. Người Đức có tình đồng chí, người Nhật cũng có tình đồng chí. Dân Spartan xưa kia cũng có. Tôi chắc đế quốc Shaka cũng có. Tình đồng chí chẳng là cái gì hết, chỉ là không khí thần bí của cái chết, của giết chóc và cái chết, được hóa trang bằng một cái mà các ông gọi là mối quan hệ (quan hệ gì nhỉ? Tình yêu ư? Tôi ngờ lắm). Tôi không có cảm tình với tình đồng chí ấy. Ông nhầm đấy, ông và Florence và mọi người khác, bị lừa dối, tệ hơn nữa, còn đem nó khuyến khích bọn trẻ. Chẳng qua đó chỉ là những cấu trúc của nam giới, lạnh lùng, độc quyền, dẫn đến cái chết mà thôi. Ý tôi là thế đấy”.
Giữa tôi và ông ta còn nói nhiều, nhưng tôi không muốn nhắc lại. Chúng tôi trao đổi ý kiến. Chúng tôi đồng ý để khác nhau.
Buổi chiều qua đi. Không thấy ai đến tìm thằng bé. Nằm trên giường, lờ đờ vì thuốc, dựa lưng vào nệm, cố điều chỉnh cơ thể cho đỡ đau, rất muốn ngủ nhưng lại sợ giấc mơ về Borodino.
Không khí nặng dần. Trời bắt đầu đổ mưa. Nước chảy thành vòi trên ống máng bị tắc. Chiếc thảm ở đầu cầu thang bốc lên mùi nước đái mèo. Tôi nghĩ đến một nấm mồ. Một nấm mồ tư sản muộn. Đầu tôi lật đi lật lại. Tóc bạc rụng ra gối, chiếc gối mỏng manh chưa được giặt. Ở phòng Florence, trong bóng tối dần, thằng bé nằm với quả bom hay cái gì đó trong tay, mắt nó mở to, bây giờ không còn mờ nữa. Nó đang nghĩ ngợi, hơn nữa nó đang mơ tưởng.  Mơ tưởng đến một lúc vinh quang nó sẽ được vươn lên, được trở lại hoàn toàn là nó, đứng thẳng người, mạnh mẽ, biến dạng. Khi bông hoa rực lửa nở tung, ngọn khói cũng dâng lên. Nó ôm quả bom trên ngực làm như đó là tấm bùa hộ mệnh, chẳng khác gì Christopher Columbus nằm trong bóng tối, ôm la bàn trên ngực, thứ công cụ thần bí sẽ dẫn ông ta đến đảo Ấn, vùng đảo được thánh nhân phù hộ. Những tốp gái đồng trinh, ngực để trần, sẽ hát cho ông ta nghe, giang tay đón ông ta lội qua những chỗ cạn, tay giơ kim la bàn không lay động mà chỉ hướng về một phía tương lai.
Tội nghiệp thằng bé! Tôi bỗng tuôn nước mắt đến nỗi mờ đi không thấy gì nữa. Tội nghiệp thằng bé, nếu là ngày xưa nó đã được ngồi chơi trong vườn, ăn bánh với mứt, uống nước đóng hộp, bây giờ thì nó chiến đấu cho những người bị lăng nhục, bị thương tật, bị dẫm đạp, bị chê là lố bịch, phải chiến đấu cho tất cả bọn trẻ Nam Phi!
Sáng sớm, lúc trời còn đang lạnh, tôi nghe như có ai đang mở cổng. Tôi nghĩ bụng có lẽ Vercueil đã về. Rồi tiếng chuông cửa réo lên, một lần, hai lần, réo lâu, có lẽ như nóng ruột, hách dịch nữa, tôi biết ngay đó không phải là Vercueil.
Những ngày này tôi phải mất mấy phút mới  xuống nhà được, nhất là d dang bị thuốc làm cho đầu óc mê muội. Đang lần mò ở chỗ nửa tối nửa sáng, tôi vẫn còn thấy họ bấm chuông và gõ cửa liên tục. Tôi cố lên giọng thật to “Tôi đến đây!” Nhưng vẫn đi rất chậm. Tôi nghe cổng bật mở. Rồi tiếng đập cửa bếp, giọng Nam Phi lai Hà Lan. Rồi tiếng sú[ng lẹt đẹt, nghe như cầm hai hòn đá đập vào nhau.
Im lặng một lát, rồi tôi lại nghe tiếng kính vỡ. Tôi hét lên “Chờ đã!” rồi cố chạy đến cửa bếp, không ngờ tôi hãy còn sức chạy được. Tôi lại kêu “Chờ  đã!” rồi tháo dây xích cài cửa. “Đừng có làm thế!”
Một người mặc áo choàng xanh đứng ngoài hiên đưa lưng về phía tôi. Tuy đã nghe tiếng tôi nói, anh ta không quay lại.
Tôi kéo chốt cuối cùng, mở tung cửa, bước ra ngoài. Tôi quên không khoác áo ngoài, chân đi đất, mặc áo ngủ trắng, như thân hình người chết dựng dậy. Tôi nói “Khoan đã, các ông chớ làm gì vội, nó chỉ là đứa trẻ thôi”.
Họ có ba người. Hai mặc đồng phục. Người thứ ba mặc áo len cộc tay, ngực áo thêu con nai tuyết, tay cầm súng, nòng chĩa xuống đất. Tôi bước qua mấy vũng nước đọng lại trong đêm, bảo họ “Các ông để tôi nói chuyện với nó đã”. Họ ngạc nhiên nhìn tôi nhưng không ngăn lại.
Cửa sổ phòng Florence bị đập vỡ. Trong phòng rất tối nhưng nhìn qua lỗ khoá tôi có thể thấy nó ngồi trong góc phòng, bên cạnh giường.
Tôi bảo “Cậu mở cửa ra. Tôi hứa sẽ không để họ đánh cậu đâu”.
Tôi biết thế là nói dối. Cậu ta chẳng làm gì được, còn tôi cũng chẳng có quyền gì để cứu cậu ta. Tuy thế một cái gì đó vẫn toát ra từ người tôi. Tôi muốn ôm lấy cậu ta, che  chở cho cậu ta.
Một viên cảnh sát đến cạnh tôi, ấn tôi vào tường. Anh ta nói “Bảo nó ra đi”. Tôi quay lại hét tướng “Anh cút đi!” rồi ho rũ rượi.
Mặt trời bắt đầu lên, nắng hồng, bầu trời kéo đầy mây.
Tôi vừa ho vừa gọi “John! Ra đi! Tôi không để họ làm gì cậu đâu!”
Người mặc áo len cộc tay bước tới nói nhỏ: “Bảo nó đưa vũ khí ra”.
–         Vũ khí nào?
–         Nó có khẩu súng lục, không biết còn gì khác. Bảo nó đưa ra hết.
–         Nhưng trước hết các ông phải hứa không được làm gì nó.
Anh ta nắm lấy cánh tay tôi. Tôi giằng ra, nhưng anh ta quá khoẻ. Anh ta nói “Bà đứng đây sẽ bị viêm phổi đấy”. Một cái gì sau lưng khoác lên người tôi. Đó là chiếc áo choàng của cảnh sát. Anh ta khẽ nói “Neen haar beene” rồi đưa tôi vào bếp đóng cửa lại.
Tôi đứng lên ngồi xuống mãi. Chiếc áo choàng sặc mùi thuốc lá. Tôi quẳng nó xuống sàn nhà, ra mở cửa. Người tôi lạnh cóng. Tôi gọi “John!” Ba người đó đang chúi đầu nghe đài. Một người đã đưa áo choàng cho tôi quay lại, vẻ khó chịu “Này bà kia, ở ngoài này nguy hiểm đấy”. Anh ta đẩy tôi vào trong nhà nhưng không thấy chìa để khoá cửa.
Tôi nói “Nó chỉ là đứa trẻ thôi”.
Anh ta đáp “Xin bà để cho chúng tôi làm việc”.
Tôi nói “Để tôi xem các ông làm những gì. Tôi đã nói, nó chỉ là một đứa trẻ mà thôi”.
Anh ta định nói gì nhưng lại thôi, thở dài một cái để tôi nói tiếp. Anh ta còn trẻ, khoẻ mạnh, cứng cáp. Con của ai đó, họ hàng với ai đó. Rất nhiều anh em, họ hàng cô cậu, chú bác, ông bà, đứng sau và đứng trên cao như một dàn đồng ca, chỉ huy dạy bảo anh ta.
Tôi biết nói thế nào nhỉ? Giữa chúng tôi có gì là chung để có thể quan hệ với nhau, trừ việc anh ta đến đây để bảo vệ tôi, bảo vệ quyền lợi của tôi, nói theo nghĩa rộng?
Tôi nói “Ek staan nie aan jou kant nie. Ek staan aan die teenkant”. Tôi đứng về phía khác, mà còn đứng ở bên kia bờ sông nữa cơ. Đứng ở bờ xa mà nhìn lại.
Anh ta quay vào khám xét mọi thứ, lò bếp, các tủ chạn bát đĩa, chẳng thiếu thứ gì, còn  các bạn anh ta sẽ làm công việc của họ bên ngoài.
Tôi nói “Tất cả chỉ có thế. Tôi chẳng còn gì hết. Tại sao tôi cũng không nói với anh”.
Vậy thì nói với ai? Vẫn là nói với con thôi. Nói để con biết mẹ đã và đang sống như thế nào.
Chuông cửa lại reo. Thêm mấy người nữa, chân đi ủng, đầu đội mũ, mặc quần áo rằn ri, ầm ầm bước vào trong nhà. Họ xúm lại trước cửa sổ. Một viên cảnh sát chỉ tay vào cửa phòng Florence nói “Hy sit daar in die buitkamer. Daar net die een deur en die een venster”.
Một người vừa vào nói “Nee, dan het ons hom”.
Tôi nói “Báo trước cho các ông biết, tôi đang theo dõi mọi hành động của các ông đấy”.
Anh ta quay sang tôi nói “Bà biết thằng bé này chứ?”
–         Có, tôi biết nó.
–         Bà biết nó có vũ khí chứ?
Tôi nhún vai “Những ngày này Chúa phù hộ cho những ai không vũ khí”.
Lại một người khác bước vào. Một phụ nữ mặc quân phục, gọn gàng, sạch sẽ. Chị ta nói “Is dit die dame díe?” rồi quay sang tôi “Chúng tôi khám xét nhà một lúc, bao giờ xong thì thôi. Bà có muốn đi chỗ nào khác không? Đến chỗ bạn bè hay bà con gì đó?”
–         Tôi không đi đâu hết, đây là nhà tôi.
Chị ta vẫn thân mật, có vẻ lo lắng nói “Tôi biết, nhưng bà ở lại đây nguy hiểm lắm. Chúng tôi phải để cho bà đi ra khỏi nhà một lúc”.
Những người đứng bên cửa sổ thôi nói chuyện. Họ sốt ruột muốn tôi phải đi ngay. Một người nói “Bel die ambulans”. Người đàn bà đáp “Ag, sy kan sommer by die stasie wag”, rồi quay sang phía tôi “Nào thôi, bà…” và chờ tôi xưng tên, nhưng tôi không nói. Chị ta lại nói “Mời bà uống chén trà nóng vậy nhé”.
–         Tôi không đi đâu hết.
Họ không thèm để ý tôi nói gì, coi tôi như đứa trẻ. Một người nói “Sýs amper blou van die koue”.
Người đàn bà lên gác đem xuống tấm khăn trải giường. Chị ta quấn khăn vào người tôi, ôm lấy tôi, rồi giúp tôi xỏ chân vào dép. Chân cẳng tôi không có dấu vết gì bẩn. Chị ta ngoan ngoãn, chắc đã được dạy dỗ để lấy chồng.
Chị ta hỏi “Bà muốn mang theo thuốc men hay thứ gì khác không?”
Tôi nhắc lại, ôm chặt tay vào ghế “Tôi không đi”.
Chị ta cùng đám đàn ông nói gì đó với nhau. Họ không báo trước, bế tôi lên. Người đàn bà giữ chân tôi. Họ khênh tôi ra cửa như khênh chiếc thảm. Lưng tôi đau nhừ. Tôi kêu lên “Bỏ tôi xuống!”
Người đàn bà đấu dịu “Một phút nữa thôi”
Tôi hét to “Tôi bị ung thư! Bỏ tôi xuống!”
Ung thư! Bật ra tiếng đó với họ, tôi cảm thấy rất hài lòng! Tiếng đó như nhát dao buộc họ phải dừng lại. Một người đang giữ tôi nói “sit haar neer, dalk kom haar iests or. Ek het mos gesê jy moet die ambulans bel”. Họ đành bỏ tôi nằm xuống ghế dài.
Người đàn bà nhăn mặt hỏi “Đau ở đâu?”
–         Tôi đau ở tim!
Chị ta không hiểu. “Tôi bị ung thư ở tim”. Chị ta hiểu ra, lắc đầu như đuổi ruồi. “Khênh bà đi có mệt không?”
Tôi nói “Lúc nào cũng đau”.
Chị ta nhìn người đứng sau lưng. Họ trao đổi với nhau cái gì đó có vẻ thích thú nên chị ta mỉm cười.
Tôi nói luôn “Tôi uống phải nước đắng nên bị bệnh”. Nếu họ nghĩ là tôi điên dại thì có sao đâu? “Một ngày kia các người cũng sẽ mắc bệnh này. Không tránh được.”
Có tiếng đập vỡ kính. Cả hai người chạy vào phòng. Tôi nhổm dậy tập tễnh bước theo.
Không có chuyện gì, chỉ có một tấm cửa nữa văng đi. Ngoài sân không còn ai. Đám cảnh sát6, lúc đó có đến nửa tá, cúi lom khom trên hiên, tay súng sẵn sàng.
Một người quát “Weg! Kry haar weg!”
Người đàn bà đẩy tôi vào sau cửa. Chị ta vừa đóng lại thì có một tiếng nổ dòn, rồi một loạt tiếng súng, rồi im lặng, rồi có tiếng người nói nhỏ ở đâu đó, rồi tiếng con chó của Vercueil sủa.
Tôi cố mở cửa, nhưng người đàn bà giữ chặt tôi.
Tôi nói “Nếu các người đánh nó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho các người đâu”.
Chị ta xoa dịu “Thôi được, chúng tôi sẽ gọi xe cứu thương cho bà”
Nhưng xe cứu thương đã đến đó từ nãy rồi, đang đỗ bên đường. Mấy chục người từ các nơi túm tụm đến, hàng xóm, người qua đường, trẻ già có, da đen da trắng có. Những người từ lan can các nhà bên cạnh nhìn sang. Khi người nữ cảnh sát và tôi xuất hiện ở cửa nhà, họ đã chở một xác người bọc kín chăn ra đường và đưa lên xe.
Rồi họ bắt tôi trèo lên xe cứu thương. Một người đưa cánh tay đỡ tôi lên, nhưng một viên cảnh sát nói “Khoan đã, để gọi xe cứu thương khác”.
Tôi nói “Tôi không cần xe cứu thương khác”. Anh ta nhìn tôi, vẻ hiền lành, băn khoăn. Tôi nói “Tôi muốn đi với nó” rồi định trèo lên xe. Tấm khăn trải giường rơi xuống chân.
Anh ta lắc đầu nói “Không”. Rồi ra hiệu cho xe đóng cửa.
Tôi lẩm bẩm “Xin Chúa tha tội cho chúng con”. Tôi lại quấn khăn trải giường lên người, đi bộ xuống phố Schooner, tránh xa đám đông. Tôi sắp đến đầu đường bỗng thấy chị nữ cảnh sát chạy theo nói như ra lệnh “Bây giờ bà phải về nhà đi!” Tôi giận dữ đáp “Không còn là nhà tôi nữa!” rồi đi tiếp. Chị ta níu lấy cánh tay tôi. Tôi giằng ra. Chị ta nói bâng quơ “Sy s van kaar kop af”, rồi bỏ đi.
Xuống đến phố Buitenkant, tôi ngồi nghỉ dưới chân cầu vượt. Một đoàn xe chạy qua vào thành phố. Không ai thèm nhìn tôi. Đầu tóc rối bù, lại quấn khăn trải giường màu hồng quanh người, tôi có thể là một màn trình diễn trên phố Schoonder, nhưng ở đây, giữa đống rác bẩn thỉu, tôi chỉ là một phần trong những chỗ tối tăm của đô thị.
Bên kia đường, một đôi nam nữ đang đi bộ, không biết tôi có nhận ra người đàn bà đó không? Chị ta có phải là người mà Vercueil đã dẫn về nhà không? Hay tất cả phụ nữ lang thang gần Khách sạn Avalon và Cửa hàng rượu Solly Kramer đều có chân cẳng lều ngều như vậy? Người đàn ông đeo chiếc túi thắt trên vai không phải là Vercueil.
Tôi quấn chặt chiếc khăn trải giường và nằm xuống. Tôi có thể cảm thấy xe đi lại rầm rập trên cầu làm rung đến tận xương. Thuốc đang còn ở nhà, còn nhà lại ở trong tay người khác. Không có thuốc, liệu tôi còn sống nữa không? Không. Nhưng tôi có muốn sống không? Tôi bắt đầu cảm thấy sự yên tâm bàng quan của một sinh vật già nua, con vật cảm thấy đã gần chết nên lạnh lùng và từ từ bò vào cái hố dưới đất mà ở đó mọi thứ sẽ chung đụng với nhịp đập của trái tim. Đằng sau cột xi măng, ở một chỗ mà ba chục năm nay mặt trời chưa rọi đến, tôi nằm còng queo, nằm nghiêng bên không đau, nghe cái đau có thể là tiếng đập của mạch máu.
Có lẽ tôi đã ngủ quên. Thời gian đã trôi đi. Tôi mở mắt và thấy một đứa bé đang quỳ cạnh tôi, tay mò vào dưới tấm khăn trải giường. Tay nó lần trên người tôi. “Không có gì cho cậu đâu”, tôi định nói nhưng không mở miệng được. Nó chỉ khoảng mười tuổi, đầu trọc, đi chân đất, vẻ mặt khắc khổ. Sau lưng nó còn hai đứa nhỏ tuổi hơn. Tôi hé răng nói “Để tôi yên. Tôi đang bị bệnh, sẽ lây sang các cậu đấy”.
Chúng từ từ lui ra như những con quạ, đứng đó chờ. Tôi cần đi tiểu. Tôi đành đái ngay tại chỗ nằm. Lạy Chúa, lạy Chúa, cũng may mà tôi cứ nằm ì ra đó để cho mọi việc tự nó giải quyết.
Bọn trẻ lại đến gần. Tôi cứ chờ, mặc kệ cho chúng bâu vào. Tiếng xe cộ ngoài đường kêu ro ro như một đàn ong ở tổ làm người tôi lâng lâng. Không gian đầy tiếng ù ù. Hàng ngàn đôi cánh bay qua bay lại nhưng không đụng  vào chỗ nào. Làm sao có đủ không gian của chúng nhỉ? Không gian trên bầu trời dành cho linh hồn và những kẻ ra đi chăng? Marcus Aurelius từng nói là những linh hồn ấy nhập vào nhau, cháy lên và lại nhập vào nhau để trở về chu kỳ vĩ đại.
Chết rồi lại chết. Tro tàn của đàn ong.
Một góc khăn trải giường lật lên. Tôi chợt thấy ánh sáng, hai bên má bỗng thấy lạnh vì nước mắt với trào ra. Ai nhét cái gì đó vào miệng tôi. Tôi ngậm chặt rẫy ra. Cả ba đứa trẻ xúm đến đè lên người tôi. có lẽ sau lưng chúng còn một bọn nữa. Chúng định làm gì? Tôi càng dãy dụa chúng càng đè nặng hơn. Cổ họng tôi phát ra tiếng òng ọc khô khan như tiếng xẻ gỗ. Bàn tay kia rụt lại. Tôi nói “Đừng…” nhưng miệng đau không nói thành lời.
Tôi định nói gì nhỉ? Đừng làm thế! Các cậu không thấy là tôi không có gì ư? Các cậu không biết thương người ư? Thật vô nghĩa. Tại sao trên đời này phải có chuyện thương người? Tôi nghĩ đến những con bọ hung, những con đen to có bướu trên lưng đang yếu ớt dãy chết, đàn kiến kéo đến bò lên mình chúng, cắn vào những chỗ mềm, khớp chân và mắt, xâu xé thịt con bọ.
Chúng nhét vào miệng tôi cái que ngắn chừng một tấc, không phải cái gì khác. Que rút ra rồi, miệng tôi còn dính đất.
Thằng bé lại lấy đầu que cậy môi tôi. Tôi rụt lại và nhổ toẹt. Nó lẳng lặng đứng dậy, co chân đá một cái, cát bụi tung bắn vào mặt tôi.
Một chiếc xe đi qua, đèn chiếu vào mặt bọn trẻ. Chúng bỏ chạy về phố Buitenkant. Chung quanh lại tối đen.
Những chuyện đó xẩy ra thật không? Có đấy. Chả còn gì để nói nữa. những chuyện đó xẩy ra ở phố Breda, phố Schoonder, phố Vrede, cách đây một quãng. Trước đây một thế kỷ bọn quý tộc ở Cape Town ra lệnh cho xây những ngôi nhà thật cao, thật to, để chúng và con cháu ở đó mãi mãi, không tính trước cái ngày đám gà con núp bóng chúng sẽ quay lại thống trị.
Đầu óc tôi mung lung, hoang mang. Tôi rùng mình, ho liên hồi. Tôi không còn biết mình đang ở đâu.
Rồi có một vật gì ngửi mặt tôi. Nó là một con chó. Tôi né tránh nhưng nó lại liếm vào ngón tay. Tôi đành mặc, nghĩ bụng còn có những thứ tệ hơn cái mõm và hơi thở của con chó. Tôi để nó liếm mặt, liếm má, liếm những giọt nước mắt mằn mặn. Có thể  cho đó là những nụ hôn cũng được.
Hình như có người cùng đi với con chó. Tôi nhận ra họ chăng? Đó là Vercueil chăng, hay tất cả những kẻ lang thang ngoài phố đều có mùi mốc, mùi quần áo lót thối vứt trong đống tro? Tôi rú lên “Ông Vercueil phải không?” con chó thích quá cũng kêu ư ử và dí mũi vào mặt tôi.
Một que diêm bật lên. Đúng là Vercueil, đội mũ hẳn hoi. Anh ta hỏi “Ai để bà ở đây thế?” Vòm miệng không còn vướng như lúc nãy, tôi đáp “Tự tôi đấy”. Cây diêm tắt. Tôi lại ứa nước mắt. Con chó liếm hết ngay.
Tôi không ngờ Vercueil lưng còng và ngực lép kẹp như chim mòng biển lại có thể khoẻ thế. Anh ta nhấc tôi lên cùng với chiếc khăn ướt và bế đi. Tôi nghĩ bụng đã bốn chục năm kể từ ngày tôi được người đàn ông bế đi như thế này. Cái bất hạnh của người đàn bà to lớn. Câu chuyện sẽ kết thúc như thế này chăng: được đôi tay khoẻ mạnh bế đi qua bãi cát, qua những chồ nông, qua những ngọn sóng lớn rồi đi vào những khoảng tối đen sâu thẳm?
Chúng tôi đi khỏi cầu vượt trong im lặng lạ kỳ. Có thể chịu đựng mọi sự bất ngờ như vậy được bao lâu nữa? Cái đau biến đi đâu rồi? Có phải cái đau đã khiến tôi vui hơn không? Tôi bảo anh ta “Đừng quay lại phố Schoonder nữa”.
Chúng tôi đi dưới ánh đèn đường. Tôi thấy mạch máu trên cổ anh ta  căng lên, nghe anh ta thở dốc. Tôi nói “Bỏ tôi xuống đây một lúc”. Anh ta bỏ tôi xuống rồi đứng nghỉ. Bao giờ thì anh ta cởi áo và khoe đôi vai to rộng?
Anh ta bế tôi lên phố Buitenkant, qua phố Vrede, phố hoà bình, bước đi chậm hơn, đi dò từng bước vào khoảng rừng tối. Qua các cành cây, tôi ngước mắt nhìn các vì sao trên trời.
Anh ta đặt tôi xuống.
Tôi nói rất thật tình “Tôi rất mừng lại thấy anh”. Rồi tôi nói tiếp “Trước lúc anh đến, tôi bị bọn trẻ tấn công. Tấn công, hay ăn hiếp, hay thăm dò, cũng chả biết nữa. Vì thế tôi thấy quái lạ. Cũng chẳng hiểu sao chúng lại thọc que vào miệng tôi. Chúng làm thế thì thích thú gì cơ chứ?”
Anh ta nói “Chúng muốn cậy răng vàng của bà đấy. Chúng đem đến nhà cầm đồ bán lấy tiền”.
“Răng vàng ư? Quái nhỉ. Tôi làm gì có răng vàng. Tôi lấy răng ra cho anh xem đây này”.
Anh ta mò tìm trong bóng tối chiếc hộp giấy đã gập mỏng, trải ra đất và giúp tôi nằm xuống. Rồi anh ta không ngần ngại, từ từ nằm quay lưng vào tôi. Con chó chen vào giữa chân hai người.
Tôi hỏi “Anh có cần đắp thêm mảnh khăn này không?”
–         Tôi không sao.
Thời gian trôi.
Tôi khẽ nói “Xin lỗi, tôi khát lắm. Ở đây có nước không nhỉ?”
Anh ta đứng dậy, lát sau cầm về một chai nước. Tôi uống thử, đó là vang ngọt, trong chai còn một nửa. Anh ta nói “Tôi chỉ có thế”. Tôi uống vào, không thấy đỡ khát, nhưng các vì sao trên trời bắt đầu quay lông bông. Mọi thứ như xa dần, mùi đất ẩm lạnh, người đàn ông bên cạnh tôi, và thân xác tôi. Như con cua đã lâu ngày, mệt mỏi, gấp càng lại, cả cái đau trong người tôi cũng ngủ nốt. Tôi lại chìm vào bóng tối.
Tôi tỉnh dậy đã thấy anh ta quay người quàng tay lên cổ tôi. Tôi có thể gỡ ra nhưng không muốn làm cho anh ta khó chịu. Ngày sáng dần ra, tôi vẫn nằm không cựa quậy, mặt kề mặt anh ta. Anh ta giật mình, mở choàng mắt. Tôi khẽ nói “Tôi vẫn nằm đây”. Anh ta lại nhắm mắt.
Tôi chợt nghĩ: giờ này đây, ai là người tôi biết rõ hơn hết trong tất cả các sinh vật trên trái đất? Anh ta chứ ai. Tôi biết từng sợi râu anh ta, từng vết nhăn trên trán anh ta. Anh ta chứ không phải con đâu. Vì lúc này anh ta đang ở đây, bên cạnh mẹ.
Tha lỗi cho mẹ. Thời gian rất ngắn ngủi, mẹ phải tin ở trái tim mẹ và nói ra sự thật. Mẹ chẳng nhìn thấy gì, chẳng biết gì, sự thật đem mẹ đi đâu mẹ sẽ đi đó.
Tôi khẽ hỏi “Anh có thức không đấy?”
–         Có.
Tôi nói “Bây giờ hai thằng bé ấy đã chết rồi. Chúng giết cả hai đứa. Anh có biết chuyện ấy không?”
–         Tôi biết.
–         Anh biết ở nhà đã xảy ra chuyện gì không?
–         Có.
–         Tôi nói lại anh có nghe không?
–         Nói đi.
–         Thế này nhé. Hôm thằng Bheki chết, tôi gặp người anh của Florence, anh ruột hay anh họ gì chẳng biết. Ông ta là người có học. Tôi bảo ông ta rằng tôi mong chúng đừng có dính vào – gọi là gì nhỉ? – vào đấu tranh. Tôi bảo “Nó chỉ là đứa trẻ, chưa sẵn sàng được. Nó không bao giờ nên vì thằng bạn mà dính vào chuyện ấy.
“Sau đó tôi lại nói chuyện với ông ta trên điện thoại. Tôi thành thật nói với ông ta điều tôi suy nghĩ về tình đồng chí mà bây giờ hai đứa đã phải chết. Tôi gọi đó là không khí thần bí của cái chết. Tôi trách những người thân Florence và ông ta đã chẳng làm gì để khuyên chúng nên thôi đi.
“Ông ta lịch sự lắng nghe tôi nói, bảo là tôi có quyền góp ý kiến. Nhưng tôi chẳng làm thế nào để ông ta nghĩ lại được.
“Nhưng bây giờ tôi tự hỏi tôi có quyền gì mà có ý kiến về tình đồng chí hay bất cứ cái gì khác chứ? Tôi có quyền gì mà mong rằng Bheki và bạn nó tránh xa những chuyện rắc rối? Hình như đó chỉ là ý kiến rơi vào khoảng không, ý kiến chẳng làm ai xúc động, chẳng có nghĩa gì. Đã là ý kiến thì phải có người khác nghe, cân nhắc, không phải vì lễ độ mà nghe đâu. Mà muốn cho người ta cân nhắc thì ý kiến phải có sức nặng. Ông Thabane không cân nhắc điều tôi nói. Nó không có sức nặng gì với ông ta. Ngay cả Florence cũng không nghe tôi. Với Florence thì những gì tôi nghĩ trong đầu hoàn toàn chỉ là sự bàng quan mà thôi, tôi biết thế lắm”.
vercueil đứng dậy, ra sau cây đứng đái. Rồi tôi ngạc nhiên thấy anh ta quay về và lại nằm xuống. Con chó chúi mũi vào giữa hai chân anh ta. Tôi thè lưỡi liếm chỗ đau chảy máu trên miệng.
Tôi nói “Tôi vẫn không thay đổi ý kiến. Tôi rất ghét những lời kêu gọi hy sinh để kết thúc bằng một loạt những đổ máu và chết trong đống bùn. Chiến tranh không bao giờ đúng như nó vẫn giả bộ làm ra thế. Cạo sạch cái bề mặt đi, anh sẽ thấy rõ ràng những người gài tống bọn trẻ vào chỗ chết nhân danh một thứ trừu tượng nào đó. Dù cho ông Thabane nói gì (tôi không trách ông ta, tương lai đến bằng cách trá hình, nếu nó trần trụi khi đến thì ta sẽ phải kinh hoàng với những gì thấy được) thì đó vẫn là chiến tranh của người già chống người trẻ. Tự do hay là chết! Bheki và các bạn nó hét lên như vậy. Những lời của ai thế? Không phải của chúng nghĩ ra đâu. Tự do hay là chết! Tôi tin rằng hai đứa con gái nhỏ kia cũng nhắc lại câu đó trong giấc ngủ. Không! Tôi muốn nói: hãy tự cứu lấy mình đi!
“Ông Vercueil, tiếng nói thật sự khôn ngoan là của ai? Tôi chắc là của tôi. Nhưng tôi là ai? Tôi là ai mà có tiếng nói được chứ? Làm sao tôi có thể vinh dự mà bảo chúng quay lưng lại với lời kêu gọi ấy được? Tôi có quyền gì ngoài việc ngồi vào một góc và ngậm miệng lại. Tôi không có tiếng nói. Tôi đã mất nó từ lâu rồi. Có lẽ tôi chưa bao giờ có tiếng nói. Đúng thế đấy. Còn lại là phải im lặng. Nhưng với tình hình này – dù là thế nào – tôi vẫn phải tiếp tục với tiếng nói không phải tiếng nói. Cứ phải thế thôi.
Vercueil mỉm cười chăng? Anh ta giấu mặt. Tôi vẫn nói tiếp, nói rin rít bằng cái miệng không răng của tôi.
“Trước đây đã lâu có một tội ác. Bao giờ tôi cũng không biết, nhưng chắc chắn là trước năm 1916. Lâu nhưng tôi sinh ra vào cái thời đó. Nó là một phần di sản, một phần của tôi, và tôi là một phần của nó.
“Như mọi tội ác khác, nó có cái giá của nó. Tôi không nghĩ cái gía đó phải trả bằng ô nhục, bằng cuộc sống ô nhục trong cái chết ô nhục, cái chết trong một góc tối tăm, không ai thương xót. Tôi chấp nhận cái đó. Tôi không định tách riêng mình ra. Tuy không phải tôi ác tôi yêu cầu người ta phạm, nhưng người ta nhân danh tôi mà phạm tội ác đó. Thỉnh thoảng tôi phát điên khi những người làm cái việc bẩn thỉu – anh đã thấy đó, một thứ điên ngu ngốc đáng hổ thẹn – nhưng rồi tôi lại chấp nhận cho nó sống trong tôi. Khi điên lên tôi muốn chúng chết đi, muốn cả tôi chết đi nữa. Nhân danh vinh dự. Một khái niệm vinh dự về vinh dự. Honesta mors.
“Ông Vercueil, tôi chẳng biết gì về tự do hết. Tôi và Bheki và bạn nó cũng chẳng biết gì. Có lẽ tự do luôn luôn chỉ là cái người ta không tưởng tượng được. Tuy nhiên hễ thấy không tự do là ta biết ngay, phải thế không? Bheki không tự do, và nó cũng biết thế. Anh không tự do. Ít nhất là không tự do trên trái đất này, tôi cũng vậy. Tôi sinh ra là nô lệ và chắc chắn sẽ chết như một tên nô lệ. Một cuộc sống trong xiềng xích, một cái chết trong xiềng xích, đó là một phần của cái giá phải trả, không được phàn nàn, thắc mắc.
“Cái gì tôi không biết, cái gì tôi không biết – anh đã nghe thấy nhé – cai giá phải trả còn cao hơn nữa. Tôi đã tính nhầm. sai lầm từ đâu mà đến? Nó chẳng liên quan gì đến vinh dự, đến cái khái niệm mà tôi đã phải vất vả bám vào nó, bằng giáo dục, bằng đọc sách, tất cả những cái mà người có vinh dự chẳng thấy đau đớn trong tâm hồn. Tôi đã luôn luôn phấn đấu cho vinh dự, cho vinh dự của riêng mình, dùng ô nhục làm kẻ hướng dẫn. Chừng nào còn thấy hổ thẹn thì tốt biết là mình đã không rơi vào nhục nhã. Hổ thẹn có tác dụng như hòn đá thử vàng, nó luôn luôn có mặt, là một thứ để anh có thể trở lại yêu quý một người mù, để biết mi1nh đang ở đâu. Còn lại thì tôi tránh xa hổ thẹn, không sa vào nó nữa. Hổ thẹn không bao giờ có thể trở thành cái thú hổ thẹn được. Nó luôn luôn cắn rứt tôi. Tôi không tự hào về nó, mà xấu hổ vì nó. Chỉ là sự hổ thẹn của riêng tôi thôi. Nó là tro bụi trong miệng tôi hết ngày này sang ngày khác, không bao giờ hết mùi vị của tro bụi được.”
Tôi nói “Ông Vercueil, điều tôi nói sáng nay là sự thú tội, tôi biết phải thú tội như thế nào, không giữ lại điều gì bí mật. Tôi vốn là người tốt, tôi tự do thú tội. Bây giờ tôi vẫn là người tốt. Đây là thời buổi gì mà làm người tốt vẫn chưa đủ?
“Điều tôi chưa tính toán được có lẽ phải đòi hỏi nhiều hơn nữa mới là tốt. Vì đất nước này có rất nhiều người tốt. Chúng ta chỉ thuộc loại hai xu, gần như tốt mà thôi. Điều mà thời đại đòi hỏi rất khác với cái tốt thường tình. Thời đại đòi hỏi chủ nghĩa anh hùng cơ. Đó là những chữ mà nói ra tôi thấy lạ miệng thế nào ấy. Tôi ngờ rằng trước đây tôi đã dùng những chữ đó, thậm chí còn giảng chúng nữa. Tại sao không chứ? Có lẽ vì tôn trọng. Có lẽ vì hổ thẹn. Như ngắm nhìn người đang cởi truồng vậy. Lẽ ra trong bài giảng tôi đã phải dùng những chữ như cương vị anh hùng. Người anh hu1ng với cương vị anh hùng. Người anh hùng là hình dáng trần truồng ở thời cổ đấy”.
Chợt nghe Vercueil ọ ẹ trong cổ. Tôi nhổm lên nhìn và thấy má anh ta sần sùi và có lông ở lỗ tai. Tôi khẽ gọi “Ông Vercueil”. Anh ta không động đậy. Ngủ ư? Giả bộ ngủ ư? Anh ta nghe tôi nói được những gì? Đã nghe tôi nóii về chuyện tốt bụng và chủ nghĩa anh hùng chưa? Về danh dự và hổ thẹn chưa? Nếu không nghe thì những điều tôi thú nhận có còn là sự thật không? Anh nghe tôi nói không, hay tôi đã làm anh ngủ rồi?
Tôi đi ra sau bụi cây. Chung quanh chim hót vang. Có ai mà nghĩ rằng chim chóc còn sống được ở ngoại ô như thế? Y như Arcady vậy. Chả trách Vercueil và các bạn của anh ta thích sống ngoài trời. Có một mái nhà tốt làm gì nếu không phải chỉ để Vercueil và các đồng chí của anh ta vào tránh mưa.
Tôi lại nằm xuống cạnh anh ta, chân tôi lạnh và dính bùn. Lúc này trời đã sáng hẳn. Chúng tôi nằm trên chiếc hộp giấy trải rộng ở chỗ không người, cha ai đi qua cũng trông thấy. Chúng tôi là thế trong con mắt các thiên thần, những người sống trong ngôi nhà kính, mọi hành động đều trần trụi. Trái tim chúng tôi cũng trần trụi, đập trong những bộ ngực bằng kính. Tiếng chim hót dội xuống như mưa.
Tôi nói “Sáng nay tôi thấy dễ chịu hơn. Nhưng có lẽ lúc này nên về nhà thôi. Dễ chịu thường báo hiệu rằng tôi sẽ đau nặng hơn”.
Vercueil ngồi dậy, cầm mũ, đưa ngón tay dài cáu bẩn lên gãi đầu. Con chó ở đâu nhảy đến chạy theo. Vercueil gấp miếng bìa cứng lại, đem giấu vào bụi cây.
Tôi nói bâng quơ “Anh có biết rằng tôi bị cắt một bên vú không?”
Anh ta sững người, tỏ vẻ khó chịu.
–         Tất nhiên bây giờ tôi lấy làm tiếc. Tiếc là đã có vết. Y như định bán một thứ bàn ghế trong nhà nhưng đã có vết hoặc cháy. Anh có thể bảo chiếc ghế đó còn rất tốt, nhưng người ta không thích. Không ai thích đồ đạc đã có vết. Đây là tôi nói đến cuộc sống của tôi. Có thể nó không tốt lắm nhưng nó vẫn là cuộc sống, không phải là cuộc sống nửa vời. Tôi nghĩ là sẽ bán nó đi hoặc tiêu nó đi để cứu vãn danh dự. Nhưng trong tình trạng như hiện nay thì ai mà chấp nhận được? Y như đem bán tiền cổ Hy lạp vậy. Tiền xu có thể là rất tốt ở nơi khác, còn ở đây thì không. Vết của nó khíến người ta ngờ vực.
–         Nhưng tôi chưa hoàn toàn bỏ cuộc đâu. Tôi sẽ còn đi đây đi đó tìm cách làm một chuyện gì khác. Anh có ý kiến gì không?
Vecueil đội mũ, kéo vành cẩn thận.
Tôi nói “Tôi rất muốn mua cho anh chiếc mũ mới”.
Anh ta mỉm cười. Tôi khoác tay anh ta, từ từ đi dọc phố Vrede.
Tôi nói “Để tôi kể lại giấc mơ cho anh nghe. Người trong mơ của tôi không đội mũ, nhưng tôi nghĩ người đó là anh. Tóc anh ta dài và bóng, chải lật ra đàng sau” Tôi không nhắc đến chỗ tóc dài bóng nhưng bẩn, vắt ra sau lưng như đuôi chuột.
“Chúng tôi ra biển. Anh ta dạy tôi bơi. Anh ta giữ cho tôi nằm ngang trên mặt nước và đạp chân. Tôi mặc áo tắm dệt kim, loại áo ngày xưa, màu xanh nước biển. Lúc ấy tôi chỉ là đứa trẻ, vả lại trong giấc mơ thì mọi người chúng ta đều là trẻ con hết.
“Anh ta kéo tôi ra xa, chăm chăm nhìn tôi. Mắt anh ta cũng giống mắt anh. Biển không có sóng, chỉ có những đợt lăn tăn cuộn vào, sáng lấp lánh. Thực ra nước biển cũng trơn như dầu. Người anh ta nổi trên mặt nước như có dầu bám chung quanh. Tôi nghĩ bụng đó là dầu cá sardines. Tôi là con cá sardine, anh ta đem tôi ngâm vào dầu cá. Tôi muốn bảo Quay về đi, nhưng không dám mở miệng, sợ dầu tràn vào phổi, tôi không có can đảm chết đuối trong dầu”.
Tôi ngừng lại xem anh ta có nói gì không, nhưng anh ta vẫn im lặng. Chúng tôi rẽ vào phố Schoonder.
Tôi nói “Cố nhiên tôi chỉ ngẫu nhiên kể thế thôi. Nhắc lại giấc mơ bao giờ cũng có nghìa là muốn thực hiện điều gì. Nhưng vấn đề là điều gì”.
“Ngày đầu khi thấy anh sau nhà xe cũng là ngày tôi được tin không hay về trường hợp của tôi. Tin rất không hợp. Tôi tự hỏi không biết anh có phải là – xin lỗi phải dùng từ này – có phải là thiên thần đến chỉ đường cho tôi không. Tất nhiên lúc đó anh không phải thế, tôi biết chứ. Nhưng đó chỉ mới là một nửa câu chuyện thôi, phải thế không? Chúng ta ai cũng chỉ nhận thức được một nửa và sáng tạo cũng chỉ được một nửa.
“Rồi tôi tiếp tục kể lại câu chuyện anh chỉ đường cho tôi theo. Tôi tự nhủ nếu anh không nói lời nào có nghĩa là thiên thần không có gì để nói. Thiên thần đi trước, người đàn bà theo sau. Mắt thiên thần mở, mắt người đàn bà nhắm, vì chị ta còn chìm đắm trong giấc ngủ trần tục. Vì thế tôi vẫn quay về theo anh, nhờ anh chỉ dẫn, giúp đỡ”.
Cửa trước khoá, nhưng cổng vào sân mở toang. Những mảnh kính vỡ chưa quét sạch, cửa vào phòng Florence còn hé một cánh. Tôi cẩn thận bước chậm, chưa dám nhìn vào trong phòng.
Cửa bếp không khóa. Họ không tìm thấy chìa.
Tôi bảo Vercueil “Vào đây đã”.
Ngôi nhà vẫn như cũ mà không còn như cũ. Đồ đạc trong bếp bị xê dịch. Chiếc ô của tôi treo ở chỗ tôi chưa treo bao giờ. Ghế dài bị chuyển đi, để lại một vệt trên thảm. Nhất là có mùi gì rất gắt tôi không thể xác định được. Họ để lại dấu vết ở mọi chỗ, không chừa thứ gì. Tôi chợt nhớ đến hồ sơ trên bàn, các trang giấy đã viết. Có lẽ họ cũng đã xem thư, ngón tay vấy máu của họ đã lật các trang thư, những con mắt vô tình lướt qua những lời thô kệch ấy. Tôi bảo Vercueil “Anh đưa tôi lên gác đi”.
Hồ sơ cuối cùng tôi viết đã đóng lại, nay bị mở. Ổ khoá ở ngăn tài liệu bị đập vỡ. Nhiều chỗ trên kệ sách trống hoác.
Khoá ở hia phòng không dùng đến cũng bị phá.
Họ đã lục sóat tủ và các ngăn kéo.
Không còn thứ gì họ không đụng đến. Y như vụ họ đến thăm nhà lần trước. Lục lọi chỉ là cái cớ. Mục đích của họ là sờ vào mọi chỗ, đụng đến mọi chỗ, bằng một tinh thần hiểm ác. Chẳng khác gì một cuộc hăm doạ, một cách bôi bẩn người đàn bà.
Tôi quay sang Vercueil không biết nói gì, ruột gan rối bời.
Anh ta nói “Có ai ở dưới nhà”.
Ra đầu cầu thang, chúng tôi nghe có người đang nói chuyện điện thoại.
Bỗng không thấy nói nữa. Một người trẻ tuổi mặc đồng phục xuất hiện ở hành lang gật đầu chào chúng tôi.
Tôi nói xuống “Anh làm gì ở nhà chúng tôi thế?”
Anh ta vui vẻ đáp “Kiểm tra thôi. Chúng tôi không muốn người lạ vào đây.” Anh ta nhặt mũ áo và khẩu súng. Hay là vừa rồi tôi ngửi thấy mùi súng? Anh ta nói “Tám giờ, các thám tử sẽ đến đây. Tôi ra ngoài chờ”. Rồi anh ta mỉm cười, làm như vừa giúp đỡ tôi một việc, chờ tôi cám ơn.
Tôi bảo Vercueil “Tôi phải đi tắm cái đã”.
Nhưng tôi không tắm. Tôi đóng cửa phòng ngủ, uống hai viên thuốc đỏ, rồi nằm xuống, run khắp người, run như chiếc lá trong cơn giông. Người tôi lạnh toát nhưng không phải run vì lạnh.
Một phút sau tôi tự nhủ: lúc này chớ có tan ra từng mảnh, chỉ nên nghĩ đến phút sau thôi.
Dần dần tôi hết run.
Tôi nghĩ bụng: con người là sinh vật duy nhất có một phần của đời mình không thể biết tương lai ra sao vì nó chỉ như cái bóng lớn lởn vởn trước mặt. Luôn luôn đuổi bắt lấy cái bóng ấy, sống trong hình ảnh của hy vọng. Nhưng tôi không thể có quyền gì để được làm con người. Tôi phải là cái gì bé nhỏ hơn, mù quáng hơn, sát mặt đất hơn.
Có tiếng gõ cửa. Vercueil bước vào, theo sau là viên cảnh sát hôm qua khoác áo lông hươu nhưng bây giờ đã mặc áo đeo ca vát. Người tôi lại run lên. Anh ta ra hiệu cho Vercueil đi ra ngoài. Tôi ngồi dậy bảo “Ông Vercueil, ông đừng đi”, rồi quay sang nói với  viên cảnh sát “Ông có quyền gì vào nhà tôi?”
Anh ta không tỏ vẻ gì khác lạ “Chúng tôi lo cho bà. Hôm qua bà đi đâu?” Tôi không trả lời. “Bà Curren, thật bà không sao chứ?”
Tuy tôi đã nắm chặt tay nhưng người vẫn run như muốn co quắp. Tôi hét lên “Tôi không sao. Chỉ có anh là sao thôi.”
Anh ta không chột dạ, trái lại anh ta như khuyến khích tôi nói nữa.
Tôi nghĩ bụng anh liệu đấy! Họ sẽ buộc tội anh, sẽ bảo anh là điên và bắt anh đi!
Tôi bình tĩnh hỏi lại “Anh muốn gì ở đây?”
–         Tôi chỉ muốn hỏi vài câu. Bà làm thế nào mà gặp thằng Johannes ấy được?
Johannes. Đó là tên thật của nó ư? Chắc chắn là không.
–         Nó là bạn của thằng con người giúp việc cho tôi. Bạn thôi.
Anh ta rút túi lấy chiếc máy ghi âm nhỏ để lên giường cạnh tôi.
–         Thế con trai người giúp việc cho bà đâu rồi?
–         Nó chết và chôn rồi. Anh biết điều đó quá đi chứ.
–         Sao nó chết?
–         Nó bị bắn ở khu nhà lụp xụp.
–         Bà còn biết đứa nào khác nữa không?
–         Đứa nào khác nữa?
–         Các bạn nó.
–         Hàng nghìn, hàng triệu. Anh không thể đếm hết được.
–         Ý tôi nói là những đứa khác trong chi bộ ấy. Còn có đứa nào khác đến ở nhờ nhà bà không?
–         Không.
–         Bà có biết chúng làm thế nào mà có vũ khí không?
–         Vũ khí nào?
–         Súng lục ấy. Ba ngòi nổ ấy.
–         Tôi chẳng biết gì về ngòi nổ hết, cũng không biết ngòi nổ là thế nào. Còn súng lục là của tôi.
–         Chúng nó lấy của bà ư?
–         Tôi cho chúng mượn. không phải tất cả bọn chúng. Chỉ cho thằng John mượn thôi.
–         Bà cho nó mượn súng? Khẩu súng là của bà ư?
–         Phải.
–         Tại sao bà lại cho nó mượn súng?
–         Để nó tự vệ chứ sao.
–         Bà Curren, để nó tự vệ chống lại ai?
–         Để nó tự vệ khi bị tấn công.
–         Bà Curren, đó là loại súng gì? Bà có thể cho xem giấy phép được không?
–         Tôi chẳng biết loại súng gì. Tôi có nó từ lâu rồi, trước khi người ta làm ầm ĩ về chuyện giấy phép nữa kia.
–         Bà có chắc là đã đưa cho nó không? Bà biết đây là chúng ta đang nói về chuyện có thể phạm tội đấy nhé.
Viên thuốc bắt đầu tác động. Lưng tôi đã bớt đau, bàn tay đã thoải mái hơn, chân trời bắt đầu mở rộng.
Tôi nói “Anh thật sự muốn tiếp tục với câu chuyện vô nghĩa này phải không?” Rồi tôi ngả lưng vào gối, nhắm mắt lại. Đầu óc tôi quay cuồng “Chúng ta đang nói chuyện về những người đã chết. Các anh chẳng thể làm gì được với họ nữa. Họ đã an toàn rồi. Các anh dã giải quyết rồi. Việc gì còn phải lo xét xử nữa? Sao không khép vụ án lại đi?”
Anh ta cầm máy ghi âm loay hoay một chút, rồi để xuống gối nói “Tôi chỉ kiểm tra lại thôi”.
Tôi giơ tay gạt phăng cái máy ghi âm. Anh ta kịp chụp lại trước khi nó rơi xuống sàn.
Tôi nói “Các anh đã soát giấy tờ riêng của tôi rồi. Đã lấy đi những cuốn sách của tôi nữa. Phải trả lại cho tôi. Trả hết mọi thứ. Những thứ đó không liên quan gì đến các anh hết”.
–         Bà Curren, chúng tôi không nuốt sách của bà đâu. Cuối cùng bà sẽ được lấy lai tất cả.
–         Tôi không muốn để đến cuối cùng. Tôi muốn ngay bây giờ. Những thứ đó là của tôi, là của riêng tôi.
Anh ta lắc đầu. “Bà Curren, đó không phải là vật riêng. Bà cũng biết thế. Chẳng còn gì là của riêng hết”.
Tôi bắt đầu mệt, không muốn nói gì nữa. Tôi gắt “Mặc tôi”.
–         Xin cho hỏi thêm vài câu. Đêm qua bà ở đâu?
–         Đi với ông Vercueil
–         Đây là ông Vercueil chứ?
Tôi cố mở mắt, lẩm bẩm “Phải”.
–         Ông Vercueil là ai thế? – rồi một  giọng khác hẳn. “Wie is jy?”
–         Ong Vercueil săn sóc tôi. Ông Vercueil là cánh tay phải của tôi. Ông Vercueil, ông lại đây.
Tôi giơ tay ra chạm vào ống quần anh ta, rồi chạm vào tay, bàn tay có những ngón khoằm. Tay tôi tê dại nhưng cố nắm chặt lấy.
–         “In Godsnaam”, một thám tử đứng ở đâu đó lên tiếng. Nhân danh Chúa! Anh ta nói thế là sao nhỉ? Không tán thành hay chửi hai người chúng tôi? Tôi rời tay, lui ra xa.
Tôi chợt nghĩ đến một từ: Thabanchu, hay Thaba Nchu. Tôi cố tập trung. Chín chữ đó dảo lại có nghĩa gì nhỉ? Tôi thử đặt chữ b lên đầu xem sao, nhưng rồi tôi ngủ thiếp đi.
Tôi tỉnh lại, vừa khát nước, vừa mệt, người đau như dần. Mặt đồng hồ nhìn tôi nhưng tôi không có ý niệm vẽ kim ngắn kim dài. Căn nhà im lặng như nhà hoang.
Thabanchu: banch là cái gì? Hay bath? Tôi kéo tấm khăn bọc quanh người. Tôi có nên đi tắm không đây?
Nhưng đôi chân không đưa tôi vào phòng tắm. Tôi vịn tay vào thành lan can, cúi xuống lẩm bẩm. Tôi xuống nhà gọi số điện ở Guguletu. Chuông reo mãi, cuối cùng có một bé gái nghe điện. Tôi hỏi “Ông Thabane có đấy không?” “Không”. Vậy cho tôi nói chuyện với bà Mkubuleki, à không phải bà Mkubuleki, Mkubukeli cơ. “Vâng”. “Cháu là ai thế?” “Cháu là Lily”. Lee-lee. “Nhà có mình  cháu thôi sao?” “Còn em cháu nữa”. “Em cháu mấy tuổi?” “Em cháu lên sáu”. “Còn cháu mấy tuổi?” “Cháu mười tuổi”. “Lily, cháu có thể nhắn lại cho bà Mkubukeli được không?” “Được”. “Đây là bác nói về ông anh bà ấy, ông Thabane. Bảo bà ấy dặn ông Thabane nên cẩn thận. Tên tôi là Curren. Cháu ghi lại đi. Số điện của tôi đây”. Tôi đọc số, đánh vần tên. Bà Curren. Mấy chữ đó đảo lại để chỉ cái gì?

Vercueil gõ cửa bước vào nói “Bà muốn ăn gì không?”
–         Tôi không đói. Còn anh tìm được cái gì ăn thì tùy anh.
Tôi muốn ngồi một mình. Nhưng anh ta chằm chằm tò mò nhìn tôi. Tôi ngồi trên giường, tay đeo găng, bút giấy để trên đùi. Suốt nửa giờ, tôi ngồi nhìn mặt giấy không viết được chữ nào.
Tôi nói “Tôi chờ cho tay ấm lên đã”.
Nhưng không phải vì tay cóng mà không viết được. Chính là vì mấy viên thuốc tôi đã uống quá liều. Chúng như những đám khói trong người tôi. Tôi nuốt vào, chúng tuôn ra một đám sương mù trong bụng, sương mù của diệt vong. Tôi không thể vừa uống thuốc vừa tiếp tục viết được. Thế là không đau thì không viết được, một thứ luật lệ đáng sợ. Ngoài ra, sau khi tôi uống thuốc, chẳng còn gì đáng sợ nữa, mọi thứ đều không đáng quan tâm, đều như nhau hết.
Dù sao mẹ vẫn viết. Trong đêm yên lặng như chết, Vercueil ngủ dưới nhà, mẹ viết thư này để con biết thêm về thằng “John”, thằng bé bất hạnh mà mẹ đã quen nó từ bao giờ. Mẹ muốn nói để con biết, dù mẹ chẳng ưa gì nó, nhưng nó vẫn hiện rõ trước mặt mẹ, hiện lên sắc nét hơn cả Bheki nữa kia. Nó theo mẹ hoặc mẹ theo nó, hoặc theo dấu vết của nó. Lúc đó là nửa đêm nhưng cũng là bình minh cuối cùng của nó. Mẹ ngồi trên giường nhưng mẹ cũng ngồi ở trong phòng Florence, phòng chỉ có một cửa sổ và một cửa ra vào, không có đường thoát nào khác. Ngoài kia họ đang chờ, cúi lom khom như đám thợ săn, chờ tặng cái chết cho thằng bé. Nó giữ trong mình khẩu súng lục, chuẩn bị chiến đấu với bọn thợ săn. Đó là bí quyết lớn nhất của nó và của Bheki, bí quyết sẽ làm chúng trở thành người lớn, còn mẹ đứng bên hoặc lảng vảng đâu đó. Nó kẹp ổ quay khẩu súng lục giữa hai đầu gối, vẩy lên vẩy xuống. Nó nghe tiếng thì thầm bên ngoài, mẹ cũng nghe với nó. Nó sẵn sàng với làn khói làm nó tắc thở, với cú đá đạp tung cửa, với thác lửa sẽ cuốn nó đi. Lúc đó nó đã sẵn sàng giơ súng bắn một phát vào giữa trái tim của ánh sáng.
Mắt nó không chớp, chăm chăm nhìn ra cánh cửa nó sắp từ bỏ cuộc đời này. Miệng nó khô, nhưng nó không sợ. Tim nó đập đều đều như nắm đấm trong ngực khép vào lại mở ra.
Mắt nó mở, mắt mẹ dù đang viết cũng nhắm lại. Mẹ nhắm mắt để được nhìn cho kỹ.
Giữa khoảng thời gian này không có thời gian, mặc dù tim nó đập với thời gian. Mẹ ngồi giữa đêm trong phòng, nhưng mẹ cũng ngồi với nó mọi lúc, như mẹ vẫn lảng vảng bên con ở bên kia biển rộng.
Thời gian lảng vảng nhưng không phải là vô tận. Thời gian hiện tại chỉ là tạm đình trước khi thời gian trở lại với cánh cửa bật mở và ở đây, trước hết là nó, rồi đến mẹ, sẽ đối mặt với ánh sáng trắng chói loà.

CHƯƠNG 4

Tôi mơ thấy Florence, một giấc mơ hay ảo mộng. Trong mơ, tôi thấy cô ta lại đi xuống đại lộ Chính phủ, tay dắt Hope và cõng Beauty trên lưng. Cả ba mẹ con đều đeo mặt nạ. Tôi cũng có đấy cùng đám đông đủ loại người và tầng lớp tập hợp chung quanh. Không khí như ngày hội. Tôi có nhiệm vụ trình diễn một vở.
Nhưng Florence không dừng lại xem. Cô ta nhìn thẳng và cứ đi như qua một đám hồn ma.
Mắt trên mặt nạ như mắt trong những tranh cổ Địa Trung Hải, to, hình bầu dục, con ngươi ở giữa trông như hạnh nhân của một nữ thần.
Tôi đứng giữa đại lộ đối diện với toà nhà Nghị viện, những người đứng chung quanh xem tôi làm ảo thuật với lửa. Trên cao là những cây chò rất to. Nhưng tôi không nghĩ đến trò mình đang làm. Tôi chăm chú nhìn Florence. Chiếc áo choàng đen buồn thảm của cô ta đã rơi đâu mất. Gió thổi nhàu chiếc quần trắng, cô ta đi chân đất, đầu để trần, ngực bên phải cũng để trần, cô ta đi qua thật nhanh, đứa bé đeo mặt nạ, trần truồng, lon ton chạy bên cạnh, đứa kia giơ tay chỉ trỏ.
Nữ thần này là ai mà đến trong ảo mộng, ngực để trần rồi vụt đi thế nhỉ? Đó là Aphrodite, nhưng không phải Aphrodite  với nụ cười đáng yêu, người đỡ đầu của những khoái lạc, mà chỉ là hình dáng xưa cũ, khẩn trương, chỉ như tiếng khóc dồn dập trong đêm tối, tiếng khóc của máu và đất, xuất hiện trong chốc lát cho mọi người thấy rồi đi luôn.
Nữ thần không để lại dấu hiệu hay tiếng gọi nào. Mắt mở trắng dã. Nữ thần thấy mà không thấy gì.
Tôi trình diễn với lửa nhưng vẫn đứng đó, sững sờ. Ngọn lửa từ người tôi phát ra xanh như màu băng tuyết. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết.
Đó là ảo mộng trong giấc mơ đêm qua, nhưng nó đến từ thời gian bên ngoài. Nữ thần đi qua, qua mãi, vẻ ngạc nhiên và tiếc thương, tôi không thể nhìn theo được. Tuy tôi vẫn nhìn ngắm cơn lốc đến từ ảo mộng, nhưng nữ thần và các con cô ta đều trống rỗng, người đàn bà theo sau cũng không có mặt, người đàn bà thường mang những vòng lửa ngoằn ngoèo như rắn trên đầu ấy, vẫn đập tay, vừa khóc vừa nhảy múa.
Tôi kể lại giấc mơ cho Vercueil nghe.
Anh ta hỏi “Có thật thế không?”
“Thật ư? Tất nhiên là không rồi. Nó cũng chẳng đáng tin cậy nữa kia. Florence thì có dính dáng gì đến Hy lạp. Những hình bóng trong giấc mơ có ý nghĩa khác. Đó chỉ là dấu hiệu về những vật khác thôi”
Anh ta hỏi vặn “Có thật thế không? Cô ta có thật không?” khiến tôi cụt hứng tuy vẫn không chịu tránh né. “Bà còn thấy gì khác nữa?”
Tôi cảm thấy phải theo đà câu chuyện, khẽ đáp “Thấy gì khác nữa? Còn gì khác nữa sao? Anh biết à?”
Anh ta lắc đầu, vẻ chán ngán.
Tôi nói “Mấy ngày qua anh biết tôi thế nào rồi. Tôi vẫn đứng bên bờ sông chờ đến lượt. Chờ xem có ai chỉ đường cho tôi qua sông. Từng ngày từng phút tôi vẫn ở đây chờ. Đó là những gì tôi thấy. Anh cũng thấy chứ?”
Anh ta không nói gì.
“Cái lý do tôi chống việc quay lại bệnh viện là nếu vào đó họ sẽ bắt tôi ngủ. Đó là cách họ làm đôi với động vật, do lòng tốt của họ thôi, nhưng họ cũng làm như thế với con người. Họ sẽ bắt tôi ngủ mà không được mơ thấy gì hết. Họ sẽ buộc tôi phải ăn quả độc để ngủ lơ mơ, để ngã xuống sông chết đuối và trôi đi. Vì vậy tôi không bao giờ qua sông được. Tôi không chịu để điều đó xảy ra. Tôi đã mất bao nhiêu công phu không thể nhắm mắt được.
Vercueil hỏi “Vậy bà muốn thấy gì?”
–         Tôi muốn thấy anh thực sự là thế nào
Anh ta nhún vai, tần ngần “Vậy tôi là ai?”
–         Là người thôi. Một người không mời mà đến. Tôi chỉ nói được thế thôi. Anh có thể nói thêm được gì nữa không?
Anh ta lắc đầu “Không”.
Tôi nói “Nếu anh muốn làm gì giúp, tôi nhờ anh lắp bộ ăng ten cho cái đài”.
–         Bà không muốn tôi đem ti vi lên cho bà ư?
–         Tôi chẳng có lòng dạ nào coi ti vi. Tôi sẽ phát ốm với nó.
–         Coi ti vi làm sao mà ốm được. Đó chỉ là hình ảnh.
–         Không phải chỉ có hình ảnh. Sau hình ảnh là những con người. Họ phát những hình ảnh ấy để làm người ta phát ốm. Anh biết tôi nói gì chứ.
–         Hình ảnh không thể làm cho bà ốm được.
Đôi khi như anh ta muốn trái ý tôi, khiêu khích tôi, gây sự với tôi, xem tôi bực mình như thế nào. Cách anh ta nói đùa vụng về, chẳng hấp dẫn tí nào, lại khiến tôi muốn ngả theo.
–         Tôi chỉ yêu cầu anh lắp giùm ăng ten thôi.
Anh ta xuống nhà. Lát sau khệ nệ bưng ti vi lên gác. Anh ta để ti vi quay mặt vào giường, lắp ăng ten, bật mở rồi đứng sang một bên. Lúc đó đang là buổi chiều. Một ngọn cờ phấp phới trên nền trời xanh. Một đội kèn chơi quốc thiều nước Cộng hoà.
Tôi bảo “Tắt đi”.
Anh ta càng vặn to hơn.
Tôi hét “Tắt ngay đi!”
Anh ta quay lại nhìn mắt tôi đang long lên. Rồi tôi ngạc nhiên thấy anh ta ngọ nguậy, ngoáy mông, giang tay, búng ngón tay, không ngờ anh ta có thể nhảy múa theo điệu nhạc. Miệng anh ta còn lẩm bẩm nữa. Lẩm bẩm những gì tôi không hiểu.
Tôi lại hét “Thôi đi!”
Một bà già đã rụng hết răng lên cơn điên. Chắc anh ta thấy tôi rất lạ. Anh ta vặn nhỏ tiếng.
–         Thôi đi!
Anh ta tắt ti vi, khẽ nói “Bà đừng thất vọng thế”
–         Vercueil, anh đừng dở hơi, đừng đùa thế, đừng có đem tôi ra đùa.
–         Nhưng sao bà lại có tâm trạng thế được?
–         Vì tôi sợ xuống địa ngục sau khi cứ phải nghe mãi bài Die stem.
Anh ta lắc đầu nói “Bà yên tâm. Nên kiên nhẫn đi. Mọi thứ sắp kết thúc cả rồi”.
–         Tôi không có thì giờ để mà kiên nhẫn được. Anh có thể có thì giờ, nhưng tôi thì không.
Anh ta lại lắc đầu, nhe răng nhìn tôi “Có lẽ bà cũng có thì giờ”.
Trong khoảnh khắc, trời cao như bỗng mở tung với ánh sáng chói loà rọi xuống. Cả một đời chỉ toàn nhận những hung tin bây giờ bỗng như nghe tin tốt lành, tôi mỉm cười hỏi lại “Thật thế à?” Anh ta gật. Chúng tôi nhìn nhau cười như hai người điên. Anh ta lại giơ ngón tay lên búng, trông như một con chim điên xoè hết lông cánh, nhảy lại điệu khi nãy. Rồi anh ta bước ra ngoài, trèo lên thang nối dây ăng ten bị đứt, và chiếc đài lại nghe được.
Nhưng có gì đâu mà nghe? Thời buổi bây giờ các làn sóng âm thanh chập vào nhau quá nhiều đến nỗi âm nhạc không thể nào phát tử tế được. Tôi nghe bài Một người Mỹ ở Paris rồi ngủ đi lúc nào không biết, lúc tỉnh dậy chỉ còn nghe thấy tiếng tít tít dồn dập. Tiếng ở đâu phát ra? Từ một con tàu trên biển chăng? Từ con tàu cổ lỗ nào chạy bằng hơi nước đang rẽ sóng giữa vịnh Walvis với đảo Ascencion chăng? Tiếng mã Morse đánh không nhanh, cũng không chậm, cứ đánh mãi trên biển cho đến chiều tối chăng? Họ phát thông điệp gì thế nhỉ? Nhưng điều đó có gì quan trọng đâu? Tiếng tí tách như mưa, mưa có ý nghĩa, an ủi tôi, giúp tôi nằm yên dễ chịu, chờ thời gian trôi đi, cho đến lúc tôi uống viên thuốc ngủ nữa.

Mẹ bảo mẹ không muốn ai bắt mẹ phải ngủ. Sự thật là mẹ không chịu nổi nếu như không được ngủ. Ít ra thuốc Diconal cũng làm mẹ ngủ được hoặc giả như ngủ. Cái đau giảm bớt, thời gian trôi nhanh, chân trời hé mở, mẹ tập trung chú ý, như mảnh chai cứa vào người cho nỗi đau dịu đi một lát, để mẹ có thể nín thở, xòe tay, duỗi chân. Mẹ tự nhủ phải cám ơn giây phút đã giúp cho thân thể mẹ vô tri vô giác, tâm hồn mộng mị, nửa người mẹ thóat ra ngoài để bắt đầu bồng bềnh trôi.
Nhưng khoảng thời gian trì hoãn ấy không bao giờ kéo dài. Đám mây laị kéo đến trùm lên đầu, ý nghĩ rối rắm, mẹ lại rơi vào cuộc sống dầy đặc đám ruồi nhặng điên dại. Mẹ lắc đầu, muốn xua đuổi chúng đi. Mẹ giơ tay, mở to mắt nhìn những đường gân xanh trên đôi bàn tay, nhìn tấm khăn phủ giường, rồi quật xuống nhanh như chớp. Mẹ chợt thiếp đi, chợt tỉnh lại nhìn bàn tay mình. Giữa những khoảnh khắc ấy, có lẽ một gìờ đã trôi đi trong nháy mắt, mẹ chẳng biết gì hết, vật lộn với một thứ gì dầy và đặc quánh trong miệng làm mẹ cứng lưỡi, như mẹ vừa từ đáy biển nhoi lên mặt nước, lắc đầu. Cổ họng chát đắng mùi diêm sinh, mẹ tự nhủ, có lẽ mình điên mất rồi! Vị đắng ấy làm mẹ điên mất rồi!
Đã có lần mẹ đứng nhìn bức tường, tay mẹ cầm bút chì, đầu vót nhọn. Các chữ trên tường dạng chân, nhảy múa, chẳng có nghĩa gì, như chữ của mẹ hoặc ai đó trong mẹ.
Mẹ gọi cho bác sĩ Syfret nói “Hình như thuốc Diconal ngày càng có nhiều phản ứng xấu. Tôi muốn hỏi xem ông có thể kê thứ thuốc gì khác cho tôi được không? ”
Bác sĩ Syfret đáp “Tôi không biết là bà vẫn tự coi mình như bệnh nhân của tôi. Bà nên vào bệnh viện cho họ săn sóc tốt hơn. Tôi không thể tiến hành giải phẫu trên điện thoại được”.
Mẹ nói “Tôi chỉ hỏi ông thế thôi. Thuốc Diconal làm tôi luôn luôn mê sảng. Liệu tôi có thể dùng thuốc nào khác được không?”
–         Tôi đã bảo không thể chữa trị nếu không trực tiếp gặp bà. Tôi không làm việc kiểu đó, các đồng nghiệp của tôi cũng không làm kiểu đó.
Mẹ im lặng rất lâu khiến ông ta có thể tưởng đã mất mẹ rồi. Thực ra mẹ chỉ phân vân thôi. Con hiểu không? Mẹ muốn nói: tôi mệt lắm, mệt muốn chết. In manus tuas: ông hãy nhận tôi và săn sóc cho tôi, nếu không được thì tuỳ ông xem có cách nào tốt nhất vậy.
Mẹ nói “Tôi xin hỏi ông câu nữa. Loại phản ứng như ở tôi, những người khác cũng có phản ứng như thế không?”
–         Bệnh nhân phản ứng rằng nhiều cách khác nhau. Đúng đấy, rất có thể phản ứng ở bà là do thuốc Diconal.
Mẹ nói “Vậy nếu có dịp nào thay tim, tôi nhờ ông gọi điện kê cho tôi một đơn thuốc mới qua hiệu thuốc Avalon trên phố Mill nhé. Bác sĩ ạ, tôi không ảo tưởng về tình trạng của tôi đâu. Tôi không cần chăm sóc, chỉ cần giúp tôi đỡ đau thôi”.
–         Bà Curren, nếu bà thay đổi ý kiến và muốn gặp tôi, bà chỉ việc nhấc điện thoại là xong, ngày hay đêm cũng được.
Một giờ sau có chuông reo ngoài cửa. Người của hiệu thuốc đem đơn mới đến cho mẹ, thuốc dùng trong mười bốn ngày.
Mẹ gọi hiệu thuốc hỏi “Tylox có phải là thuốc mạnh nhất không?”
–         Nghĩa là sao?
–         Ý tôi muốn hỏi đó có phải là thứ thuốc cuối cùng không?
–         Bà Curren, chẳng có loại thuốc nào như thế. Không có thuốc nào là đầu, thuốc nào là cuối.
Mẹ dùng hai viên thuốc mới. Cơn đau bỗng tan đi một cách kỳ diệu, mẹ hưng phấnó, có cảm giác như được sống lại. Mẹ tắm, ngồi vào giường, định đọc sách nhưng rồi ngủ thiếp đi. Một giờ sau mẹ tỉnh. Cơn đau lại dần dần bò đến, làm mẹ buồn nôn và lại thấy xuất hiện bóng dáng quen thuộc của sự buồn nản.
Thuốc trị đau chỉ là tia sáng chốc lát rồi bóng tối lại dầy đặc gâp đôi.
Vercueil bước vào.
Mẹ nói “Tôi đã uống thuốc mới nhưng chẳng thấy khá hơn chút nào. Có lẽ thuốc chỉ mạnh hơn một chút thôi”.
Vercueil nói “Bà cứ uống thêm đi. Không phải chờ bốn giờ sau mới uống nữa”.
Đúng là lời khuyên của một anh nghiện rượu.
Mẹ nói “Tôi sẽ uống. Nhưng lúc nào thích thì uống, mà uống tất cả một lúc cũng được chứ sao”.
Hai người im lặng.
Mẹ hỏi “Tại sao anh lại chọn tôi?”
–         Tôi đâu có chọn bà.
–         Tại sao anh đến đây, đến ngôi nhà này?
–         Nhà bà không có chó.
–         Gì nữa?
–         Tôi nghĩ bà sẽ không gây khó khăn.
–         Tôi đã gây khó khăn gì chưa?
Anh ta bước đến gần mẹ. Mặt anh ta sưng lên. Hơi thở anh ta có mùi rượu. Anh ta nói “Nếu bà muốn tôi giúp, tôi sẽ giúp”. Anh ta vươn người tới, tay nắm vào  cổ mẹ, ngón cái khẽ ân vào thanh quản, ba ngón khoằm ôm dưới tai. Mẹ khẽ nói “Đừng” và gạt tay anh ta ra. Mẹ rưng rưng nước mắt. Mẹ cầm tay anh ta đập vào ngực, như muốn than vãn, một cử chỉ xưa nay mẹ chưa từng làm.
Mẹ ngồi im một lúc. Anh ta vẫn ngả vào người mẹ, như muốn để mẹ sử dụng anh ta. Con chó sục mũi vào cạnh giường ngửi hai người.
Mẹ nói “Anh để con chó ngủ với tôi được không?”
–         Taị sao thế?
–         Cho ấm thôi.
–         Nó không chịu đâu. Tôi ngủ đâu nó ngủ đấy.
–         Vậy anh cũng ngủ đây đi.
Anh ta đi xuống nhà. Mẹ chờ lâu, uống viên thuốc nữa. Rồi đèn ở cầu thang tắt. Mẹ nghe anh ta cởi giày. Mẹ nói “Anh cũng bỏ cả mũ ra nữa, cho nó khác đi”.
Anh ta nằm lên trên khăn trải giường, dựa lưng vào mẹ. Mẹ ngửi thấy mùi chân bẩn. Anh ta khẽ huýt sáo. Con chó nhảy tới, xoay mình nằm vào chỗ giữa chân anh ta và chân mẹ. Y như cây gươm của Tristan, giữ cho hai người lương thiện.
Viên thuốc tỏ ra rất có hiệu lực. Suốt nửa giờ, trong khi anh ta và con chó ngủ, mẹ nằm im không động đậy, không thấy đau, tâm hồn tỉnh táo, nhanh nhậy. một luồng ánh sáng chạy qua trước mắt, mẹ thấy đứa bé Beauty được mẹ nó cõng trên lưng chạy đến, nhong nhong nhìn phía trước. Rồi ảo ảnh đó mờ đi, lại thấy một đám bụi, bụi Borodino, quay cuồng trước mắt như những bánh xe của thần chết.
Mẹ bật đèn. Lúc này đã nửa đêm.
Mẹ sẽ kéo màn che ngay bây giờ. Đây không thể có nghĩa một câu chuyện của thân thể, mà của tâm hồn chứa trong thân thể ấy. Mẹ sẽ không cho con thấy những gì con không chịu nổi, cảnh người đàn bà trong ngôi nhà cháy, chạy từ cửa sổ này sang cửa sổ khác, nhìn qua song cửa kêu cứu.
Vercueil và con chó ngủ rất yên bên cạnh những cơn thác buồn rầu đang đổ xuống. Những cơn thác trút hết tội, chờ cho tâm hồn  xuất hiện. Tâm hồn mới nhập đạo, ướt át, mù quáng, ngu dốt.
Bây giờ tôi mới biết tại sao anh ta không sử dụng được mấy ngón tay đó nữa. Đó là một tai nạn trên biển. Họ phải rời bỏ con tàu. Trong lúc vật lộn, tay anh ta bị kẹt trong dây tời và dập nát. Suốt đêm anh ta lênh đênh trên chiếc bè với bảy người khác và một chú bé, chờ chết. Hôm sau họ được một chiếc tàu kéo của Nga đến cứu, và tay anh ta cũng được chữa chạy nhưng lúc đó đã quá muộn.
Tôi hỏi “Anh có học được tiếng Nga nào không?”
Anh ta bảo chỉ nhớ được một từ kha ra sô.
–         Không ai nói gì đến Borodino à?
–         Tôi không nhớ đến Borodino.
–         Anh không tính ở lại với người Nga sao?
Anh ta nhìn tôi với vẻ khó hiểu.
Từ đó anh ta không bao giờ ra biển nữa.
Tôi hỏi “Anh có nhớ biển không?”
Anh ta đáp dứt khoát “Tôi không bao giờ đặt chân lên tàu nữa”.
–         Tại sao?
–         Vì tôi sẽ không may mắn nếu lần sau còn lên tàu.
–         Làm sao mà biết được chứ? Nếu anh tin ở mình thì có thể đi trên mặt nước được nữa kia. Anh không tin là có những điều tin tưởng thì làm được sao?
Anh ta im lặng.
–         Hoặc sẽ có một cơn lốc đến bốc anh lên khỏi mặt nước và đặt anh xuống đất khô ráo. Còn có cá heo nữa. Cá heo cứu thuỷ thủ sắp chết đuối, phải thế không? Tại sao anh không trở thành thuỷ thủ được?
–         Chẳng bao giờ nghĩ trước hay biết trước được đâu.
Tôi khẽ bấm vào ngón tay đeo nhẫn “Anh có cảm thấy gì không?”
–         Không, các đường gân tê liệt cả rồi.
Tôi vẫn biết anh ta có chuyện để nói, và bây giờ anh ta bắt đầu nói ra bằng những ngón của một bên tay. Chuyện của người đi biển. Tôi có tin được không? Tin hay không cũng chẳng sao. Chẳng có điều nói dối nào mà không có chút thật trong đó. Chỉ cần nghe như thế nào thôi.
Anh ta cũng đã làm việc trên bến, bốc vác hàng. Anh ta nói có một hôm bốc hàng ở cần cẩu anh ta bỗng ngửi thấy mùi gì, mở ra thấy có một xác người, hoá ra người đó trốn vào đấy và chết đói.
Tôi hỏi “Người đó từ đâu đến?”
–         Trung Quốc. Ở xa lắm.
Anh ta cũng đã làm việc cho Hội bảo vệ súc vật, trông cũi chó.
–         Vì thế mà anh thích chó ư?
–         Tôi vẫn thích chó.
–         Anh có con chó nào để thay cho trẻ không?
Anh ta chỉ ậm ừ, không nói rõ. Trước đây anh ta thường lựa xem câu nào tôi hỏi là đáng nghe, câu nào không đáng nghe.
Tuy nhiên, tôi dần dần chắp lại câu chuyện một cuộc đời cũng đen tối như bất cứ cuộc đời nào khác trên trái đất này. Tôi không hiểu rồi sau khi kết thúc giai đoạn với một bà già trong ngôi nhà rộng lớn này, anh ta sẽ còn gặp chuyện gì khác nữa? Một bàn tay anh ta bị co quắp, không thể làm việc bình thường được.Kỹ năng kéo dây của một thuỷ thủ cũng mất rồi. Không còn thông thạo được như người khác. Quãng đời dang dở của anh ta không có người vợ bên cạnh. Đơn độc. Stoksiealleen. Một cây que trên cánh đồng hoang. Một tâm hồn lẻ loi, cô đơn. Ai sẽ chăm sóc cho anh ta đây?
–         Sau khi tôi đi rồi, anh sẽ làm gì?
–         Tôi tiếp tục sống.
–         Chắc chắn là thế rồi, nhưng sẽ có ai trong đời anh nữa?
Anh ta mỉm cười khiêm tốn. “Tôi cần có ai trong đời nữa sao?”
Không phải một câu đáp mà là một câu hỏi thật sự. Anh ta không biết nữa. Chính anh ta, một con người thô sơ, đang hỏi tôi như thế.
–         Phải. Tôi nghĩ anh cần có một người vợ, nếu anh không cho ý kiến đó là lập dị. Ngay cả người đàn bà anh đã đưa về đây, nếu như trong lòng anh còn nghĩ đến chị ta.
Anh ta lắc đầu.
“Nhưng thôi, tôi không nói chuyện anh lấy vợ đâu, mà nói chuyện khác cơ. Tôi hứa sẽ chăm sóc anh, trừ khi tôi không biết sau khi chết có thể làm gì được. Có lẽ không làm gì được đâu, hoặc có cũng rất ít. Mọi việc ở đây đều có luật lệ của nó, dù người ta mong muốn thế nào cũng chưa chắc có thể thoát khỏi. Không ai được phép có chuyện bí mật hoặc kín đáo theo dõi. Vậy chẳng có cách nào giữ được một khoảng riêng tư trong lòng mình hay trong lòng bất cứ ai. Mọi thứ có thể bị xóa sạch, không chừa một thứ gì. Ý nghĩ đó thật ghê sợ. Đủ ghê sợ để người ta phải nổi loạn, để nói rằng nếu mọi sự phải như vậy thì tôi thà rút đi còn hơn. Đây, tôi trả lại tấm vé đây. Nhưng tôi e rằng ngay cả việc trả lại tấm vé cũng không được phép, dù với lý do nào.
“Vì thế anh không nên sống cô đơn, mà tôi thì có thể sẽ đi hẳn.”
Anh ta ngồi trên giường quay lưng về phía tôi. Anh ta cúi xuống vuốt ve con chó đang dựa vào đầu gối.
–         Anh hiểu tôi nói gì không?
Anh ta ậm ừ trong miệng, một thứ ậm ừ có thể là đồng ý nhưng thật ra chẳng có nghĩa gì.
–         Không, anh không hiểu đâu. Anh chẳng hiểu gì hết. Không phải triển vọng cô đơn của anh làm tôi lo sợ, mà chính là triển vọng của tôi.
Mỗi ngày anh ta đều ra ngoài mua hàng. Tối đến nấu ăn, rồi lảng vảng theo dõi xem tôi có ăn được không. Tôi chẳng bao giờ thấy đói, nhưng không dám nói thẳng cho anh ta biết. Tôi chỉ nhẹ nhàng bảo “Anh cứ đứng nhìn thế tôi không ăn được”, rồi cất đi một chỗ sau đó cho con chó.
Món anh ta thích làm nhất là bánh mì trắng rán với trứng và cá ngừ, đổ sốt cà chua lên trên. Tôi nghĩ bụng gía mình biết trước thì đã dạy anh ta vài bài học về nấu nướng.
Tuy anh ta có cả ngôi nhà để muốn ngồi đâu thì ngồi, nhưng thực tế anh ta sống với tôi trong phòng. Anh ta vứt túi không và giấy gói ra sàn. Giấy viết tung toé đầy nhà như những bóng ma. Tôi kêu “Anh vứt rác ra ngoài đi”. Anh ta hứa “Tôi sẽ vứt”. Nhưng có lúc anh ta vứt, có lúc để lại càng nhiều hơn.
Chúng tôi cùng nằm chung một giường, như trang giấy gập đôi, như hai mảnh đời chập vào nhau, như những bạn cũ cùng phòng, cùng giường tầng, hợp lại như vợ chồng. Lectus genialis, lectus adversus. Mỗi khi bỏ giày ra, trông móng chân anh ta như sừng màu vàng gần thành nâu. Anh ta không dám thò chân xuống nước, chỉ sợ ngã và rơi vào những khoảng sâu thẳm không thở được. Một sinh vật trên cạn, sinh vật của không khí, như những con châu chấu ma trong chuyện của Shakespeare với cẳng dài cứng của con dế và móng như mạng nhện. Hàng đàn những con đó theo gió kéo nhau ra biển, xa đất liền, rồi mệt mỏi bám vào nhau chết đuối trên Đại Tây Dương. Chúng bị nuốt hết, không còn một mống. Những đôi cánh gãy trên biển thở dài như một rừng lá, hàng triệu con mắt lờ đờ nhìn đám cua bò chung quanh, bám vào chúng và nhai ngâu nghiến.
Anh ta ngáy.
Mẹ nằm bên người chồng tưởng tượng để viết cho con đây. Con tha lỗi cho mẹ nếu hình ảnh đó khiến cho con giận mẹ. Người ta phải yêu cái gì gần mình nhất. Phải yêu cái gì nắm lấy được, như con chó biết yêu vậy.
Bà V.

Ngày 23 tháng Chín, ngày mặt trời đi qua đường phân điểm. Mưa tầm tã từ bầu trời đã che kín núi non, bầu trời xuống thấp đến mức có thể cầm cán chổi mà đụng tới được. Có tiếng thình thịch như một bàn tay to bằng nước đập trên nóc nhà, vỗ vào mái ngói, vào những ống máng dã hết hồi âm, nghe bì bì như không khí biến thành nước.
Vercueil hỏi “Cái gì thế này nhỉ?”
Anh ta cầm chiếc hộp gỗ nhỏ màu hồng có nắp bản lề. Mở nắp thì trong hộp hiện ra một chàng thanh niên tóc dài mặc bộ đồ kiểu cũ. Xoay góc khác thì hình ấy lại biến thành những vệt sáng bạc dưới mặt kính.
–         Đó là tấm ảnh ngày xưa, từ hồi chưa có ảnh.
–         Ai thế?
–         Tôi không rõ. Có thể đó là anh em gì đó của ông tôi.
–         Nhà bà như viện bảo tàng ấy nhỉ.
(Anh ta đã vào những phòng cảnh sát đột nhập).
–         Trong bảo tàng thì các đồ vật đều có nhãn. Đây là bảo tàng mà nhãn đà rơi đâu mất. Một bảo tàng mục nát. Một bảo tàng phải đưa vào bảo tàng.
–         Nếu bà không cần nữa thì bán đi.
–         Nếu anh muốn thì bán đi. Bán cả tôi nữa.
–         Để làm gì?
–         Để lấy xương, lấy tóc. Bán cả răng của tôi nữa. Trừ phi anh cho là tôi chẳng còn đáng gì hết. Rất tiếc là chúng ta không có chiếc xe trẻ con thường dùng để đẩy người đi. Anh có thể đẩy tôi xuống Đại lộ, hoặc đem tôi đến một chỗ tối, thí dụ đống rác và vứt tôi ở đó.
Mỗi khi muốn hút thuốc, anh ta thường ra ngoài hiên. Bây giờ anh ta hút ngay ở đầu cầu thang, để khói thuốc bay vào phòng. Tôi không thể chịu được. Nhưng bây giờ đã đến lúc phải quen dần với những gì tôi không chịu được.
Anh ta bước đến nhìn tôi giặt đồ lót trong chậu. Tôi đau người, không cúi xuống được. Chắc anh ta thấy ngứa mắt, bảo “Để tôi giặt cho”. Tôi từ chối. Giặt xong tôi không với tay đến dây phơi. Anh ta phơi hộ tôi, phơi đồ lót của một bà già. Anh ta có vẻ buồn bã, chẳng nhiệt tình chút nào.
Cái đau trong người tôi mỗi lúc một dữ dội, tôi rùng mình, tái mặt, mồ hôi lạnh lã chã. Có lúc anh ta cầm lấy tay tôi. Tôi giẫy giụa trong tay anh ta như con cá cắn câu. Tôi biết lúc đó trông bộ dạng tôi thật xấu, bộ dạng thường có ở người đang say mê làm tình, tàn nhẫn và lợi dụng. Anh ta không thích nhìn cái vẻ đó, quay mặt đi. Còn tôi, tôi nghĩ cứ để anh ta nhìn cho biết như thế là thế nào.
Anh ta có con dao trong túi. Không phải loại dao gấp mà lưỡi dao có đầu nhọn bọc vỏ cây. Lúc nằm trên giường, anh ta để con dao cùng với tiền bên cạnh, trên mặt sàn.
Vậy là tôi được bảo vệ. Tử thần sẽ phải suy nghĩ trước khi định bước qua con chó và con người này.
Anh ta hỏi “La tinh là cái gì?”
Tôi đáp, đó là thứ ngôn ngữ đã chết rồi, chỉ người chết mới dùng ngôn ngữ ấy.
Anh ta nói “Thật thế à?” Xem ra anh ta  có vẻ thích thú.
Tôi nói “Thật thế đấy. Hiện nay ngôn ngữ ấy chỉ dùng ở những cuộc tang lễ. Tang lễ và những đám cưới vớ vẩn”.
–         Bà thử nói xem.
Tôi đọc một đoạn Virgil, đoạn dành cho những người chết không được nhắm mắt:
Nec ripas datur horrendas et rauca fluenta
Transprotare prius quam sedibus ossa quierunt.
Centum errant annos volitantque havec littora cirum:
Tum demum admissi stagna exoptata revisunt.
Anh ta hỏi “Thế nghĩa là gì?”
–         Nghĩa là nếu anh không đem thư gửi cho con gái tôi, tôi sẽ phải sống khổ một trăm năm nữa.
–         Không thể thế được.
–         Được chứ. Ossa là từ trong nhật ký. Tức là những ngày mà cuộc đời mình đã được ghi trong đó.
Rồi anh ta lại nói “Bà đọc la tinh nữa đi”. Tôi đọc, thấy anh ta nghe và môi cũng mấp máy theo. Tôi đoán anh ta muốn thuộc. Nhưng không phải thế. Đó chỉ là những âm tiết dài ngắn tác động đến mạch máu và cổ họng của anh ta thôi.
–         Bà dạy những thứ đó à? Nghề của bà đó à?
–         Phải, nghề của tôi đấy. Tôi sống bằng nghề đó. Đem tiếng nói cho người chết.
–         Vậy ai trả lương cho bà?
–         Những người đóng thuế. Nhân dân Nam Phi, cả lớn lẫn bé.
–         Bà dạy tôi được không?
–         Tôi có thể dạy anh. Dạy phần lớn những từ La mã thôi, còn Hy lạp thì tôi không chắc lắm. Tôi còn có thể dạy được, nhưng sẽ chẳng có thì giờ mà học hết đâu.
Tôi có thể thấy anh ta khoái chí.
Tôi nói “Học la tinh anh sẽ thấy rất dễ. Có thể nhớ được nhiều”.
Lại một thách thức nữa, một sự thân mật nữa mà tôi biết. Tôi như người dàn bà với một anh chồng có nhân tình đang giấu giếm, mắng mỏ anh ta, buộc anh ta phải chung thuỷ. Nhưng tôi nói anh ta không thèm để tai. Anh ta chẳng giấu giếm gì hết. Cái dốt của anh ta là có thật. Dốt và ngây thơ
Tôi bảo “Sao không thấy anh nói gì thế nhỉ? Anh cứ nói xem những lời vừa rồi đưa anh đến đâu?”
Nhưng anh ta đang ở ngưỡng cửa, không bước qua được. Anh ta đứng chững lại, không nói gì, nheo mắt và nấp sau làn khói thuốc lá để tôi không nhìn thấy.
Con chó chạy quanh anh ta rồi chạy đến chỗ tôi, rồi chạy đi, không chịu ngồi yên một chỗ.
Chả có lý người được phái đi là con chó, chứ không phải anh ta?
Mẹ nghĩ con sẽ chẳng bao giờ được gặp anh ta đâu.
Mẹ muốn gởi cho con một tấm ảnh nhưng lần trước máy ảnh đã bị chúng lấy trộm rồi. Dù sao anh ta cũng không phải thứ người ăn ảnh. Mẹ đã nhìn ảnh anh ta trên thẻ chứng minh. Trông như một tên tù vừa ra khỏi bóng tối nhà giam, bị đẩy vào căn buồng sáng chưng, bắt đứng dựa vào tường, nghe họ quát bảo phải đứng nghiêm. Tấm ảnh như họ bức hiếp anh ta phải chụp.
Anh ta giống như một trong những sinh vật nửa huyền thoại, xuất hiện mờ ảo, hình dáng mơ hồ biến trong bụi rậm, có thể đó là người hay thú, hoặc chỉ là chấm bẩn trong thuốc tráng phim, không được chứng minh, không được chứng nhận. Hoặc nằm ở bên lề tấm hình, trong bẫy kẹp của cánh tay, hay cẳng chân, hoặc sau gáy.
Mẹ hỏi anh ta “Anh có muốn sang Mỹ không?”
–         Tại sao?
–         Để đem thư của con tôi đi. Đáng lẽ gửi bưu điện, anh có thể đích thân mang đi. Bay sang Mỹ rồi bay về. Sẽ chỉ như một cuộc phiêu lưu thôi. Còn hơn đi tàu thuỷ. Con gái tôi sẽ gặp anh, chăm nom anh. Tôi sẽ mua vé trước. Anh đi được không?
Anh ta cười hô hố. Mẹ biết có những câu nói đùa ccmẹ đã đánh trúng tâm lý anh ta.
Mẹ bảo “Tôi nói thật đấy”.
Nhưng sự thật đó không phải một đề nghị nghiêm túc. Mẹ hình dung Vercueil với đầu tóc cắt ngắn, mặc quần áo rẻ tiền, ngồi láng cháng ở phòng khách nhà con, chỉ muốn uống rượu nhưng ngại không dám đòi, còn con thì ở phòng bên, trẻ con đang ngủ, chồng đang ngủ, ngồi nghiền ngẫm bức thư như một lời thú tội điên rồ này, mẹ không dám nghĩ đến chuyện đó. Con sẽ nghiến răng nói Tôi không cần bức thư này! Tôi đã phải sáng đây để trốn tránh những chuyện đó, tại sao nó còn tôi sang đây chứ?
Mẹ vẫn còn thì giờ mở xem những tấm ảnh mấy năm qua con gởi từ Mỹ về. Mẹ thấy hình như con bấm máy trên một cái nền lộn xộn. Thí dụ mặt mũi hai đứa trẻ ngồi trong xuồng máy lẫn với sóng gợn trên mặt hồ và màu xanh của lá cây linh sam lẫn màu da cam của những chiếc áo phao chúng mặc vào người, y như nước và những thứ khác đều cùng một màu. Mẹ nhìn màu sắc sán lạn trong ảnh mà mê người, tưởng như ảnh có chất cao su hoặc nhựa, sờ vào thấy ran rát. Không hiểu tại sao những vật liệu xa lạ với mẹ ấy, có lẽ xa lạ với cả loài người, được chế tạo, thổi hơi và đeo vào người hai đứa trẻ, gợi cho mẹ nghĩ rất nhiều về cái thế giới con đang sống, và tại sao tinh thần mẹ suy sụp khi nhìn thấy thế? Mẹ không biết nữa. Nhưng vì những điều mẹ viết đây thỉnh thoảng đưa mẹ từ chỗ không biết gì đến chỗ bắt đầu biết được, phải nói là mẹ mất hết can đảm, không dám nghĩ rằng những đứa trẻ của con sẽ chẳng bao giờ chết đuối. Với những hồ nước ấy, ở vùng đất nhiều sông hồ ấy, chẳng may xuồng bị lật thì những chiếc áo phao có cánh màu da cam giúp cho mấy đứa trẻ của con nổi bồng bềnh trên mặt nước, rồi sẽ có xuồng máy đến kéo chúng lên, và mọi thứ sẽ trở lại bình thường.
Sau tấm ảnh con ghi đó là khu giải trí. Mặt hồ và rừng cây được kiểm soát và đặt tên lại.
Con bảo sẽ không có thêm con nữa. Giới hạn tuổi để có con sắp hết. Hai đứa trẻ ấy như hạt giống được gieo trong gió tuyết Mỹ sẽ chẳng bao giờ chết đuối, tuổi thọ của chúng sẽ là bảy mươi lăm và có thể nhiều hơn nữa. Ngay mẹ đây, sống ở vùng biển mà nước đã nuốt chửng cả những người lớn, mỗi năm tuổi thọ càng giảm đi, thế mà mẹ còn có cái chết không được sáng tỏ. Huống chi hai đứa trẻ của con, thua kém về quyền lợi so với mọi người, bơi lội ở khu giải trí đó hỏi còn hy vọng gì? Chúng sẽ chết ở tuổi bảy mươi lăm hay tám mươi lăm trong tình trạng ngu ngốc như khi chúng ra đời thôi.
Chẳng lẽ mẹ mong cho hai đứa cháu mình chết hay sao? Lúc này đây, giở những trang thư con có cảm thấy ghê tởm không? Con có kêu lên rằng bà già này điên rồ không?
Chúng không phải là cháu mẹ. Chúng quá xa vời, không thể là cháu của mẹ ở bất cứ dạng nào. Mẹ không để lại sau một gia đình đông con. Chỉ một đứa con gái, một người mới kết thân và một con chó.
Mẹ hoàn toàn không mong muốn họ chết. Cuộc đời của hai đứa trẻ đã gạt bỏ mẹ dù sao cũng coi như chết rồi. Không đâu, mẹ mong cho những đứa trẻ của con sống. Nhưng những chiếc áo phao con đeo vào cho chúng sẽ không đảm bảo cho chúng sống được. Cuộc sống chỉ là cát bụi dính vào kẽ chân. Cuộc sống là cát bụi dính vào răng lợi. Cuộc sống là ăn phải cát bụi.
Hoặc cuộc sống đang chết đuối. Rơi xuống nước, rơi xuống sàn.

Thời gian của mẹ đã gần hết. Mẹ sẽ phải nhờ đến sự giúp đỡ của những gì là gần gũi nhất. Đã đến lúc phải kết thúc câu chuyện buồn này thôi. Không phải mẹ nghi ngờ sự giúp đỡ của Vercueil. Đã đến lúc cuối rồi, mẹ chẳng còn nghi ngờ gì anh ta nữa. Trong anh ta vẫn còn lảng vảng một chút lo lắng cho mẹ, điều mà anh ta không thốt ra được. Mẹ đã ngã xuống và anh ta đã kịp đỡ mẹ. Khi đến đây, không phải anh ta ngã mà được mẹ nâng đỡ đâu. Bây giờ thì mẹ hiểu không phải mẹ ngã và anh ta nâng đỡ, mà cả hai cùng ngã vào nhau, lảo đảo đứng dậy và từ đó đã tin cậy nhau.
Tuy thế mẹ có thể tưởng tượng còn lâu anh ta mới là y tá, là vú nuôi, là người nuôi mẹ. Người anh ta khô cạn. Rượu anh ta uống không phải nước mà là lửa. Có lẽ vì thế mà mẹ không thể tưởng tượng anh ta có con, vì tinh trùng của anh ta khô, có màu nâu như của nhuỵ hoa hoặc cát bụ ở cái xứ sở này.
Mẹ cần anh ta có mặt, an ủi, giúp đỡ, nhưng anh ta cũng cần mẹ giúp. Anh ta cần cái thứ chỉ người đàn bà mới cho đàn ông được. Không phải quyến rũ mà là quy nạp. Anh ta không biết yêu là thế nào. Mẹ không nói đến những chuyển động của linh hồn mà một cái gì đơn giản hơn. Anh ta không biết yêu, cũng như đứa trẻ chẳng biết yêu là thế nào. Không biết đâu là khóa kéo, là nút khuy. Không biết cái gì sẽ đi đến đâu. Không biết làm như thể nào và phải làm cái gì.
Càng gần đến lúc kết thúc, anh ta càng tỏ ra trung thực hơn. Tuy vậy mẹ vẫn phải cầm tay anh ta để chỉ chỗ.
Mẹ nhớ hôm mẹ và anh ta cùng ngồi trong xe, anh ta đưa hộp diêm và bảo mẹ làm đi. Mẹ rất phẫn nộ. Nhưng như thế thì mẹ đâu có công bằng với anh ta? Hình như  bây giờ anh ta đã quan niệm rõ về cái chết hơn một cô gái đồng trinh quan niệm về tình dục. Cũng vẫn là tò mò như nhau thôi. Cái tò mò của một con chó ngửi vào bẹn nó, vẫy đuôi, rồi thè cái lưỡi đỏ và ngu ngốc như dương vật.
Hôm qua anh ta giúp mẹ đi tắm, áo mẹ tuột ra và mẹ bắt gặp anh ta nhìn chòng chọc. Y như bọn trẻ trên phố Mill vậy, cái nhìn của anh ta chẳng có gì là đứng đắn. Đứng đắn là điều không thể giải thích được, là cái nền cho mọi đạo lý là điều mà ta không thể làm. Ta không chăm chú nhìn lúc linh hồn rời khỏi thể xác, vì nước mắt đã che mờ hoặc ta che mắt bằng tay. Ta không chăm chú nhìn những vết sẹo đã khép kín, đã khâu kín, nơi mà linh hồn cố sức bỏ đi nhưng rồi buộc phải trở lại.
Mẹ hỏi anh ta  cho mèo ăn chưa. Anh ta  bảo “Rồi” nhưng là nói dối. Vì đám mèo đã bị anh ta đuổi đi hết. Mẹ cần gì đâu? Không, mẹ chẳng cần gì nữa. Sau khi đã chăm sóc cho con, chăm sóc anh ta, trong lòng mẹ chẳng còn bất cứ gì. Như người ta thường nói, còn gì thì cũng tiêu ma hết.
Đêm qua, tự nhiên lạnh ghê gớm, mẹ định gọi con để từ biệt. Nhưng mẹ biết con sẽ không đến. Mẹ thầm nhắc tên con “con gái ơi, con của mẹ ơi”. Mẹ thầm gọi trong bóng tối, nhưng tất cả chỉ thể hiện trong ánh sáng, tấm ảnh con mà không phải con. Mẹ nghĩ bụng thế là cắt đứt hết rồi, ngay cả thời gian cũng cắt đứt rồi. Bây giờ không còn gì giữ mẹ lại được nữa.
Nhưng mẹ lại ngủ thiếp, rồi tỉnh dậy, mẹ vẫn còn đây, sáng nay rất mạnh khoẻ. Có lẽ không phải mẹ gọi con đâu. Có lẽ mẹ lạnh vì nghe bên kia biển gọi mẹ bước ra khỏi thân xác mà mẹ không biết đó thôi.
Con thấy không, mẹ vẫn còn tin ở tình yêu của con.
Mẹ sắp sửa cho con thoát khỏi những lời lẽ ràng buộc con đây. Con không cần phải thương mẹ. Con hãy dành chút suy nghĩ cho người đàn ông bị bỏ rơi này đi, anh ta không biết bơi, cũng chưa biết bay.
Mẹ ngủ, rồi tỉnh dậy trong cái lạnh, ruột gan mẹ, tim mẹ xương tủy mẹ, tất cả đều lạnh tóat. Cửa ra hiên mở toang, màn cửa tung bay trong gió.
Vercueil đứng ngoài hiên nhìn lá cây xào xạc. Mẹ sờ vào tay anh ta, sờ ngực, sờ vai, và khúc xương ở cột sống. Mẹ run lập cập, lên tiếng hỏi “Anh nhìn gì thế?”
Anh ta không trả lời. Mẹ đứng sát lại. Dưới kia là cả một khoảng tối, lá cây rung động, xào xạc, như trèo những nấc thang lên  bóng tối.
Mẹ hỏi “Đã đến lúc chưa?”
Mẹ quay vào giường, chui vào đống khăn lạnh tối om. Màn cửa mở, rồi anh ta đến nằm cạnh mẹ. Lần đầu tiên mẹ không ngửi thấy gì hết. Anh ta đưa tay ra ôm mẹ, giữ mẹ rất chặt, khiến mẹ thở dốc. Cái ôm đó chẳng có chút gì gọi là nồng ấm.

1986- 1989
HẾT

nguon : vnthuquan.net

04/05/2010

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG (ngày thứ bảy & hết ) – UMBERTO ECO

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 16:46

Người dịch : Đặng Thu Hương

NGÀY THỨ BẢY

ĐÊM

Nếu đề mục này phải tóm tắt
các tiết lộ phi thường của nội dung,
thì khác với thông lệ,
nó sẽ dài bằng chính chương này.

Chúng tôi đứng trên ngưỡng cửa của một phòng có hình thể tương tự như ba phòng bảy cạnh không cửa sổ kia, nồng nặc mùi mốc meo của sách ẩm ướt. Ngọn đèn dầu mà tôi giơ cao soi sáng vòm nhà trước tiên, và khi tôi đưa đèn từ phải sang trái thì ngọn lửa hắt ánh sáng mờ mờ lên các kệ sách đằng xa đặt dọc theo tường. Cuối cùng, ngay giữa phòng, chúng tôi thấy một cái bàn phủ đầy giấy tờ, đằng sau bàn có một người ngồi, nếu người ấy vẫn còn sống thì dường như đã ngồi bất động trong bóng tối, đợi chờ chúng tôi. Ngay trước khi ánh đèn soi sáng khuôn mặt người ấy, thầy William đã lên tiếng:
– Huynh Jorge kính mến, chúc Huynh một đêm vui. Huynh đang đợi chúng tôi à?
Khi chúng tôi tiến thêm vài bước thì ngọn đèn chiếu lên gương mặt lão già đang nhìn chúng tôi như thể thấy được. Lão hỏi:
– Sư Huynh William xứ Baskerville đấy hả? Tôi đã đợi Huynh từ trước lúc Kinh Chiều đến nay, từ lúc tôi vào giam mình ở đây. Tôi biết Huynh sẽ đến.
– Thế còn Tu viện trưởng? Có phải đó là người đập rầm rầm trong cầu thang bí mật không?
Jorge ngập ngừng một lát, đoạn hỏi: – Cha vẫn còn sống à? Tôi nghĩ Cha đã chết ngạt rồi.
– Trước khi chúng ta bắt đầu nói chuyện, tôi muốn cứu Cha. Huynh có thể mở từ máy trên này.
Jorge mệt mỏi nói:
– Không, không kịp nữa. Máy được điều khiển ở bên dưới, bằng cách nhấn vào tấm bảng; ở trên này, một đòn bẩy bật lên và mở cánh cửa sau cái kệ đằng kia. – Lão hất hàm về phía sau. – Kế bên cái kệ Huynh sẽ thấy một bánh xe với vài vật đối trọng để điều khiển bộ máy từ trên này. Nhưng khi tôi nghe tiếng bánh xe quay, dấu hiệu báo cho biết Cha Bề trên đã đến bên dưới, tôi giật mạnh sợi dây thừng giữa các vật đối trọng, và thừng đã đứt. Bây giờ hai đầu lối đi này đã bịt kín, Huynh sẽ chẳng bao giờ sửa được bộ máy cả. Tu viện trưởng đã chết.
– Tại sao Huynh lại giết Cha?
– Hôm nay, khi y gọi tôi đến, y bảo nhờ Huynh mà y khám phá mọi việc. Y vẫn chưa biết điều mà tôi hằng cố bảo vệ, y chẳng bao giờ hiểu chính xác những báu vật và cứu cánh của Thư viện. Y bảo tôi giải thích điều y chưa biết. Y muốn mở cửa “finis Africae”: Các tu sĩ Ý yêu cầu y chấm dứt cái mà họ gọi là sự bí ẩn do tôi và các bậc tiền bối của tôi nuôi sống. Lòng họ thôi thúc dục vọng muốn tìm biết những điều mới lạ…
– Huynh hẳn đã hứa với Cha sẽ đến đây và kết liễu mạng mình, như Huynh đã kết liễu mạng của những người kia một cách êm thấm để cứu vãn danh dự của tu viện và không ai biết điều gì cả. Rồi Huynh chỉ cho Cha cách đến đây và kiểm tra sau đó. Nhưng thay vì như vậy, Huynh đã đợi để giết Cha. Huynh không nghĩ Cha có thể vào bằng đường tấm gương à?
– Không, Tu viện trưởng trí quá hẹp. Y sẽ chẳng bao giờ tự mình giải được bí mật của câu thơ. Tôi bày cho y một lối đi khác mà chỉ mình tôi biết. Đó là lối đi tôi đã dùng hàng bao nhiêu năm nay, vì trong bóng tối nó dễ đi hơn. Tôi chỉ việc đến nhà thờ, rồi theo xương người chết đến cuối hành lang.
– Như thế Huynh đã dẫn dắt Cha đến đây, biết rằng mình sẽ giết Cha…
– Tôi không thể tin y nữa. Y đã hoảng loạn. Trước đây y nổi danh ở Fossanova vì đã xoay xở mang một cái xác xuống cầu thang trôn ốc. Một vinh quang không xứng đáng. Bây giờ y chết vì không lên nổi cầu thang của chính mình.
– Huynh đã dùng cầu thang đó bốn mươi năm nay rồi. Khi Huynh biết mình sẽ bị mù và không còn đủ khả năng điều khiển tu viện nữa, Huynh đã hành động rất khôn ngoan. Huynh dàn xếp để người ta bầu một người Huynh tin cẩn lên làm Tu viện trưởng. Thời còn là quản thư viện, Huynh đã đặt tên cho người ấy là Robert xứ Bobbio, người mà Huynh có thể điều khiển theo ý mình, rồi đến Malachi, người cần sự giúp đỡ của Huynh và chẳng bao giờ hành động mà không tham khảo ý kiến của Huynh. Bốn mươi năm nay Huynh là chủ của tu viện này. Nhóm tu sĩ Ý đã nhận thức được điều này, và Alinardo nhắc đi nhắc lại nó mãi, nhưng không ai chịu nghe già vì họ cho rằng bây giờ già đã điên rồi. Tôi nói đúng không? Nhưng Huynh vẫn đợi tôi và không thể bịt tấm cửa gương được vì máy mở đặt bên trong tường. Tại sao Huynh lại đợi tôi? Sao Huynh biết chắc tôi sẽ đến? – Thầy William hỏi, nhưng qua giọng nói, ta nhận rõ thầy đã đoán được câu trả lời, và mong nghe nó như phần thưởng cho tài suy đoán của mình.
– Ngay từ ngày đầu tiên, qua giọng nói của Huynh, qua cách Huynh lôi tôi vào việc tranh luận một đề tài mà tôi không muốn nhắc đến, tôi biết Huynh sẽ hiểu ra. Huynh giỏi hơn những người khác: bằng mọi cách Huynh sẽ tìm được giải đáp. Huynh biết chỉ cần suy nghĩ và hình dung lại suy nghĩ của người khác trong óc mình là đủ. Rồi tôi nghe Huynh đặt câu hỏi với các tu sĩ khác, tất cả câu Huynh hỏi đều đúng cả. Nhưng Huynh không bao giờ hỏi về thư viện, tựa như Huynh đã biết mọi bí mật của nó rồi vậy. Một đêm nọ, tôi đến gõ cửa phòng Huynh, nhưng Huynh không có bên trong. Huynh phải vào đây thôi. Tôi nghe một tôi tớ nói trong bếp mất hai cây đèn. Và cuối cùng hôm nọ, trong gian giữa nhà nguyện khi Severinus đến nói chuyện với Huynh về một quyển sách, tôi biết chắc Huynh đang bám theo dấu vết của tôi.
– Nhưng Huynh đã tìm cách tước quyển sách đó khỏi tay tôi. Huynh đến nói với Malachi, người chẳng hiểu gì về tình hình. Trong cơn ghen tức, tên ngốc ấy vẫn còn ám ảnh bởi ý nghĩ Adelmo đã cướp mất Berengar thân yêu của hắn vì Berengar khao khát xác thịt non trẻ hơn. Malachi không hiểu Severinus có liên quan gì đến việc này, và Huynh còn làm rối loạn suy nghĩ của hắn hơn nữa. Có lẽ Huynh bảo Malachi rằng Berengar đã thân mật với Severinus, và Berengar đã thưởng cho Severinus một quyển sách trong “finis Africae”. Tôi không biết chính xác Huynh đã nói với Malachi những gì. Điên lên vì ghen, Malachi đã giết Severinus, nhưng hắn không kịp săn tìm quyển sách Huynh đã miêu tả với hắn, vì quản hầm bước vào. Có phải mọi việc xảy ra như vậy không?
– Gần như vậy.
– Nhưng Huynh không muốn Malachi chết. Có lẽ hắn chưa bao giờ nhìn đến các quyển sách trong “finis Africae” vì hắn tin Huynh và tôn trọng lệnh cấm của Huynh. Hắn tự giới hạn trong nhiệm vụ mỗi đêm bỏ cây thuốc để đe dọa những kẻ lạ xâm nhập. Severinus cung cấp cho Malachi các loại cây thuốc này. Thế nên, hôm nọ Severinus mới để Malachi vào bệnh xá, đó là cuộc viếng thăm thường lệ của Malachi để thu các cây thuốc mới mà Severinus chuẩn bị hằng ngày theo lệnh của Tu viện trưởng. Tôi đoán đúng chăng?
– Huynh đã đoán đúng. Tôi không muốn Malachi chết. Tôi bảo hắn bằng mọi cách phải tìm lại quyển sách và mang nó đến đây, nhưng không được mở ra. Tôi bảo nó có sức mạnh bằng cả ngàn con bò cạp. Nhưng lần đầu tiên tên điên ấy làm theo ý mình. Tôi không muốn hắn chết vì hắn là kẻ trung thành. Nhưng chớ nhắc lại điều Huynh biết: tôi biết Huynh biết mà. Tôi không muốn Huynh thêm tự mãn, tự Huynh đã thế rồi. Sáng nay trong phòng thư tịch, tôi nghe Huynh hỏi Benno về “Bữa tiệc của Cyprian”. Huynh đã đến gần sự thật lắm. Tôi không biết bằng cách nào Huynh khám phá được bí mật của tấm gương, nhưng khi Tu viện trưởng bảo Huynh đã đề cập đến “finis Africae”, thì tôi biết chắc chẳng bao lâu nữa Huynh sẽ đến đây. Do đó, tôi ngồi đây đợi. Bây giờ, Huynh muốn gì nào?
– Tôi muốn xem bản viết cuối cùng trong quyển sách bốn bản, gồm một bản tiếng Ả-rập, một bản tiếng Xy-ri cổ, và một bản bình giảng hay bản sao “Bữa tiệc Cyprian”. Tôi muốn xem bản viết bằng tiếng Hy-lạp mà có lẽ do một người Ả-rập, hay một người Tây Ban Nha sao lại. Huynh đã tìm thấy bản này thời còn là phụ tá cho Paul xứ Rimini, Huynh đã dàn xếp để được phái về nước mình thu thập các bản hay nhất về sách Mặc Khải ở Léon và Castille. Số sách kiếm được này đã khiến Huynh nổi danh và cả tu viện kính trọng, giúp Huynh đoạt chức quản thư viện mà đáng lý thuộc về Alinardo, người lớn hơn Huynh mười tuổi. Tôi muốn xem bản sao bằng tiếng Hy-lạp viết trên giấy lụa, loại giấy thời đó rất hiếm, được sản xuất tại Silos, gần Burgos quê của Huynh. Tôi muốn xem quyển sách mà Huynh đã trộm ở đó. Sau khi đọc nó xong, để không ai được đọc nó nữa, Huynh đã giấu nó ở đây, bảo vệ nó rất khôn khéo mà không thủ tiêu nó, vì một người như Huynh không hủy sách mà chỉ canh giữ không để ai chạm vào nó. Tôi muốn xem tập hai tác phẩm “Thi ca” của Aristotle, quyển sách mà mọi người vẫn tin đã bị thất lạc, hay chưa bao giờ được viết ra, quyển sách mà có lẽ Huynh đang giữ độc bản.
– William, Huynh có thể trở thành một quản thư viện tuyệt vời biết bao! – Jorge nói, giọng vừa thán phục vừa tiếc nuối. – Thế là Huynh đã biết tất cả. Đến đây, tôi nghĩ có một cái ghế ở cạnh bàn, phía bên Huynh đó. Ngồi đi, phần thưởng của Huynh đấy.
Thầy William ngồi và đặt chiếc đèn tôi đã đưa cho thầy xuống, nó soi sáng khuôn mặt của Jorge từ dưới lên. Lão già cầm lấy quyển sách nằm trước mặt, đưa cho thầy William. Tôi nhận ra cái bìa của nó chính là quyển sách tôi đã mở ra xem trong bệnh xá mà lại ngỡ là một bản tiếng Ả-rập. Jorge bảo:
– Này William, đọc đi, giở nó xem đi. Huynh thắng rồi.
Thầy William nhìn quyển sách, nhưng không chạm vào nó. Thầy lôi trong áo dòng ra một đôi găng tay, không phải là đôi găng hở ngón thường dùng, mà là đôi Severinus đang đeo khi chết. Thầy chậm rãi mở cái bìa cũ mòn mỏng manh ra. Tôi đến sát hơn, chồm qua vai thầy để xem. Đôi tai thính của Jorge bắt được tiếng động do tôi gây ra, bèn nói: – Cậu bé cũng ở đây hả? Tôi cũng sẽ cho cậu xem… sau.
Thầy William liếc nhanh qua những trang đầu: – Theo thư mục thì đây là bản Ả-rập nói về lời nói của một kẻ ngu ngốc nào đó. Nó là gì vậy?
– Ồ, những truyền thuyết ngớ ngẩn của bọn vô thần, cho rằng bọn ngốc phát ra những nhận xét khôn ngoan khiến ngay cả các linh mục của họ cũng phải kinh ngạc, các vua Hồi phải khoái chí…
– Bản thứ hai bằng tiếng Xy-ri cổ, nhưng theo thư mục thì nó là bản dịch của một quyển sách nhỏ tiếng Ai-cập về nghệ thuật giả kim, sao nó lại ở trong bộ này?
– Đó là một tác phẩm Ai-cập từ thế kỷ thứ ba, trong thời đại chúng ta. Nó liên hệ với các tác phẩm theo sau, nhưng ít nguy hiểm hơn, không ai để tai nghe những lời lảm nhảm của một tên giả kim Châu Phi. Hắn qui việc tạo ra thế gian này cho tiếng cười thiêng liêng… – Lão ngước mặt lên đọc, với trí nhớ phi thường của một độc giả mà bốn mươi năm nay vẫn tự nhắc mình những điều đã đọc được khi còn sáng mắt: – Khi Chúa cười thì bảy vị thần cai quản thế gian được sinh ra. Khi Ngài bật cười thì ánh sáng hiện ra, Ngài cười tiếng thứ hai thì nước tuôn, Ngài cười đến ngày thứ bảy thì linh hồn xuất hiện… Điên rồ. Tác phẩm theo sau cũng vậy, nó do một trong vô số gã ngốc đặt cho mình nhiệm vụ trau chuốt “Bữa tiệc” viết… Nhưng chúng không phải là thứ Huynh chú ý đâu.
Thầy William thực ra đã giở nhanh các trang sách và lần đến bản tiếng Hy-Lạp. Tôi thấy ngay rằng các trang này làm bằng một loại giấy khác, mềm hơn, những trang đầu gần như cũ mèm, một phần lề đã bị hư hại, vấy những vết dơ mờ mà thời gian và ẩm mốc thường cũng gây cho các quyển sách khác. Thầy William đọc những dòng mở đầu, thoạt tiên bằng tiếng Hy-lạp, rồi thầy dịch ra tiếng La-tinh để tôi cũng có thể biết quyển sách tai hại ấy bắt đầu như thế nào.

Trong tập một, chúng tôi đã bàn về bi kịch và chứng minh bằng cách nào, nhờ khơi dậy sự thương hại và nỗi sợ hãi, nó phát sinh sự hồi hộp phấn chấn, sự thanh lọc các xúc cảm này. Như đã hứa, giờ đây chúng tôi sẽ bàn về hài kịch (cũng như về trào phúng và kịch câm), và chứng minh bằng cách nào, nhờ khơi dậy thú vui cười cợt, nó đạt đến được sự thanh lọc đam mê đó. Một đam mê như vậy đáng cho chúng ta quan tâm hàng đầu, chúng tôi đã nói như thế trong quyển sách về linh hồn, vì con người là sinh vật duy nhất có khả năng cười. Chúng tôi sẽ định nghĩa các loại hành động, trong đó hài kịch đóng vai trò ngụy trang, rồi chúng tôi sẽ xem xét các phương tiện mà hài kịch đã sử dụng để gây cười, và các phương tiện này là hành động và lời nói. Chúng tôi sẽ trình bày các hành động nực cười được phát sinh như thế nào từ việc so sánh cái tốt nhất với cái xấu nhất, hay ngược lại, từ việc gây ngạc nhiên như đánh lừa, từ điều không thể xảy ra, từ sự đảo lộn các qui luật tự nhiên, từ các lộn xộn, vẩn vơ, bất hợp lý, từ việc dung tục hóa các nhân vật, từ cách sử dụng các động tác câm hài hước và thô tục, từ sự bất hài hòa, từ việc chọn lựa những điều hèn kém nhất. Chúng tôi sẽ trình bày các lời nói nực cười được phát sinh như thế nào từ việc hiểu lầm các từ tương tự với các điều khác nhau, và các từ khác nhau với những điều tương tự, từ sự ba hoa và lập đi lập lại, từ cách chơi chữ, từ cách phát âm sai, và từ cách nói thô tục.
Thầy William dịch nó một cách khó khăn, vì phải chọn cho đúng chữ, và chốc chốc phải ngừng lại. Vừa dịch thầy vừa mỉm cười, tựa như tìm ra được điều mình mong đợi. Thầy đọc lớn trang đầu tiên, rồi ngưng lại, như thể không muốn biết thêm nữa, và lật nhanh qua các trang kế. Nhưng sau vài trang thầy khựng lại, vì có vài trang bị dính lại với nhau, ở rìa góc trên và phía đầu sách, như thường thấy khi các loại giấy ẩm mục hóa thành một thứ keo dinh dính. Jorge nghe tiếng giở sách rào rào đã ngưng lại, bèn giục thầy William:
– Tiếp chứ, đọc đi, giở sách đi. Sách của Huynh mà. Huynh đã đoạt được nó rồi.
Thầy William bật cười, nghe dường như thích thú – Huynh nghĩ tôi khôn ngoan là không đúng đâu, Jorge ạ! Huynh không thấy được tôi đang đeo găng. Với những ngón tay cục mịch vụng về như thế này, tôi không thể tách từng trang giấy ra được. Tôi phải để tay trần, thấm nước miếng, như tôi đã tình cờ làm sáng nay khi đọc sách trong phòng thư tịch, thế nên điều bí ẩn đó đột nhiên cũng trở nên dễ hiểu. Và tôi sẽ phải tiếp tục giở như thế cho đến khi một lượng lớn thuốc độc ngấm vào miệng. Tôi đang nói đến lượng thuốc độc mà một ngày xa xưa nọ, Huynh đã trộm trong phòng thí nghiệm của Severinus. Có lẽ lúc ấy Huynh đã thấy lo lắng, vì nghe ai đó trong phòng thư tịch tỏ ý tò mò, hoặc về “finis Africae”, hoặc về quyển sách thất lạc của Aristotle, hoặc là cả hai. Tôi tin Huynh đã cất ống thuốc độc đó một thời gian dài, định sử dụng nó vào lúc thấy nguy hiểm. Và Huynh đã thấy hiểm nguy đến vài ngày trước đây. Khi Venantius bàn quá gần đến đề tài của quyển sách, cùng lúc đó Berengar vô tâm, huênh hoang cố lòe Adelmo, tỏ ra không kín đáo như Huynh hằng hy vọng. Thế là Huynh đã giăng bẫy ra. Quả là kịp lúc, vì chỉ vài đêm sau đó, Venantius đã đột nhập vào trộm quyển sách, và gần như ngấu nghiến giở ra xem. Chẳng bao lâu sau, Huynh ấy thấy mệt bèn chạy xuống nhà bếp cầu cứu, và chết tại đó.Tôi có lầm không nhỉ?
– Không, tiếp đi.
– Phần còn lại rất đơn giản. Berengar tìm thấy xác của Venantius trong nhà bếp, sợ người ta sẽ điều tra lôi thôi, vì nói cho cùng, Venantius ban đêm đột nhập vào Đại Dinh là do nhờ Berengar trước đây đã tiết lộ bí mật cho Adelmo. Hắn không biết phải làm gì, bèn vác xác lên vai và ném nó vào vại máu, nghĩ rằng mọi người sẽ tin Venantius bị chết đuối.
– Thế Huynh làm cách nào biết được những sự việc xảy ra đó?
– Chính Huynh cũng biết rõ như tôi. Tôi nhận thấy phản ứng của Huynh, khi người ta tìm thấy mảnh vải vấy máu của Berengar. Tên ngốc đó đã dùng mảnh vải này để lau tay sau khi bỏ Venantius vào vại. Nhưng vì Berengar đã mất dạng, nên hắn chỉ có thể biến đi với quyển sách mà lúc đó đã khêu gợi óc tò mò của hắn. Huynh đợi người ta tìm ra xác Berengar ở đâu đó, không bị nhuốm máu mà là ngấm thuốc độc. Phần còn lại đã rõ ràng, vì Berengar đầu tiên đến bệnh xá để đọc sách, tránh xa các cặp mắt cú vọ. Malachi, bị Huynh xúi giục, vào giết Severinus, rồi quay lại đây và chết vì muốn khám phá điều cấm gì trong quyển sách đã khiến hắn thành một kẻ sát nhân. Như thế, chúng ta đã giải thích được tất cả mọi cái chết… Thật ngu quá…
– Ai ngu?
– Tôi. Vì nghe theo lời nhận xét của Alinardo nên tôi đã tin rằng loạt án mạng này là theo thứ tự của bảy hồi kèn trong sách Mặc Khải. Mưa đá cho Adelmo, và Huynh ấy đã tự tử chết. Máu cho Venantius, và do thế người ta đã có những ý tưởng kỳ quặc về cái chết của Berengar. Nước cho Berengar, thực ra đó chỉ là một hành động ngẫu nhiên. Phần thứ ba của trời xanh cho Severinus, và Malachi đã dùng lồng cầu để đập huynh ấy, vì đó là một vật duy nhất tiện tay Malachi lúc đó. Và cuối cùng là bọ cạp cho Malachi… tại sao Huynh lại bảo hắn là quyển sách có sức mạnh của ngàn con bọ cạp?
– Chính vì Huynh. Alinardo đã kể cho tôi ý tưởng về bảy hồi kèn, và tôi nghe ai đó bảo cả Huynh cũng thấy ý đó hữu lý… Tôi đâm tin rằng những cái chết này là do thiên định, và tôi không có trách nhiệm gì hết. Tôi đã bảo Malachi nếu hắn tò mò thì hắn sẽ bị tiêu diệt theo thiên mệnh, và hắn đã chết như thế.
– Như thế, thì… Tôi đã hình dung sai cách lý giải các bước hành động của tên tội phạm và hóa ra hắn đã làm trùng với cách đó. Cũng chính nhờ cách hình dung sai này mà tôi đã theo được dấu vết của Huynh. Thời nay ai cũng bị ám ảnh bởi quyển sách của Thánh John, nhưng dường như Huynh là người nghiên cứu nó kỹ nhất, nhưng điều đó không phải vì Huynh ngẫm nghĩ mãi về tên Phản Chúa, mà vì Huynh xuất xứ từ một đất nước sản sinh ra những quyển sách Mặc Khải đẹp nhất. Hôm nọ có người bảo tôi chính Huynh đã đem đến thư viện những bản viết tay sách Mặc khải đẹp nhất. Rồi một hôm khác, Alinardo nói lảm nhảm về một kẻ thù bí ẩn đã được phái đến Silos tìm sách, lòng hiếu kỳ của tôi nổi lên khi lão bảo kẻ thù này đã sớm quay về thế giới tối tăm: thoạt tiên có thể tưởng lão nói về một kẻ đã chết yểu, nhưng thực ra lão đang nói đến sự mù lòa của Huynh. Silos ở gần Burgos, và sáng hôm nay, tôi thấy trong thư mục một loạt các sách nhận được đều là sách Mặc khải Tây Ban Nha, trong thời gian Huynh đã hay sắp kế vị Paul xứ Rimini. Trong nhóm sách nhận được đó cũng có quyển sách này. Nhưng mãi đến khi tôi biết quyển sách này làm bằng giấy lụa thì tôi mới dám khẳng định lời giải thích của mình. Rồi tôi nhớ đến Silos, và biết chắc mình đúng. Dĩ nhiên, khi ý tưởng về quyển sách và độc chất giết người của nó dần dần hình thành thì cách suy diễn theo bảy hồi kèn Mặc khải bắt đầu sụp đổ, mặc dù tôi không hiểu tại sao cả hai đều hướng về Huynh. Nhưng tôi hiểu rõ câu chuyện về sách hơn, vì theo hướng của hồi kèn Mặc khải, tôi buộc phải nghĩ đến Huynh và cuộc tranh luận của Huynh về tiếng cười nhiều hơn. Do đó buổi tối nay, khi tôi không còn tin vào kèn Mặc khải nữa thì tôi vẫn quyết canh chừng chuồng ngựa, và trong chính nơi đó, hoàn toàn tình cờ, Adso đã trao cho tôi chìa khóa vào “finis Africae”.
Jorge bảo: – Tôi không hiểu được ý Huynh. Huynh hãnh diện trình bày cái cách Huynh đã suy luận để nắm được tôi, thế rồi Huynh lại bảo Huynh đến đây vì suy luận sai. Thế Huynh muốn nói gì với tôi?
– Không nói gì với Huynh cả. Tôi hơi bị hẫng, thế thôi. Nhưng điều đó chẳng quan trọng gì. Dẫu sao tôi đã đến đây.
– Chúa đang thổi bảy hồi kèn và Huynh, dù trong khi sai lầm, cũng đã nghe tiếng vọng rối loạn của âm ba đó.
– Huynh đã nói đến điều này trong bài giảng tối qua. Huynh cố thuyết phục mình rằng toàn bộ sự việc là do thiên định để che dấu sự kiện Huynh là kẻ sát nhân.
– Tôi chẳng giết ai cả. Mỗi người chết theo số phận tội lỗi của họ. Tôi chỉ là một công cụ.
– Hôm qua Huynh bảo Judas cũng là một công cụ. Điều đó không ngăn hắn khỏi bị đọa đày.
– Tôi chấp nhận nguy cơ bị đọa đày. Chúa sẽ giải tội cho tôi, vì Ngài biết tôi hành động vì danh Ngài. Nhiệm vụ của tôi là bảo vệ Thư viện.
– Mới cách đây vài phút, Huynh đã sẵn sàng giết cả tôi và thằng bé này nữa….
– Huynh khôn ngoan hơn, nhưng chẳng giỏi hơn những kẻ khác đâu.
– Và bây giờ chuyện gì sẽ xảy ra, khi tôi tránh được cái bẫy đó?
– Chúng ta sẽ xem, – Jorge đáp, – Tôi không nhất thiết phải lấy mạng Huynh, có lẽ tôi sẽ thuyết phục được Huynh. Nhưng trước tiên, hãy nói cho tôi biết: làm cách nào Huynh đoán được đó là tập hai của quyển sách của Aristotle?
– Cách Huynh nguyền rủa tiếng cười chắc chắn không đủ cho tôi, và những gì tôi biết về cuộc tranh luận của Huynh với những người khác cũng quá ít ỏi. Thoạt tiên, tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Nhưng có những lời viết về một viên đá nhục nhã lăn trên bình nguyên, về những con ve sẽ từ lòng đất kêu vang lên, về những quả vả đáng kính. Tôi đã đọc một loại giông giống như vậy: mấy ngày vừa qua, tôi đã kiểm chứng lại. Đó là những thí dụ Aristotle đã sử dụng trong tập một của tác phẩm Thi ca, và tác phẩm Tu từ học. Rồi tôi nhớ Isidore xứ Seville đã định nghĩa hài kịch là một thứ nói về – biết diễn tả như thế nào nhỉ? – về một điều kém hơn những tình yêu đức hạnh. Dần dần tập hai của tác phẩm này hình thành trong óc tôi. Tôi có thể kể cho Huynh nghe gần như toàn bộ tập đó, mà không cần phải đọc những trang sách định dùng để thuốc tôi chết. Hài kịch phát sinh từ “Komai” – đó là những làng quê – như một cách liên hoan vui vẻ sau bữa ăn hay bữa tiệc. Hài kịch không nói về những kẻ quyền uy, danh giá, mà về những con người phàm tục buồn cười, nhưng không độc ác, nó không chấm dứt bằng cái chết của các nhân vật. Nó đạt được tác dụng gây cười nhờ vạch ra các thói hư tật xấu của người bình dân. Ở đây, Aristotle xem khuynh hướng gây cười như một lực lượng của điều thiện, trong đó cũng có giá trị giáo huấn: qua những câu đố hóm hỉnh và ẩn dụ bất ngờ, mặc dù chúng trình bày sự vật khác với bản chất của nó như thể nói dối vậy, khuynh hướng này thực sự buộc chúng ta phải xem xét sự vật kỹ lưỡng hơn, khiến chúng ta phải thốt lên: À, sự vật là thế này đây, mà trước kia ta chẳng biết. Chân lý được đạt đến nhờ miêu tả con người và thế giới tệ hơn bản chất của chúng, hay tệ hơn chúng ta vẫn nghĩ, dẫu sao thì cũng tệ hơn hình ảnh mà các trường ca, bi kịch và cuộc đời của các vị thánh vẫn đưa ra cho chúng ta thấy. Có phải thế không?
– Gần như thế. Huynh đã tái lập nó nhờ đọc các sách khác à?
– Nhiều điều trong đó Venantius đang nghiên cứu. Tôi nghĩ Venantius đã săn tìm quyển sách ấy khá lâu. Hẳn Huynh ấy đã đọc được trong thư mục các dấu hiệu cũng như tôi, và tin rằng đây là quyển sách Huynh ấy đang tìm kiếm. Nhưng Huynh ấy không biết cách đột nhập “finis Africae”. Khi nghe Berengar nói với Adelmo về nó, Huynh ấy liền lao ngay vào như chó săn thỏ.
– Đúng như thế. Tôi hiểu ngay. Tôi biết đã đến lúc mình phải hành động ác liệt để bảo vệ Thư viện…
– Và Huynh đã tẩm thuốc độc vào sách. Hẳn là một công việc khó khăn… trong bóng tối…
– Bây giờ tay tôi có thể nhìn rõ hơn mắt Huynh. Tôi đã lấy ở chỗ Severinus một cái bàn chải, và tôi cũng có đeo găng. Đó là một ý độc đáo phải không nào? Huynh phải mất một lúc lâu mới suy ra được…
– Phải. Tôi cứ nghĩ đến một vật phức tạp hơn, một cái kim tẩm thuốc độc hay một loại gì tương tự. Phải công nhận cách làm của Huynh thật là tiêu biểu: nạn nhân tự đầu độc khi có một mình, và chỉ trong mức độ người ấy muốn đọc…
Tôi rùng mình nhận ra rằng phút này đây, hai con người đối mặt trong một trận chiến sống còn đang thán phục lẫn nhau, tựa như người này hành động chỉ để người kia tán dương. Đầu óc tôi vụt lên ý nghĩ rằng các trò gian xảo mưu mẹo mà Berengar đã sử dụng để quyến rũ Adelmo, những hành vi chân thật và tự nhiên mà cô gái đã dùng để khêu gợi lòng đam mê và dục vọng của tôi, chúng thật vô nghĩa nếu so với sự khôn ngoan và tài năng điên cuồng mà người này đem ra để chinh phục người kia, và thật tầm thường nếu so với cảnh nhử nhau đang xảy ra ngay trước mắt tôi đây; bảy ngày qua họ triển khai chiến pháp của mình, họ như đã bí mật hẹn ngầm với nhau, mỗi người âm thầm mong đợi người kia tán đồng, người này vừa sợ vừa ghét người kia.
Thầy William nói: – Nhưng Huynh hãy nói cho tôi biết, cớ sao Huynh lại muốn che giấu quyển sách này hơn nhiều quyển sách khác? Tại sao Huynh lại ém đi các luận thuyết về phép phù thủy, những trang sách có thể báng bổ Chúa – mặc dù không phải trả giá bằng án mạng đi nữa – ; trong khi chỉ vì những tờ giấy này, Huynh lại đi hại những người anh em và hại cả chính mình? Có nhiều quyển sách khác nói về hài kịch, nhiều quyển khác ca ngợi tiếng cười. Tại sao Huynh lại sợ quyển này nhiều như vậy?
– Vì nó do Triết gia [1] viết. Mỗi quyển sách do Người viết đã tiêu diệt một phần nền học vấn mà Thiên Chúa giáo đã tích lũy hàng bao thế kỷ nay. Các Đức Cha đã nói mọi điều cần biết về sức mạnh của Phúc Âm, nhưng Boethius [2] chỉ cần trau chuốt lại lời của Triết gia là sự huyền nhiệm của Phúc Âm đã biến thành trò cười của những phạm trù và tam đoạn luận cho người đời. Sách “Sáng Thế Ký” [3] đã nói những điều phải biết về cấu trúc của vũ trụ, nhưng chỉ cần đọc quyển “Vật lý” của Triết gia là đủ hình dung lại một thế giới bằng những vật chất trơn nhầy vô tri vô giác, và tên Ả Rập Averroes [4] đã gần thuyết phục được mọi người về sự vĩnh cửu của thế giới. Chúng ta đã biết mọi điều về các tên Thánh, thế mà tên Dominic mà Cha bề trên đã chôn xác – kẻ đã bị Triết gia quyến rũ – dám đặt tên các thánh lại, theo những cách suy luận tự nhiên đầy kiêu hãnh. Thế là cái vũ trụ mà Thẩm phán tòa Areopagus cho rằng tự mở ra cho ai biết cách chiêm ngưỡng dòng suối ngời sáng của cội nguồn đầu tiên đã hoá thành nơi giữ gìn các nguyên tố trần tục mà họ gọi là vật thể trừu tượng. Trước kia, chúng ta thường ngước lên trời, thỉnh thoảng mới hạ cố nhíu mày liếc xuống vũng bùn vật chất, bây giờ chúng ta nhìn mặt đất, và tin vào trời qua những lời thế tục. Mỗi lời nói của Triết gia, mà bây giờ ngay cả (các?) Thánh và các tiên tri cũng lấy đó ra thề, đã đảo ngược hình ảnh của thế giới. Nhưng Người chưa đảo ngược hình ảnh của Chúa. Nếu quyển sách này trở nên… hay đã trở nên, đối tượng để bình giảng công khai, thì chúng ta hẳn sẽ đạp qua lằn ranh cuối cùng.
– Nhưng Huynh sợ gì trong việc tranh luận về tiếng cười này? Huynh không thể loại trừ tiếng cười bằng cách loại trừ quyển sách đó được?
– Không, chắc chắn không. Nhưng tiếng cười là sự yếu đuối, sa đọa và xuẩn ngốc trong xác thịt ta. Nó là cách giải trí của nông dân, sự phóng túng của tên say rượu, ngay cả giáo hội cũng đã khôn ngoan cho phép trong dịp tiệc tùng, hội hè, chè chén được thỏa cái tật này một ngày đêm để khuây khỏa tâm trí và quên đi các đòi hỏi, dục vọng khác… Thế nhưng, tiếng cười vẫn là thứ thô tục, một vật bảo vệ cho giới bình dân, một điều bí ẩn nhất, một chất thiêng liêng cho những tên khất thực. Thánh tông đồ cũng đã nói thế này: thà kết hôn còn hơn đi thiêu, thà chống lại trật tự đã được thiết lập của Thượng đế còn hơn cười cợt, khoái trá đem trật tự đó ra làm trò cười gớm ghiếc cuối bữa ăn, lúc đã cạn chén say sưa; bầu lên vua ngốc, buông thả trong nghi lễ của bọn heo, lừa, chơi trò truy hoan chổng ngược đầu… Còn trong đây, trong đây này – Jorge đập tay lên bàn gần quyển sách thầy William đang mở ngỏ, – nhiệm vụ của tiếng cười đã được đảo ngược. Nó được nâng lên thành nghệ thuật, cánh cửa của giới học thức mở cửa đón nó, nó trở thành đối tượng nghiên cứu của triết học và nền thần học xảo trá. Hôm qua, Huynh đã thấy những kẻ phàm tục có thể dung dưỡng và thực hiện những hành động dị giáo khủng khiếp nhất như thế nào, chúng đã phản bội lời thề của Chúa và luật của tự nhiên. Nhưng giáo hội có thể dẹp yên được loạn dị giáo của bọn phàm tục, những kẻ tự tiêu diệt mình bằng sự ngu dốt của chính họ. Sự cuồng điên dốt nát của Dolcino và những loại như hắn sẽ chẳng bao giờ tạo nên cuộc khủng hoảng trong dòng đạo. Hắn quyết thuyết giảng bạo lực và sẽ chết vì bạo lực, sẽ chẳng để lại được dấu tích gì, sẽ tàn theo bữa tiệc, và nếu trong bữa tiệc đó một thế giới đảo ngược có được tạo ra trên mặt đất này một khoảnh khắc thì cũng chẳng sao. Với điều kiện hành dộng đó không được biến thành mưu định, với điều kiện giọng lưỡi thô tục đó không tìm được tiếng la tinh để chuyển dịch nó. Tiếng cười khiến bọn nông nô khỏi sợ Quỉ, vì trong bữa tiệc của lũ ngốc Quỉ cũng hiện ra với vẻ nghèo nàn ngốc nghếch, thế nên có thể điều khiển nó được. Nhưng quyển sách này có thể dạy rằng tự giải thoát khỏi nỗi sợ Quỉ là thông thái. Khi cất tiếng cười, với rượu ùng ục trong cổ họng, tên nông nô cảm thấy mình như một địa chủ, vì gã đã đảo ngược vị trí của mình với lãnh chúa, như quyển sách này có thể dạy và chỉ vẽ chi tiết cho những người học thức các mưu mẹo gian xảo để hợp pháp hóa sự đảo ngược đó. Khi ấy, cái mà may thay vẫn còn là hoạt động của dạ dày, sẽ được biến thành hoạt động của não. Tiếng cười thích hợp với con người là dấu hiệu cho thấy giới hạn của chúng ta, vì con người là những kẻ phạm tội. Nhưng từ quyển sách này, nhiều bộ óc sa đọa như Huynh sẽ suy ra một tam đoạn luận cực đoan, trong đó tiếng cười là cứu cánh của con người! Cười trong một lúc sẽ giúp tên dân quê xua đi nỗi sợ hãi. Nhưng luật pháp được áp đặt nhờ sự sợ hãi mà cái tên chân chính của nó chính là lòng sợ Chúa. Quyển sách này có thể nhen lên đốm lửa của quỉ Lucifer để bùng lên ngọn lửa mới thiêu đốt toàn thế giới, và tiếng cười sẽ được định nghĩa là một nghệ thuật mới để chấm dứt sợ hãi, nghệ thuật mà ngay cả Prometheus [5] cũng chẳng biết đến. Khi cười, cái chết đối với tên nông nô chẳng còn nghĩa lý gì nữa: thế nhưng theo thiên định, sau cơn phóng đãng thì nghi thức lại phải trùm lên gã nỗi sợ chết! Từ quyển sách này có thể sản sinh ra một mục tiêu hủy diệt mới, nhằm thủ tiêu cái chết bằng con đường rũ sạch sợ hãi. Và chúng ta, những sinh vật tội lỗi, sẽ ra sao đây nếu không biết sợ, nếu không giữ được cái mà có lẽ là khả năng nhìn xa trông rộng nhất, đáng yêu nhất trong các khả năng thiên bẩm? Bao thể kỷ nay các học giả và đức cha bằng suy nghĩ về những điều cao quí đã ban phát tinh hoa của nền học xứ đạo để cứu vớt sự khốn khổ và cám dỗ của cái thô tục. Còn quyển sách này – vì cho rằng hài kịch, với thể loại trào phúng và kịch câm của nó, là một loại thần dược sẽ thanh lọc mọi đam mê bằng cách đưa lên sân khấu các thói tật và yếu đuối nhẹ dạ – nó sẽ khiến các học giả giả hiệu nỗ lực cứu vớt những điều cao quí, bằng sự đảo ngược quỉ quái: chấp nhận cái thô tục. Quyển sách này có thể gieo cái ý tưởng là con người mong mặt đất sẽ có vô số miền đất Cockaigne [6]. Nhưng đó là thứ chúng ta không thể có và không được phép có. Hãy nhìn những tu sĩ trẻ đã nhục nhã đọc bản nhố nhăng nhái lại “Bữa tiệc của Cyprian”. Thật là một quyển sách quỉ quái làm biến dạng Thánh Kinh! Tuy nhiên, khi họ đọc nó, họ biết nó là tội lỗi. Nhưng ngày nào lời của Triết gia minh chứng cho các hình giễu bên lề sách của một bộ óc tưởng tượng sa đọa, hay ngày nào cái nằm bên lề nhảy vào trung tâm, thì ngày đó mọi dấu vết của trung tâm sẽ biến mất. Dân Chúa sẽ hóa thành một lũ quái vật ợ ra từ vực thẳm của vùng đất chưa biết đến, và khi đó rìa của thế giới cũ sẽ trở nên tâm của xứ đạo, Arimapsi sẽ ngồi trên ngôi của Peter, bọn người lùn bụng phệ đầu to sẽ chiếm lấy Thư viện! Lũ tôi tớ sẽ đặt luật, và chúng tôi (lúc đó cả Huynh nữa) phải tuân theo, trong một tình trạng chẳng có luật lệ gì cả. Một triết gia Hy Lạp mà Aristotle của Huynh có dẫn ra ở đây, đã bảo phải dùng nụ cười để xua đi sự nghiêm trang của đối phương, và nụ cười mâu thuẫn với sự nghiêm trang. Các bậc cha ông thận trọng của chúng tôi đã chọn lựa thế này: nếu tiếng cười là niềm vui của giới bình dân, thì sự phóng túng của họ phải được kiềm chế, sỉ nhục, và đe dọa bằng sự khắc nghiệt. Và giới bình dân chẳng có vũ khí nào để trau chuốt tiếng cười của họ, cho đến khi họ biến nó thành một công cụ chống lại sự nghiêm trang của các bậc chăn chiên tinh thần, những người có sứ mệnh phải dẫn dắt họ đến đời vĩnh cửu, và cứu họ khỏi sa vào sự cám dỗ của tham, sân, si. Nhưng nếu một ngày kia có ai đó khua lên lời của Triết gia và cất tiếng như một triết gia, nâng tiếng cười lên thành một vũ khí tinh xảo, nếu nghệ thuật thuyết phục được thay bằng nghệ thuật giễu cợt – thì ôi thôi, ngày đó, ngay cả Huynh nữa William ạ, và tất cả tri thức của Huynh nữa, cũng sẽ bị cuốn sạch!
– Tại sao? Lúc ấy tôi sẽ đấu trí với những người khác. Thế giới ấy sẽ tốt hơn thế giới trong đó lửa và những thanh sắt nung đỏ của Bernard Gui làm nhục ngọn lửa và sắt nung của Dolcino.
– Chính Huynh lúc đó cũng sẽ lọt vào âm mưu của Quỉ. Huynh sẽ chiến đấu ở phía bên kia trong trận thư hùng Armageddon, nơi diễn ra trận chiến đấu cuối cùng. Nhưng đến ngày đó thì giáo hội hẳn có đủ khả năng áp đặt một lần nữa giáo luật lên cuộc chiến. Chúng tôi không sợ những lời báng bổ, vì ngay cả trong những lời chưởi Chúa, chúng tôi cũng nhận ra được hình ảnh biến dạng của Jehovah nổi giận, người đã chưởi rủa bọn thiên thần nổi loạn. Chúng tôi không sợ bạo lực của những kẻ giết người chăn chiên, nhân danh cải cách hão huyền, vì đó cũng là bạo lực của các vua chúa cố tiêu diệt dân Israel. Chúng tôi không sợ sự khắc nghiệt của bọn Donatist [7], dục vọng của bọn Bogomil, sự điên cuồng tội lỗi của những sư huynh dòng Tinh thần tự do: Chúng tôi hiểu hết thảy họ và biết căn nguyên tội lỗi của họ, đó cũng là căn nguyên thánh thiện của chúng tôi. Chúng tôi không sợ, và trên hết, chúng ta biết cách tiêu diệt họ – hay tốt hơn nữa, biết cách để họ tự tiêu diệt mình. Thực ra, tôi phải nói là sự tồn tại của họ rất quí giá đối với chúng tôi, nó đã được ghi trong thiên định vì tội lỗi của họ nhắc chúng tôi đạo đức, lời nguyền rủa của họ cổ vũ cho những lời ngợi ca của chúng tôi, lối sống vô đạo của họ khiến sự thành kính của chúng tôi ngời sáng lên, cũng như cần có Sa tăng để Chúa vinh danh rạng rỡ hơn. Nhưng nếu một ngày kia – và không còn là một ngoại lệ trong giới bình dân, mà là điều phổ biến trong giới học thức đã tận tụy nghiên cứu những minh chứng không tiêu diệt được của Thánh kinh – nghệ thuật giễu cợt được chấp nhận, và trở nên cao quí, tự do, và không còn máy móc nữa; ngày kia có người nói (cho người khác nghe): “Tôi cười hiện thân của Chúa”, thì khi ấy chúng tôi sẽ không có vũ khí nào để chống lại lời báng bổ ấy cả, vì nó sẽ triệu về các thế lực đen tối trong thể xác vốn tụ lại trong phát rắm và hơi ợ chua và chúng sẽ đòi cái quyền mà chỉ duy nhất tinh thần mới có: quyền được xì ra nơi nào tùy thích!
– Lycurgus đã cho dựng một tượng ca ngợi cái cười.
– Huynh đọc điều đó trong quyển sách phỉ báng của Cloritian, người đã cố giải cho kịch câm khỏi tội vô đạo, ông kể chuyện một bệnh nhân được một bác sĩ chữa lành bệnh bằng cách giúp cho người ấy cười. Cần gì phải chữa cho hắn chứ, nếu Chúa đã định đời trần tục của hắn đã chấm dứt?
– Tôi không nghĩ bác sĩ ấy đã chữa lành cho bệnh nhân. Ông ta dạy bệnh nhân cách cười căn bệnh của mình.
– Bệnh không phải đuổi tà là hết. Nó phải được tiêu diệt.
– Cùng với cơ thể của người bệnh.
– Nếu cần thiết.
– Huynh chính là Quỉ – Thầy William bèn nói.
Jorge dường như không hiểu. Nếu lão sáng mắt, tôi dám chắc lão phải đờ mắt ra nhìn người vừa nói. Lão hỏi:
– Tôi ư?
– Phải. Họ đã nói dối Huynh. Quỉ không phải là Sa Tăng, Quỉ chính là tinh thần kiêu hãnh, là đức tin không biết mỉm cười, là sự thật chẳng hề hoài nghi. Quỉ ác vì nó biết mình đi đâu, và cũng như Quỉ, Huynh sống trong bóng tối. Nếu Huynh muốn thuyết phục tôi thì Huynh đã thất bại. Jorge, tôi căm ghét Huynh, và nếu có thể, tôi sẽ dẫn Huynh xuống lầu, băng qua sân, trần truồng, lỗ đít cắm lông gà, mặt vẽ hề, để cả tu viện cười nhạo Huynh và chẳng còn sợ Huynh nữa. Tôi muốn trét mật khắp người Huynh rồi lăn vào đám lông, và buộc dây dắt Huynh ra chợ phiên, nói với mọi người rằng: Hắn đã công bố sự thật với quí vị và bảo sự thật có vị chết chóc, và quí vị đã tin, không phải lời hắn, mà là tính tàn nhẫn của hắn. Bây giờ, tôi xin thưa với quí vị rằng, trong cơn xoáy vô biên của những điều khả thi, Chúa cũng cho phép quí vị tưởng tượng ra một thế giới trong đó người cho mình làm sáng tỏ sự thật chẳng là cái gì khác hơn là một con quạ đen vụng về, kẻ lặp lại những lời người ta đã biết tự lâu rồi.
– Huynh còn xấu hơn Quỉ nữa, tu sĩ Khất thực à – Jorge nói. – Huynh là một thằng hề, cũng như vị thánh đã khai sinh cho tất cả dòng Huynh vậy. Huynh giống như Thánh Francis của Huynh, người cất tiếng nói với tất các thân xác của mình [8], người giảng kinh mà trình diễn như một tên bán thuốc dạo, người làm bọn bần tiện kinh ngạc vì dúi vào tay chúng những đồng tiền vàng, khiến các nữ tu kính đạo xấu hổ vì không đọc kinh mà lại ngâm “Miserere. Xin thương xót chúng tôi”, người ăn xin bằng tiếng Pháp, người lấy một mẩu gỗ để bắt chước động tác của các nhạc công vĩ cầm, người giả dạng một tên lang thang để làm bẽ mặt các tu sĩ tham ăn tục uống, người ném mình trần truồng xuống tuyết, người nói chuyện với cỏ cây muông thú, biến cả huyền thoại của Chúa giáng sinh thành một cảnh làng, nhại tiếng cừu kêu be be để gọi con chiên xứ Bethlehem… Một trường phái hay đấy. Thầy dòng Diotisalvi xứ Florence ấy là tu sĩ Khất thực chứ?
– Phải – thầy William mỉm cười – Đó là người đã đến chủng viện của những người giảng đạo, và bảo sẽ không nhận thực phẩm nếu họ không đưa trước cho Người một mảnh áo của Sư huynh John để giữ làm thánh tích. Khi họ đưa mảnh áo ấy, Người bèn lấy nó chùi mông và ném vào đống phân, rồi lấy một cây gậy lăn nó quanh đống phân và la lên: “Than ôi, các sư huynh ơi, hãy giúp tôi, tôi lỡ đánh rơi thánh tích xuống nhà xí rồi!”
– Rõ ràng câu chuyện đó làm Huynh thích thú lắm! Có lẽ Huynh cũng kể tôi nghe câu chuyện về một tu sĩ Khất thực khác là Thày dòng Paul Millemosche. Một hôm thầy nằm sõng xoài trên mặt băng, khi đồng bào của thầy chế giễu thầy và một người hỏi thầy có thích nằm trên cái gì tốt hơn không, thầy bèn đáp: “Có, vợ của ngươi…”. Đó là cách Huynh và các người anh em của Huynh tìm kiếm sự thật đấy.
– Đó là cách Thánh Francis dạy con người nhìn sự vật từ một góc độ khác.
– Nhưng chúng tôi đã buộc họ vào kỷ cương. Hôm qua Huynh đã nhìn thấy các anh em của mình đấy. Họ đã gia nhập hàng ngũ của chúng tôi và không còn nói như những người phàm tục nữa. Những người phàm tục không được phép nói. Quyển sách này sẽ biện minh cho tư tưởng ngôn ngữ của người phàm tục là phương tiện của sự thông thái. Phải ngăn chặn điều này, và tôi đã làm. Huynh bảo tôi là Quỉ, nhưng không đúng thế. Tôi là cánh tay của Chúa.
– Tay của Chúa sáng tạo, chứ không che giấu.
– Có những giới hạn không được vượt qua. Chúa ban lệnh rằng một số giấy tờ nhất định phải mang dòng chữ “đây là sư tử”.
– Chúa cũng tạo ra quái vật. Và Huynh nữa. Và Ngài muốn mọi điều đều được nói đến.
Jorge giờ đôi tay run rẩy ra kéo quyển sách về phía mình, lão mở nó ra nhưng xoay lại, để thầy William vẫn có thể thấy nó thuận chiều. Lão bảo:
– Thế tại sao Ngài lại để bản viết này lạc mất hàng bao thế kỷ, chỉ còn sót lại một bản sao duy nhất, và bản sao của cái bản viết chỉ có Chúa biết đã trôi dạt đến đâu, lại bị chôn vùi hàng nhiều năm trong tay của một tên vô thần không biết tiếng Hy Lạp, rồi bị bỏ quên chẳng ai ngó ngàng đến trong một góc bí mật của một thư viện cũ kỹ, nơi chính tôi, chứ không phải Huynh, được Thượng đế gọi phải tìm nó và giấu nó đi thêm nhiều năm nữa? Tôi biết, tôi biết như thể đã đọc được nó ghi bằng những dòng chữ sắt đá, với đôi mắt có thể nhìn thấy được những điều Huynh không thấy. Tôi biết đây là ý Chúa, và tôi đã hành động để minh giảng nó. Nhân danh Cha, và Con và Thánh thần.

Chú thích:

[1] Chỉ Aristotle.
[2] Chính khách và triết gia La Mã (480?-524? sau Công Nguyên).
[3] Genesis. Quyển đầu của Kinh Cựu ước.
[4] Triết gia và nhà vật lý Hồi giáo, (1126-1198). Điểm chính trong triết lý của ông là linh hồn có thể bị tiêu diệt.
[5] Theo huyền thoại Hy Lạp, Prometheus đã trộm lửa trên trời đem xuống dạy cho con người cách sử dụng. Ông bị Zeus phạt xiềng vào một viên đá, mỗi ngày bị diều hâu đến ăn dần mòn lá gan, nhưng đến đêm nó lại hóa nguyên lành như cũ.
[6] Miền đất tưởng tượng có cuộc sống an nhàn, xa hoa.

[7] Một giáo phái thuộc đạo Thiên Chúa, được thành lập ở Bắc Phi thế kỷ IV sau Công nguyên.

ĐÊM

Hỏa tai xảy ra,
vì đạo đức quá độ,
nên thế lực của địa ngục đã thắng thế

Lão già im lặng. Lão xòe cả hai tay đặt lên quyển sách, tựa như mơn trớn các trang giấy, vuốt chúng thẳng ra để đọc, hay như muốn bảo vệ nó khỏi móng vuốt của một loài chim ăn thịt.
Thầy William bảo Jorge:
– Dẫu sao, tất cả đều hoài công. Bây giờ mọi việc đã xong. Tôi đã tìm thấy Huynh, tìm thấy quyển sách, và những người kia đã chết vô ích.
– Không vô ích đâu. Có lẽ đã có quá nhiều người chết quá. Và nếu Huynh cần có bằng chứng rằng quyển sách này là bạc mệnh thì Huynh đã giữ nó rồi. Và để chắc rằng họ đã không chết vô ích, thì thêm một cái chết nữa cũng chẳng có nhiều nhặng gì.
Vừa nói, lão vừa đưa ngón tay xương xẩu trong mờ lên, chậm chạp xé những trang giấy mỏng manh của quyển sách thành từng mảnh nhỏ, tọng chúng vào miệng, và từ từ nuốt xuống, tựa như lão đang ăn bánh thánh và muốn biến nó thành xác thịt của mình.
Thầy William bàng hoàng nhìn lão, dường như chưa hiểu được điều đang xảy ra. Rồi thầy bình tâm lại và chúi về phía trước hét lên: – Huynh làm gì thế? – Jorge mỉm cười, giơ hai cái lợi trắng dã ra, một chất nhầy vàng vàng từ đôi môi tái nhợt của lão ứa ra, nhỏ giọt xuống mấy sợi râu trắng lưa thưa dưới cằm.
– Huynh đang đợi hồi kèn thứ bảy, phải không? Giờ hãy lắng nghe tiếng kèn lên tiếng đây: “Hãy niêm kín những điều bảy sấm truyền đã nói, và chớ viết nó ra, hãy nuốt nó đi, nó sẽ làm ruột ngươi đắng ngắt, nhưng trên môi ngươi nó sẽ ngọt như mật”. Huynh thấy chưa? Bây giờ tôi đã niêm kín điều không được nói, trong nấm mồ chôn tôi.
Lão cười, trời, lão Jorge cười. Lần đầu tiên tôi mới nghe lão cười… Lão cười từ trong cổ họng, mặc dù môi lão không tươi và trông lão dường như gần khóc.
– Huynh không ngờ được một chung cuộc như thế này, phải không William? Lão già này nhờ ơn huệ của Chúa, một lần nữa lại thắng phải không nào? – Khi thầy William định giật lấy quyển sách thì Jorge nghe tiếng gió đoán được bèn lùi lại, tay trái ôm chặt quyển sách vào ngực, còn tay phải tiếp tục xé các trang giấy và nhồi chúng vào miệng.
Lão ở phía bên kia bàn, thầy William không với tới được bèn cố đứng phắt dậy chạy quanh chướng ngại vật đó. Nhưng thầy làm đổ ghế và vướng áo vào đó, thế nên Jorge đã hiểu được mưu định. Lão già lại phá lên cười, lần này còn to hơn nữa, và thật nhanh không ngờ, lão vung tay phải ra quờ quạng tìm ngọn đèn. Theo sức nhiệt tỏa ra lão chộp lấy ngọn lửa và chẳng sợ đau, đè mạnh tay lên đó. Đèn tắt phụt. Căn phòng tối đen, và lần cuối cùng, chúng tôi nghe tiếng cười của Jorge, lão nói: – Giờ tìm ta đi! Bây giờ ta là người nhìn rõ nhất. – Rồi lão lặng thinh và không hề tạo ra một tiếng động nào khác, lão di chuyển với những bước chân lặng lẽ, vốn khiến lão luôn xuất hiện thật bất ngờ. Chúng tôi chỉ còn nghe được đâu đó trong căn phòng, chốc chốc lại phát ra tiếng xé sách.
– Adso, – thầy William la lên. – Chận ngay cửa. Đừng để lão lọt ra ngoài.
Nhưng thầy nói muộn quá, vì nãy giờ tôi chỉ muốn nhào vào chụp lấy lão già, nên khi phòng sụp tối, tôi đã lao tới, cố chạy vòng theo nửa vòng bàn ngược hướng với thầy. Tôi nhận ra quá muộn là tôi đã giúp Jorge chiếm được cửa, vì lão già có thể di chuyển trong bóng tối một cách tự tin lạ thường. Chúng tôi nghe sau lưng tiếng xé giấy – hơi lùng bùng, vì phát ra từ phòng bên cạnh, và cùng lúc đó, chúng tôi nghe một âm thanh khác, tiếng kèn kẹt khô khốc chạy tới, tiếng bản lề kêu ken két.
Thầy William la lên: – Tấm gương! Lão định nhốt chúng ta ở trong này! – Theo hướng tiếng động phát ra, cả hai thầy trò tôi đều lao về phía cửa. Tôi ngã nhào lên một cái ghế và bầm cả chân, nhưng chẳng thèm để ý, vì tôi vụt nhận ra rằng nếu Jorge nhốt chúng tôi trong này thì chúng tôi muôn đời chẳng ra được: trong bóng đêm, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được cách mở cửa, vì không biết cách và không biết điều khiển máy nào ở phía bên này.
Tôi tin thầy William cũng bổ tới thục mạng như tôi vậy, vì tôi cảm thấy thầy bên cạnh tôi khi cả hai thầy trò đến được ngưỡng cửa và ép sát mình vào lưng tấm kính đang khép lại về phía chúng tôi. Chúng tôi đến kịp lúc cánh cửa ngừng lại, rồi hé mở ra. Rõ ràng Jorge thấy trận chiến không cân sức nên bỏ đi. Chúng tôi ra khỏi căn phòng kinh khủng đó, nhưng giờ đây chẳng biết lão già đang đi đâu, và bóng tôi vẫn còn dày đặc.
Đột nhiên, tôi nhớ ra: – Thầy ơi! Con vẫn giữ cục đá lửa!
– Thế còn đợi cái gì nữa? – Thầy William la lên – Tìm cây đèn và châm lửa đi! – Tôi lao trở lại “finis Africae” tối tăm để tìm cây đèn. Nhờ phép lạ, tôi tìm thấy nó ngay bèn lần theo áo dòng lấy ra cục đá lửa. Tay tôi run lẩy bẩy, và đánh lửa hai ba lần chưa châm được đèn, còn thầy William thì đứng ở cửa gọi hổn hển. – Nhanh lên, nhanh lên! – Cuối cùng tôi đánh được lửa.
Thầy William lại giục: – Nhanh lên! Nếu không lão già sẽ ăn sạch Aristotle!
– Và chết! – Tôi đau đớn thốt lên, vượt lên trước thầy và cùng thầy tìm kiếm.
– Thầy không thèm biết lão chết hay sống, đồ quái vật đó! – Thầy William la lên, chạy lại chỗ này chỗ kia, chõ mắt nhìn khắp mọi nơi – Với số giấy nuốt được đó, mạng lão đã tuyệt rồi. Nhưng thầy muốn có quyển sách.
Đoạn thầy ngừng lại, bình tĩnh hơn, tiếp: – Khoan đã. Nếu tiếp tục thể này thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy lão. Im lặng, chúng ta sẽ đứng yên một lúc, – Chúng tôi gồng cứng mình, nín thinh, và trong yên lặng, chúng tôi nghe, cách không xa lắm, tiếng thân người đụng mạnh vào kệ sách, và tiếng vài quyển sách đổ ầm xuống đất – Hướng đó! – Cả hai chúng tôi đồng thanh hét lên.
Chúng tôi chạy về hướng phát ra tiếng động, nhưng chẳng bao lâu phải chậm bước lại. Thực ra, bên ngoài “finis Africae”, Thư viện đêm nay đầy những luồng khí rên rĩ rít lên, tương ứng với con gió mạnh ngoài trời. Tốc độ chạy của chúng tôi khiến luồng gió càng mạnh hơn, và đe dọa sẽ dập tắt ngọn đèn, mà châm lại rất vất vả. Vì chúng tôi không thể đi nhanh hơn, chúng tôi buộc phải làm Jorge đi chậm lại. Nhưng thầy William lại nảy lên một ý trái ngược, bèn hét lên:
– Chúng tôi bắt được Huynh rồi, lão già ạ, chúng tôi đã có đèn! – Thật là một quyết định khôn ngoan, vì lời tiết lộ ấy có lẽ đã khiến lão hoảng, lão bèn đi nhanh hơn, và tự làm tổn hại đến khả năng mẫn cảm nhiệm màu và tài nhìn trong bóng tối của mình. Ít lâu sau, chúng tôi nghe một tiếng động khác, theo hướng đó, chúng tôi bước vào phòng Y của YSPANIA, và thấy lão nằm trên mặt đất, tay vẫn giữ quyển sách, cố đứng dậy giữa đống sách ngổn ngang mà lão đã đụng vào bàn làm đổ nhào xuống. Lão đang gắng đứng dậy, nhưng vẫn tiếp tục xé sách, quyết nuốt hết con mồi càng nhanh càng tốt.
Khi chúng tôi chạy đến thì lão đã đứng thẳng, nghe biết chúng tôi đã tới, lão lùi lại, đối mặt với chúng tôi. Dưới ánh đèn sáng đỏ, gương mặt lão bây giờ trông thật khủng khiếp: các đường nét đã méo mó, một dòng mồ hôi thâm hiểm chảy ròng ròng xuống mày, xuống má lão, đôi mắt thường vẫn trắng dã chết chóc của lão giờ đỏ như máu, từ miệng lão rơi ra những mẩu giấy, lão trông hệt một con thú đen như quạ đã nhồi đầy bụng mình và không còn nuốt nổi thức ăn nữa. Người co rúm vì hoảng loạn, vì sự tàn phá của thuốc độc giờ đang chạy rần rần khắp thân thể, vì mưu đồ quái quỉ quyết thực hiện cho bằng được, thân hình quắc thước của lão già bây giờ trông ghê tởm và cục mịch. Vào lúc khác thì hình ảnh đó có thể làm người ta cười, nhưng chúng tôi giờ cũng mệt rã rượi như chó rình mồi.
Lẽ ra bình tĩnh bắt lão, chúng tôi lại nhào vào tấn công lão mãnh liệt. Lão quằn quại nhưng tay vẫn ôm ghì trước lồng ngực, quyết giữ quyển sách. Tay trái tôi nắm lấy lão còn tay phải thì cố giơ cao ngọn đèn, nhưng ngọn lửa táp vào mặt lão, lão nóng quá bèn nghẹn ngào la gần như rống lên, những mẩu giấy trong miệng văng ra, tay phải lão liền buông quyển sách, vồ lấy ngọn đèn, bất thần giật nó khỏi tay tôi và ném đi xa…
Ngọn đèn rơi ngay trên đống sách mở ngỏ bị hất nhào từ trên bàn xuống. Dầu đổ tung tóe, ngọn lửa liền táp lấy một trang giấy mỏng manh, và nó cháy bùng lên như một bó củi khô. Tất cả xảy ra trong khoảnh khắc, tựa như bao thế kỷ nay, những trang giấy cổ ấy đã trông chờ một cuộc hỏa hoạn, và giờ đang thích thú, đột nhiên được thỏa mãn khát vọng triền miên được bùng cháy. Thấy nguy hiểm thầy William buông lão già ra. Biết đã thoát, lão lùi lại vài bước, thầy William do dự một thoáng, mà có lẽ là quá lâu, phân vân không biết nên tóm lão Jorge lại, hay nên dập tắt ngay ngọn lửa nhỏ. Một quyển sách cũ nhất bốc cháy ngay, bùng lên một ngon lửa.
Những luồng gió nhẹ, có thể thổi tắt ánh đèn lung linh, thì lại giúp cho ngọn lửa lớn cháy rực hơn, chúng còn thổi tàn bay đi tung tóe.
Thầy William la: – Dập lửa ngay! Nhanh lên! Cháy hết bây giờ!
Tôi chạy về phía đống lửa, rồi ngừng lại vì không biết phải làm gì. Thầy William lại chạy đến giúp tôi. Chúng tôi đưa tay ra, mắt tìm kiếm vật gì đó để dập lửa. Óc tôi lóe lên một ý: tôi tuột áo qua khỏi đầu và cố ném nó vào giữa đống lửa. Nhưng bây giờ ngọn lửa đã quá cao, nó nuốt luôn áo của tôi và được nuôi lớn thêm. Giật đôi tay cháy sém của mình lại, tôi quay sang thầy William và trông thấy Jorge đang tiến đến ngay sau lưng thầy. Bây giờ hơi nóng tỏa ra rất mạnh nên lão có thể nhận ra rất dễ dàng, do đó lão biết chắc chắn ngọn lửa ở đâu. Lão bèn ném quyển sách của Aristotle vào lửa.
Điên tiết lên, thầy William bèn đẩy lão một cái thật mạnh. Jorge ngã sầm vào một kệ sách, đầu đập mạnh vào một góc. Lão gục xuống đất… Nhưng thầy William, tôi nghĩ thầy đã bật ra một lời nguyền rủa đáng sợ, chẳng thèm ngó ngàng chi đến lão. Thầy quay sang mấy quyển sách. Muộn mất rồi. Tác phẩm của Aristotle, hay phần còn lại sau bữa ăn ngấu nghiến của lão già đã bị thiêu rụi.
Trong khi đó, vài tàn lửa đã bay về phía tường, và các quyển sách trong một kệ khác đang co rúm lại dưới ngọn lửa giận dữ. Bây giờ, trong phòng không phải có một mà đến hai đống lửa đang cháy.
Thầy William nhận thấy chúng tôi không thể dùng tay để dập lửa được, bèn quyết định lấy sách để cứu sách. Thầy nắm lấy một quyển mà thầy nghĩ chắc chắn và dày dặn hơn các quyển khác, cố dùng nó như một vũ khí để đàn áp kẻ thù hung hãn. Nhưng đập quyển sách bìa đóng nẹp đinh lên các quyển đang cháy chỉ khêu thêm nhiều đóm lửa khác. Thầy cố lấy chân rải chúng ra thì tác dụng lại ngược lại: những mẩu giấy cháy dở bay lên chấp chới như cánh dơi, thổi chúng đi nhóm thêm những ngọn lửa mới trên các trang giấy khác.
Rủi thay, đó là căn phòng bừa bãi nhất trong Mê Cung. Bản thảo cuộn tròn treo trên kệ, những quyển sách khác thì tả tơi, ruột long khỏi bìa, trông như những cái lưỡi bằng da bê khô héo vì thời gian lè ra khỏi cái miệng há hốc, trên bàn chất đầy những bản viết mà Malachi đã quên không cất đúng chỗ. Thế nên căn phòng, sau khi bị Jorge làm đổ nháo nhào, ngổn ngang những bản da chỉ chờ đợi biến ra tro.
Căn phòng phút chốc đã biến thành một lò than, một lùm cây bốc cháy. Cả những kệ sách cũng dự vào cuộc hiến tế này, chúng bắt đầu kêu răng rắc. Tôi nhận ra toàn Mê cung giờ chỉ là một giàn hỏa tế khổng lồ, hết thảy chuẩn bị đợi mồi lửa đầu tiên.
– Nước. Ta cần nước! – Thầy William nói, rồi tiếp. – Nhưng làm sao tìm được nước trong hỏa ngục này.
– Dưới bếp, xuống dưới bếp, – Tôi la lên.
Thầy William sững sờ nhìn tôi, mặt thầy đỏ gay trong ánh lửa bừng bừng. – Đúng, nhưng khi chúng ta xuống và lên trở lại thì… Bà hỏa đã ngốn hết! – Rồi thầy hét lên – Dẫu sao, căn phòng này đã tiêu rồi, và có lẽ phòng kế bên cũng thế. Chúng ta hãy xuống ngay, thầy tìm nước, còn con phóng ra ngoài báo động. Ta cần nhiều người!
Chúng tôi tìm đường đến cầu thang, ngọn lửa cũng bắt sang những phòng kế cận, nhưng càng xa càng mờ, thế nên chúng tôi gần như mò mẫm băng qua hai phòng cuối. Bên dưới, ánh trăng lờ mờ soi vào phòng thư tịch, và từ đây chúng tôi đi xuống nhà ăn. Thầy William phóng vào nhà bếp, tôi lao lên cửa nhà ăn, loay hoay mở nó từ phía trong mãi mới được, vì lo lắng làm chân tay tôi vụng về luống cuống. Tôi bước ra sân cỏ và chạy về hướng nhà nghỉ, rồi chợt nghĩ mình không thể đánh thức từng tu sĩ một được. Đầu tôi nảy lên một ý: tôi chạy đến nhà thờ, tìm cách leo lên tháp chuông. Khi leo đến nơi, tôi nắm tất cả dây giật chuông báo động. Tôi kéo thật mạnh, và sợi dây chuông chính, khi rút lên, kéo tôi theo lên luôn. Trong thư viện, mu bàn tay tôi đã cháy sém, còn lòng bàn tay vẫn còn nguyên lành. Nhưng bây giờ chúng cũng phồng giộp cả lên, tôi bám theo dây thừng tuột xuống cho đến khi tay đổ máu mới buông ra.
Tuy nhiên đến lúc ấy tiếng chuông tôi đã khua động lên rồi. Tôi chạy ra ngoài, vừa kịp thấy các tu sĩ đầu tiên từ trong nhà nghỉ ra, và nghe từ đằng xa tiếng tôi tớ lao nhao trước cửa nhà họ. Tôi không thể trình bày rõ ý mình vì chẳng còn sức để cất tiếng, và những từ đầu tiên thoát ra khỏi miệng bằng tiếng Đức mẹ đẻ. Tôi đưa bàn tay máu chảy ròng ròng chỉ lên cửa sổ ở cánh nam của Đại Dinh, bệ thạch cao tuyết hoa của chúng đang rực sáng lạ thường. Căn cứ theo cường độ sáng đó tôi biết trong khi tôi trở xuống rung chuông thì ngọn lửa đã lan sang các phòng khác. Tất cả cửa sổ của “Châu Phi” và toàn bộ tiền diện giữa nó và ngọn tháp phía đông, bây giờ bập bùng những ánh lửa bất thường.
– Nước! Mang nước! – Tôi hét lên.
Thoạt tiên chẳng ai hiểu gì hết. Các tu sĩ quá quen xem Thư viện là một nơi linh thiêng bất khả xâm phạm, nên họ không hiểu sao nó lại bị đe dọa bởi một tai ương tầm thường vốn có thể xảy đến cho một túp lều nhà nông. Những người đầu tiên nhìn lên cửa sổ làm dấu thánh giá và lầm thầm sợ hãi, tôi biết họ đang nghĩ lại thêm ma quỉ hiện hình đây. Tôi nắm áo họ cố nài nỉ cho họ hiểu, cho đến khi có người chuyển tiếng khóc của tôi thành lời.
Đó là Nicholas xứ Morimondo, Huynh nói: – Thư viện đang cháy!
– Vâng, đúng như vậy. – Tôi thều thào, ngã xuống đất, lả đi.
Nicolas xông xáo truyền lệnh cho các tôi tớ và chỉ cho các tu sĩ đứng xung quanh, bảo người này đi mở các cửa khác trong Đại dinh, bảo người kia kiếm nước và các loại xô chậu. Huynh chỉ cho những người có mặt ra các giếng và hồ nước trong thư viện. Huynh gọi những người chăn bò đem la và lừa đến chuyển bình nước… Nếu một người nắm quyền ban những lệnh này, thì chắc hẳn người ta sẽ tuân theo ngay. Nhưng tôi tớ thì vẫn quen theo lệnh Remigio, các người ghi chép thì theo Malachi, và tất cả thì theo Tu viện trưởng. Nhưng than ôi, cả ba người này chẳng còn ai hiện diện. Tu sĩ nhìn quanh tìm Tu viện trưởng để chờ nghe những lời chỉ thị trấn an, nhưng chẳng thấy Cha đâu. Chỉ mình tôi biết lúc đó Cha đã chết hay đang hấp hối trong một lối đi kín bưng ngột ngạt, bây giờ đang biến thành một lò thiêu.
Nicholas đẩy những người chăn bò đi hướng này, thì vài tu sĩ tốt bụng lại đẩy họ đi hướng khác. Vài sư huynh rõ ràng đã mất bình tĩnh, còn các huynh khác thì vẫn ngái ngủ. Vì giờ tôi đã tỉnh, nên tôi cố dùng lời lẽ để giải thích, nhưng nên nhớ rằng sau khi đã ném áo dòng vào ngọn lửa, tôi gần như trần truồng, và hình ảnh của một cậu bé mặt lọ lem, tay chảy máu, người kỳ cục không lông, tê cóng vì lạnh, chắc chắn không làm người ta tin lắm.
Cuối cùng Nicholas kéo được vài sư huynh và mấy người khác vào bếp, mà ai đó đã mở cửa. Một tu sĩ khác lanh trí cầm thêm vài cây đuốc. Chúng tôi thấy nhà bếp bừa bãi, hỗn độn, và tôi biết thầy William hẳn đã xáo tung nó lên để tìm nước và chậu xách.
Lúc ấy tôi thấy thầy William hiện ra ở cửa nhà ăn, mặt thầy cháy nám, áo bốc khói. Tay thầy cầm một cái bình lớn, đó là hình ảnh đau thương của sự bất lực, tôi tội nghiệp thầy quá. Tôi biết dẫu thầy có mang được một xô nước nguyên vẹn lên tầng hai, hay nhiều hơn nữa, thì cũng chẳng giúp được mấy. Tôi nhớ lại câu chuyện của Augustine khi Ngài trông thấy một thằng bé dùng muỗng múc nước biển: cậu bé là một thiên thần, cậu làm thế để trêu ông thánh, người muốn thông hiểu những lẽ nhiệm mầu của thiên nhiên. Và cũng như thiên thần đó, thầy William mệt lả, dựa vào rầm cửa, nói với tôi: – Tuyệt vọng rồi. Dù tất cả tu sĩ trong tu viện có hiệp lực lại thì cũng đành bó tay thôi. Thư viện tiêu tan rồi. – Nhưng khác thiên thần ấy, thầy William nức nở khóc.
Tôi ôm ghì lấy thầy, thầy giật tấm khăn bàn để quấn lấy người tôi. Chúng tôi sải tay đầu hàng, và quan sát diễn biến chung quanh.
Thật là một quang cảnh hỗn loạn. Người ta chạy tay không lên cầu thang trôn ốc, đụng đầu những người tay không khác đã lên lầu vì hiếu kỳ, bây giờ đang chạy xuống để kiếm chậu. Những người lanh trí khác thì lập tức đi lùng xô chậu, nhưng lại phát giác trong nhà bếp không có đủ nước. Đột nhiên những con la chở các vại nước to tràn vào gian phòng lớn, các người chăn chúng giở vại xuống và định xách nước lên. Nhưng họ không biết cách lên phòng thư tịch, phải mất một hồi lâu sau mấy người ghi chép mới chỉ cho họ, khi họ đi lên thì tông vào những người hoảng hốt đang chạy xuống. Vại vỡ, nước bắn tung tóe xuống đất, thế nhưng các vại kia vẫn được những người sốt sắng chuyển lên cầu thang. Tôi theo đám người ấy vào phòng thư tịch. Từ cửa Thư viện tuôn ra làn khói dày đặc. Những người cuối cùng cố lên tháp phía đông vừa đi xuống, họ ho sặc sụa, mắt đỏ ngầu, và cho biết không thể nào đi vào hỏa ngục đó nữa.
Rồi tôi gặp Benno, tay xách một xô nước khổng lồ từ dưới lên, mặt mày méo xẹo. Huynh nghe những người đi xuống nói như vậy bèn mắng: – Hỏa ngục sẽ nuốt hết các người, đồ hèn nhát! – Như muốn tìm người hỗ trợ, Huynh quay lại thì gặp tôi, và la lên, – Adso ơi, Thư viện… Thư viện… Thư viện… – Không đợi tôi trả lời, Huynh chạy đến chân cầu thang và liều lĩnh lao vào đám khói. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Benno.
Tôi nghe phía trên có tiếng răng rắc. Gạch đá, vôi vữa rớt từ trên phòng Thư tịch xuống. Viên đá ở đỉnh vòm, chạm hình một bông hoa, long ra và gần suýt rơi xuống đầu tôi. Nền của Mê cung đang sụp xuống.
Tôi lao xuống, chạy ra ngoài trời. Vài tôi tớ sốt sắng đem thang cố lao vào các tầng trên để đưa nước lên. Nhưng thang cao nhất chỉ vừa chạm đến cửa sổ phòng thư tịch, những người đã leo lên không thể từ ngoài mở cửa sổ được. Họ gọi với xuống, bảo người vào trong mở, nhưng đến lúc này thì chẳng ai dám lên đó nữa.
Tôi ngước nhìn các cửa sổ ở tầng thượng. Toàn thư viện bây giờ đã biến thành một hỏa lò ngút khói, lửa túa từ phòng này sang phòng khác, cháy tràn qua hàng ngàn quyển sách khô giòn. Mọi cửa sổ đều rực lửa, mái Đại Dinh bốc khói đen ngòm: lửa đã lan đến các sà nhà. Tòa Đại Dinh, bên ngoài trông hùng dũng, bên trong thì rạn nứt, mục rã, đá thì nát bấy để cho lửa táp vào bất cứ chỗ nào có gỗ.
Đột nhiên tựa như vì một lực bên trong ép xuống, vài cửa sổ vỡ nát, các tàn lửa bay lên không trung, điểm những đốm sáng chấp chới lên màn đêm. Cơn cuồng phong đã dịu hơn, đó là một điều bất hạnh, vì nếu mạnh, nó có thể dập tắt các đốm lửa, nhưng vì gió nhẹ nên nó thổi chúng bùng lên, rồi mang đi, cuốn theo các mảnh giấy da bay lên trời. Một tiếng nổ vang lên: sàn của Mê cung ở đâu đó sụp xuống nền nhà dưới. Bây giờ tôi trông thấy các ngọn lửa lóe lên từ phòng thư tịch, nơi cũng đầy ắp sách, kệ, giấy rời trên bàn giấy, những thứ sẵn sàng đón nhận tàn lửa. Tôi nghe những người ghi chép đau khổ kêu lên, họ bứt tóc bứt tai, còn toan đánh liều leo lên để cứu những bản da thân yêu. Vô ích! Nhà bếp và nhà ăn bây giờ đông nghẹt những kẻ mất hồn, họ chạy lung tung tứ tán, người này cản trở người kia, họ va vào nhau, té nhào, kẻ xách chậu thì làm đổ nước quí, la dẫn vào nhà bếp đánh hơi thấy lửa bèn nhảy dựng lên, lao ra cửa, đá văng người ta, và cả những người chăn dắt hoảng hốt của chúng nữa. Dẫu sao rõ ràng là đám ô hợp những tên nông nô và những người tuy thông thái ngoan đạo nhưng vụng về, không người điều khiển này đang ngăn cản mọi sự tiếp tay còn lại.

*
* *

Toàn thư viện lâm vào cơn dầu sôi lửa bỏng, nhưng đó mới là phần đầu của thảm kịch. Từ mái nhà và cửa sổ Đại dinh, đám tàn lửa đắc thắng được gió nuôi dưỡng đang từ muôn phía lao xuống mái giáo đường. Ai cũng biết các giáo đường đẹp nhất đều rất kỵ hỏa. Nhà của Chúa trông đẹp và kiên cố như chính đất thánh Jerusalem là nhờ mặt tiền bằng đá phô ra ngoài, còn trần và tường đều dựa theo một cấu trúc bằng gỗ nhẹ và đẹp, và nếu nhà thờ bằng đá với những cột vươn cao thẳng chắc như cây sồi gợi ta nghĩ đến những khu rừng đáng kính nhất, thì gần giáp vòm mái, các cột này thường độn ruột trong bằng gỗ sồi – nhiều đồ đạc trang trí nội thất trong nhà thờ cũng bằng gỗ: bàn thờ, khu hát kinh, ván sơn lát tường, bàn ghế, bục, chân đèn. Trong nhà thờ của Tu viện trưởng, nơi có cánh cửa đã quyến rũ tôi hôm đầu tiên, cũng vậy. Giáo đường phút chốc bén lửa ngay. Các tu sĩ và tất cả mọi người bây giờ đều hiểu sự sinh tồn của tu viện đang lâm nguy, nên hết thảy bèn thục mạng chạy tới, để chống đỡ một hiểm họa mới, cảnh càng hỗn loạn hơn nữa.
Đương nhiên, dễ lọt vào và bảo vệ giáo đường hơn thư viện. Thư viện đã tận số vì chính sự bất khả xâm phạm của nó, vì cái huyền thoại bao giữ nó và vì nó ít cửa vào quá. Giáo đường, nơi mở rộng cánh cửa nhân từ đón mọi người trong giờ hành lễ, giờ mở rộng cho tất cả vào chữa cháy. Nhưng nước đã hết, hay ít ra chẳng tìm được mấy nước trữ nữa, các giếng nước dâng lên theo mức độ chậm chạp tự nhiên không đáp ứng nổi nhu cầu khẩn cấp. Mọi tu sĩ lẽ ra có thể dập tắt được ngọn lửa trong giáo đường nhưng đến lúc này chẳng ai biết làm cách nào nữa. Ngoài ra, lửa lan từ phía trên, nên rất khó đội người lên để dùng bao hay cát dập lửa. Còn khi lửa lan xuống dưới thì có ném đất cát vào cũng vô ích, vì trần nhà sập xuống đè dập nhiều người cứu hỏa.
Thế là thêm vào những tiếng kêu than thương tiếc bao của cải bị thiêu rụi và tiếng kêu đau đớn vì mặt bị phỏng, chân tay dập nát, thân chôn vùi dưới đống gạch đá từ vòm mái cao đổ sập xuống.
Gió lại giận dữ nổi lên, và càng giận dữ thốc tới thổi lan ngọn lửa hơn. Kế tiếp ngay sau giáo đường là dãy nhà kho và chuồng ngựa bắt lửa. Ngựa hoảng hốt giật bứt dây cương, đá sập cửa và chạy toán loạn, vừa chạy vừa rống vừa hí rất khủng khiếp. Tàn lửa bắn lên nhiều bờm ngựa và những con ngựa cháy đỏ đó chạy như điên trong sân như những quái thú dưới địa ngục. Chúng phóng vô định không ngừng và đạp nát mọi vật trên đường đi. Tôi thấy già Alinardo đang lang thang, ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra, bị con ngựa tuyệt đẹp Brunellus lửa cháy quanh mình đá ngã xuống đất. Già bị ngựa kéo trên đất rồi bỏ mặc ở đó, thân tan nát thật tội nghiệp. Nhưng tôi chẳng có thời gian, cũng chẳng có cách nào để cứu hay khóc thương già cả, vì những cảnh tượng tương tự như vậy đang xảy ra khắp nơi.
Những con ngựa bốc cháy đã mang lửa đến những nơi gió chưa chuyển tới kịp: bây giờ các lò rèn và khu nhà tu sinh đang bốc cháy. Từng đoàn người chạy từ đầu này sang đầu kia, dáo dác chẳng biết làm gì. Tôi gặp Nicholas đầu bị thương, áo tả tơi, giờ kiệt sức bó tay, quì xuống đất nguyền rủa. Tôi thấy Pacificus, không còn nghĩ đến chuyện cứu chữa gì nữa, mà cố tóm lấy một con la điên cuồng đang chạy qua. Khi bắt được nó, Huynh hét lên bảo tôi hãy làm như vậy đi, bảo tôi hãy thoát chạy khỏi các cảnh ghê sợ của trận thư hùng Armageddon này đi.
Tôi không biết thầy William đâu rồi và sợ thầy đã mắc kẹt dưới đống tường sập. Tìm kiếm mãi, tôi mới gặp thầy gần nhà dòng. Tay thầy cầm bọc hành lý: khi lửa lan tới khu hành hương, thầy đã chạy về phòng mình để cứu được ít ra là các vật dụng quí giá nhất của mình. Thầy cũng đã thu nhặt bọc hành lý của tôi nên tôi bèn rút áo ra mặc. Chúng tôi ngừng lại, nín thở quan sát diễn biến chung quanh.
Đến bây giờ tu viện đã tiêu vong. Gần như toàn bộ tòa nhà ít nhiều đều bị thiêu cháy. Những tòa nhà chưa bén lửa sẽ không đứng vững được lâu, vì mọi thứ, từ yếu tố thiên nhiên đến công việc chữa cháy hỗn quân hỗn quan, đều góp phần giúp ngọn lửa lan xa. Chỉ có những khu vực không nhà cửa mới an lành: vườn rau, khu vườn ngoài nhà dòng… Không có thể làm gì để cứu tòa nhà được nữa. Bỏ ý nghĩ chữa cháy đi, chúng tôi đứng ngoài trời và có thể an toàn quan sát mọi việc.
Chúng tôi nhìn giáo đường đang rụi dần, những cấu trúc vĩ đại như thế này có đặc tính là phần bằng gỗ bùng cháy rất nhanh, sau đó nó sẽ âm ỉ trong nhiều giờ, đôi khi nhiều ngày. Ngọn lửa trong Đại dinh lại khác. Ở đây, các vật không bắt lửa nhiều hơn, và bà hỏa sau khi lan khắp phòng thư tịch đang tràn xuống bếp. Còn về tầng thượng nơi xưa kia và hàng bao thế kỷ nay là Mê cung, thì nay quả thực đã bị tiêu hủy.
– Đó là thư viện lớn nhất trong xứ đạo. – Thầy William nói, và tiếp. – Bây giờ, tên Phản chúa đã thực sự sẵn sàng vì không có nền học vấn nào ngăn cản hắn nữa. Bởi lẽ đó, đêm nay chúng ta đã nhìn thấy mặt hắn.
– Mặt ai kia? – Tôi sững sờ hỏi.
– Thầy muốn nói mặt Jorge. Trong gương mặt biến dạng vì sự căm ghét triết học, lần đầu tiên thầy thấy chân dung của tên Phản chúa, hắn không đến từ bộ lạc của Judas hay từ một đất nước xa xôi nào đó, như đã được báo hiệu. Tên Phản chúa có thể thoát thai từ chính lòng kính đạo, từ lòng yêu thương Chúa trời hay yêu thương chân lý quá độ, cũng như kẻ dị giáo thoát thai từ thánh nhân, và kẻ bị ám ảnh từ nhà tiên tri vậy. Adso ạ, hãy sợ những nhà tiên tri, và những kẻ sẵn sàng chết cho chân lý, vì nói chung chúng làm người khác chết theo, có khi chết trước chúng, có khi chết thế chúng. Jorge đã làm điều quái quỉ vì lão yêu chân lý của lão một cách quá đê hèn đến độ lão dám làm bất kỳ điều gì để tiêu diệt sự giả trá. Jorge sợ tập hai của Aristotle có lẽ vì nó thực sự dạy làm cách nào để bóp méo gương mặt của mọi sự thật, để chúng ta khỏi trở thành nô lệ cho linh hồn của chính mình nữa. Có lẽ sứ mệnh của những người yêu nhân loại là làm con người cười vào chân lý, là làm chân lý cười lên, vì chân lý duy nhất là học cách giải thoát chúng ta khỏi sự đam mê chân lý một cách điên cuồng.
Tôi buồn bã đánh bạo nói – Nhưng, thưa thầy, bây giờ thầy nói thế vì thầy đang bị tổn thương tận đáy lòng. Tuy nhiên, có một chân lý mà đêm nay thầy đã khám phá được, cái chân lý mà thầy đạt được nhờ giải thích các mấu chốt thầy đọc trong mấy ngày qua. Jorge thắng, nhưng thầy đã hạ lão vì thầy đã vạch trần âm mưu của lão.
– Chẳng có âm mưu nào cả, thầy ngẫu nhiên khám phá ra nó thôi.
Lời tuyên bố tự nó nghe mâu thuẫn, tôi không biết thầy William có thực muốn thế không, bèn nói: – Nhưng quả thực những dấu vết trên tuyết đã dẫn đến con ngựa Brunellus, quả thực Adelmo tự tử, Venantius đúng là chết đuối trong vại, Mê cung đúng là được xây cất theo cách thầy hình dung, người ta vào “finis Africae” nhờ chạm vào chữ “quatuor”, quả thực quyển sách bí mật là của Aristotle… Con có thể kể tiếp tất cả điều đúng mà thầy đã khám phá nhờ kiến thức…
– Thầy không bao giờ hoài nghi chân lý của các dấu hiệu, Adso ạ, đó là những sự vật duy nhất giúp con người tự định hướng trên đường đời. Điều thầy không hiểu là mối tương quan giữa các dấu hiệu. Thầy tìm ra Jorge nhờ cách suy luận theo sách Mặc Khải, mà ngỡ như nó làm cơ sở cho tất cả các án mạng, thế nhưng nó lại chỉ là ngẫu nhiên thôi. Thầy tìm ra Jorge trong khi truy lùng một thủ phạm gây ra mọi án mạng, nhưng lại khám phá rằng mỗi án mạng do một người khác gây ra, hoặc là không do ai gây ra cả. Thầy tìm ra Jorge trong khi đuổi theo kế hoạch của một đầu óc sa đọa nhưng duy lý, thế nhưng chẳng có một kế hoạch nào cả, hay đúng hơn, chính Jorge cũng không giữ được kế hoạch ban đầu, rồi từ đó bắt đầu một loạt các nguyên nhân và phản nguyên nhân, các nguyên nhân mâu thuẫn với nhau và tự chúng diễn tiến và tạo nên những mối tương quan không phát xuất từ một kế hoạch nào cả. Thế thì thầy có khôn ngoan gì đâu? Thầy ngoan cố theo đuổi một loại trật tự giống nhau, mà đáng lẽ thầy phải hiểu rằng trong vũ trụ này không có trật tự.
Lúc đó một góc mái nhà nghỉ đổ rầm xuống, tung lên trời một đám lửa. Vài con cừu, dê chạy thất thểu trước mặt chúng tôi kêu lên thảm thiết. Một nhóm tôi tớ chạy ngang qua, họ la hét, suýt hất chúng tôi ngã nhào.
Thầy William bảo: – Hỗn loạn quá.

Trang cuối cùng

Tu viện cháy trong ba ngày ba đêm, và các nỗ lực cứu chữa cuối cùng đều vô ích. Vào sáng ngày thứ bảy chúng tôi lưu lại đó, khi những người sống sót hiểu rõ rằng chẳng còn giữ nổi tòa nhà nào nữa, khi những kiến trúc đẹp nhất chỉ còn trơ lại bức tường ngoài, và giáo đường nuốt dần các ngọn tháp của nó như tự thu mình vào – ngay đến giây phút đó, ý chí chiến đấu của mọi người nhằm chống lại sự trừng phạt của Chúa đã thất bại. Nhà nguyện và các căn phòng tuyệt đẹp của Tu viện trưởng vẫn đang bốc cháy, mà việc chạy đi lấy những thùng nước cuối cùng đã chán nản rã rời. Lúc này ngọn lửa đã lan đến tận các xưởng làm việc, tôi tớ từ lâu đã cố chạy đồ đạc của họ và phóng ra làng quê để bắt lại vài súc vật đã trốn khỏi tu viện trong đêm hoảng loạn.
Tôi thấy vài tôi tớ liều lao vào phần còn lại của giáo đường, tôi chắc họ định xuống hầm kho tàng để chộp lấy vài món quí giá trước khi bỏ chạy. Tôi không biết họ có thành công không, hay hầm đã sụp xuống rồi, hay họ đã bị vùi vào lòng đất khi cố đến được kho tàng.
Trong khi đó, dân quê trong làng đã chạy đến cứu viện hay để hôi của. Các người chết phần lớn vẫn ở trong đống tàn tích còn nóng đỏ. Vào ngày thứ ba, sau khi băng bó cho các người bị thương và chôn cất những xác chết tìm thấy bên ngoài, các tu sĩ và mọi người khác thu nhặt đồ đạc của mình và rời bỏ tu viện còn ngút khói như một nơi bị nguyền rủa. Họ tản đi đến phương trời nào tôi chẳng biết.
Thầy trò tôi lên đường trên hai con ngựa chạy lạc trong rừng, trực chỉ hướng đông. Khi đến Bobbio, chúng tôi bắt đầu nghe những tin xấu về Hoàng đế. Khi đến Pomposa, chúng tôi nghe La Mã đã nổi dậy chống vua Louis khiến Ngài lui trở lại Pisa, trong khi đó các giáo sĩ đại diện John đắc thắng tiến vào thành phố Thánh.
Trong khi đó, Michael xứ Cesena biết rằng sự có mặt của mình tại Avignon sẽ chẳng mang lại kết quả nào – thực ra, Cha sợ mất mạng – nên đã bỏ trốn về Pisa với vua Louis.
Chẳng bao lâu sau, tiên đoán thời cuộc và biết Vua sẽ tiến về Munich, chúng tôi đổi hướng và quyết định sẽ đến đó trước, vì thầy William linh cảm thầy sẽ không an toàn ở Ý. Trong những năm tháng kế tiếp, các lãnh chúa Ghibelline thôi không ủng hộ vua Louis nữa.
Khi chúng tôi đến Munich, tôi nức nở tiễn biệt thầy William. Số mạng của thầy bấp bênh quá, nên gia đình muốn tôi phải quay về Melk. Sau cái đêm đau thương tại tu viện, chúng tôi như ngầm thỏa thuận với nhau không nhắc đến câu chuyện ấy nữa. Chúng tôi cũng chẳng đề cập gì đến nó khi buồn bã chia tay nhau.
Thầy ban cho tôi nhiều lời khuyên quí giá về đường học vấn tương lai, và tặng tôi cặp kính Nicholas đã làm, vì thầy đã lấy lại cặp kính cũ. Thầy bảo tôi còn trẻ, nhưng một ngày kia, nó sẽ trở nên hữu dụng (và quả thực khi viết những dòng này, tôi đang đeo kính). Rồi thầy âu yếm ôm tôi như một người cha thương yêu và bảo tôi lên đường.
Tôi chẳng bao giờ gặp lại thầy nữa. Rất lâu sau, tôi nghe nói thầy đã chết trong trận dịch lớn hoành hành khắp Âu Châu khoảng giữa thế kỷ này. Tôi luôn cầu nguyện Chúa sẽ đón nhận linh hồn thầy và tha thứ cho thầy nhiều hành động kiêu hãnh mà tính cao ngạo trí thức của thầy đã gây ra.

*
* *

Nhiều năm sau, khi đã trưởng thành, tôi có dịp được Tu viện trưởng của mình phái về Ý công cán. Tôi không cưỡng nổi cơ may này, và trên đường về tôi rẽ về thăm lại tàn tích của tu viện.
Hai ngôi làng trên sườn núi đã hoang vắng, đất bỏ hoang không ai cày cấy. Khi tôi leo lên đỉnh núi, cảnh hoang tàn chết chóc hiện ra khiến mắt tôi mờ lệ.
Những cấu trúc vĩ đại tráng lệ xưa kia mọc sừng sững nơi đây, giờ chỉ trơ lại những mảnh đổ nát, như trước đây đã xảy ra với các tượng đài của những người đa thần cổ đại ở La Mã. Dây leo quấn chằng chịt lên các mảng tường, cột còn nguyên. Cỏ dại mọc tràn lan muôn phía, chẳng còn biết vườn rau, vườn hoa xưa đâu nữa. Chỉ có nghĩa trang là còn nhận ra được, vì vài nấm mồ vẫn còn nhô cao khỏi mặt đất. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là vài con chim ăn thịt đang săn thằn lằn và rắn, những con vật giống rắn thần đang trườn đi giữa những khe đá hay bò trên tường. Cánh cửa giáo đường chỉ còn lại vài mẩu mốc meo. Phân nửa vòm mạng trung tâm vẫn còn, và tôi liếc thấy trong đó con mắt trái của Chúa ngồi trên ngai và vài nét trên bộ mặt sư tử, chúng đã bị các yếu tố thiên nhiên làm giãn nở ra và bị địa y bao phủ.
Đại Dinh, trừ tường phía nam bị tàn phá, dường như vẫn đứng vững với thời gian. Hai ngọn tháp trên vực đá trông như không hề suy suyển, chỉ trừ các cửa sổ bây giờ là những hố mắt trống hốc đang chảy những hàng lệ là các dây leo mục rữa. Bên trong, công trình nghệ thuật bị tàn phá nhào trộn với công trình thiên nhiên, và qua khoảng diện tích bao la của nhà bếp, mắt tôi nhìn suốt lên tận trời xanh qua vùng trống của các tầng trên và mái nhà, đã sụp xuống như các thiên thần giáng thế. Những thứ chưa xanh rêu thì vẫn ám khói đen của nhiều thập niên về trước.
Lang thang trong đống gạch vụn, tôi thỉnh thoảng lại thấy những mảnh giấy da đã bay từ phòng thư tịch và thư viện xuống, và tồn tại như những châu ngọc chôn dưới đất. Tôi nhặt nhạnh chúng, tựa như sắp khâu lại các trang giấy bị bứt rời trong một quyển sách. Rồi tôi để ý thấy trong một ngọn tháp có một cầu thang trôn ốc dẫn lên phòng thư tịch, tuy rung rinh nhưng vẫn nguyên vẹn, từ đây, leo lên một núi đá vụn, tôi đến được tầng thư viện, thế nhưng nó chỉ còn một hành lang sát với tường ngoài, nhìn xuống cảnh tan hoang khắp phía.
Dọc theo một bức tường, tôi bắt gặp một kệ sách bị nước và mối ăn mòn mà không hiểu sao đã thắng được lửa để đứng thẳng thật diệu kỳ. Trong kệ vẫn còn vài trang sách. Các trang sống sót khác tôi nhặt được nhờ lục lọi khắp trong đống đổ nát bên dưới. Tôi đã bỏ cả ngày để gặt, tuy chẳng thu được bao nhiêu, tựa như từ những hạt ký ức về Thư viện sẽ nảy lên cho tôi một thông điệp nào đó. Vài mẩu giấy da đã phai mờ, vài mảnh khác cho ta cái bóng của một hình ảnh nào đó, hay tinh anh của một hai chữ. Đôi khi tôi nhặt được những trang giấy còn nguyên cả câu, còn thường thì nhặt được các bìa còn nguyên, xưa kia được bảo vệ nhờ các đinh kim loại đầu lớn… Những quyển sách ma, xác còn nhưng hồn đã tiêu tán, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi lại vớt được nửa trang giấy, trong đó nhận ra được tựa sách, hay chữ đầu tựa.
Tôi thhu góp mọi thánh tích nhặt được, xếp chúng đầy hai bọc hành lý và vất bỏ các dụng cụ khác để cứu lấy kho tàng bất hạnh này.
Trên đường về, và sau này tại Melk, tôi bỏ ra nhiều giờ cố đọc những mẩu giấy sót lại này. Từ một chữ hay hình ảnh, tôi thường nhận ra được nó thuộc tác phẩm nào. Về sau, khi tôi tìm được các bản sao khác của những tác phẩm đó, tôi âu yếm nghiên cứu chúng, như thể số mệnh đã để lại cho tôi di sản này. Cuối thời gian tái tạo kiên nhẫn của tôi, tôi có trước mặt một thư viện nhỏ, biểu tượng của một thư viện lớn hơn đã tan biến, một thư viện bằng các mảnh giấy, trích dẫn, câu viết dang dở và các thân thể sách què cụt.

o0o

Tôi càng đọc đi đọc lại các danh mục này thì càng tin rằng nó chỉ là một kết quả ngẫu nhiên và chẳng chứa đựng một thông điệp nào cả. Nhưng những trang sách không toàn vẹn đó đã theo tôi suốt quãng đời còn lại. Tôi thường giở chúng ra xem như một lời sấm truyền, và gần như tin rằng những gì tôi viết trên những trang giấy này mà quí vị độc giả chưa quen nào đó đang đọc, chỉ là một bài thơ chắp vá, một bài thánh ca tưởng tượng, một bài acrostic [1] bao la, mà chẳng nói lên hay nhắc lại điều gì ngoài những ý các mẩu sách đó đã gợi cho tôi. Tôi cũng không biết mình đã nói về chúng hay chúng nói qua miệng mình bao xa. Nhưng dù bất kỳ một trong hai khả năng này đúng đi nữa, tôi càng nhủ lòng câu chuyện này phát sinh từ chúng bao nhiêu, thì tôi càng không hiểu phải chăng có một mưu định vượt ra ngoài diễn biến tự nhiên của các sự kiện và các thời gian đan nối chúng với nhau hay không. Một tu sĩ già, trên ngưỡng cửa của cái chết mà không biết dòng chữ mình viết có ẩn chứa một ý nghĩa, hay hơn, hay nhiều, hay chẳng có ý nghĩa nào hết, thì quả là một điều đau lòng.
Nhưng việc tôi không có khả năng để nhận biết này có lẽ là do tác dụng của cái bóng, mà màn đen vĩ đại khi đến gần, đang phủ lên thế gian già nua.
Vinh quang của Thành Babylon nay đâu rồi? Tuyết trắng năm xưa đâu? Thế giới đang quay cuồng điệu múa của Macabré, có lúc tôi nghĩ sông Danube đang đầy nghẹt tàu bè chở đầy những kẻ ngốc đi về một miền tối tăm.
Bây giờ tôi chỉ còn biết yên lặng. Thật lành mạnh biết bao, thật vui thú và ngọt ngào biết bao được ngồi trong cô tịch và nói chuyện cùng Thiên Chúa [2].
Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ quay về căn nguyên của mình, và tôi không còn tin đó là Chúa vinh quang mà các tu viện trường dòng tôi đã nói đến, hay là nơi hân hoan như dòng Khất thực ngày đó vẫn tin tưởng, mà có lẽ cũng chẳng phải nơi thành kính nữa… Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi vào sa mạc mênh mông, bằng phẳng và vô tận, nơi trái tim thành tâm kính đạo hưởng hạnh phúc. Tôi sẽ rơi vào bóng tối thánh thiện, vào cõi thinh lặng và hợp nhất khôn tả, khi rơi xuống mọi điều bình đẳng, bất công sẽ mất hết và trong vực sâu ấy linh hồn tôi sẽ tự biến đi chẳng còn biết điều bình đẳng, bất công hay thứ gì khác nữa, và sẽ lãng quên đi mọi sự phân biệt. Tôi sẽ ngự trong một miền đơn giản, trong một hoang mạc yên lặng, không tìm thấy sự phân biệt, trong cõi riêng tư nơi không ai tìm cho mình một chỗ biệt lập. Tôi sẽ về nước Chúa thanh tịnh, yên vắng, thư nhàn, và vô ảnh.

*
* *

Phòng thư tịch lạnh quá, ngón tay tôi nhức buốt. Tôi để lại bản viết này, chẳng biết cho ai. Tôi chẳng còn biết nó viết về điều gì nữa: stat rosa pristina nomina, nomina nuda tenemus, bông hồng xa xưa còn tồn tại nhờ cái tên, và chúng tôi chỉ giữ lại mỗi một cái tên thôi.

Chú thích :

[1] Một loại bài thơ nếu ghép các mẫu tự đầu hay cuối của các dòng thơ lại sẽ có một từ hay một danh ngôn.
[2] O quam salubre, quam iucundum et suave est sedere in solitudine et tacere et loqui cum Deo.

HẾT



[8] de toto corpore fecerat linguam

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG (ngày thứ sáu) – UMBERTO ECO

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 16:45
Dịch giả: Đặng Thu Hương

NGÀY THỨ SÁU

KINH SỚM

Các hoàng tử thống trị,
và Malachi sụp xuống đất.

Chúng tôi đi xuống dự Kinh Sớm. Phần cuối đêm, và thực ra là đầu một ngày mới, vẫn còn mù sương. Khi băng qua nhà dòng, hơi lạnh thấm buốt thấu xương tôi, vốn vẫn còn đau nhức sau một đêm trằn trọc. Mặc dù trong giáo đường rất lạnh, tôi khoan khoái được quì dưới vòm mái ngăn cách với thiên nhiên bên ngoài, lòng thấy khuây khoả nhờ hơi ấm toả ra từ những thân người, và nhờ Kinh cầu.
Khúc ca vịnh vừa cất lên thì thầy William chỉ vào chỗ ngồi đối diện chúng tôi: chiếc ghế giữa Jorge và Pacificus bỏ trống. Đó là chỗ của Malachi, người luôn luôn ngồi bên lão già mù. Chúng tôi không phải là những người duy nhất để ý đến sự vắng mặt đó. Phía bên này, tôi thấy Tu viện trưởng lo lắng liếc mắt nhìn, mà ai cũng thừa biết rằng những sự vắng mặt luôn luôn báo hiệu một tin dữ. Phía bên kia, tôi thấy già Jorge lộ vẻ bồn chồn khác thường. Gương mặt vốn vẫn vô cùng bí hiểm vì đôi mắt trắng dã, bây giờ hầu như tối sầm lại, nhưng đôi tay lão thì cứ cuống quýt bất an. Quả thật, lão cứ đưa tay sờ soạng chiếc ghế bên cạnh xem có ai ngồi không. Chốc chốc lão lại quờ tay sang, tựa như người vắng mặt sẽ hiện ra bất kỳ lúc nào nhưng lão sợ sẽ không thấy.
Tôi thầm thì hỏi thầy William:
–         Quản thư viện đâu rồi?
–         Malachi bây giờ là người duy nhất sở hữu quyển sách. Nếu Huynh ấy không gây ra các án mạng, thì có lẽ Huynh ấy không biết những nguy hiểm chứa đựng trong quyển sách…
Chẳng còn gì để bàn thêm. Chúng tôi đành phải đợi: Thày trò tôi, Tu viện trưởng, – người cứ nhìn trân trân vào chiếc ghế trống, – và Jorge, người mãi sờ soạng đôi tay hỏi vào bóng đêm
Khi gần đến cuối Kinh sớm, Tu viện trưởng nhắc nhở các tu sĩ và tu sinh cần phải chuẩn bị cho ngày lễ trọng Giáng sinh. Do đó, theo thông lệ, khoảng thời gian trước Kinh Ngợi khen sẽ được dùng để toàn cộng đồng tập hoà âm các khúc thánh ca đã được qui định hát trong dịp này. Tập thể những người con kính đạo này đã được luyện thành một nhất thể, một giọng hoà hợp, trải qua quá trình dài nhiều năm, họ đã công nhận khi cất tiếng hát, linh hồn của họ thảy đều hoá làm một.
Tu viện trưởng mời mọi người ca bài “Sederunt”
Sederunt principes
et adversus me
lo quebantur, iniqui
persecuti sunt me.
Adiuva me, Domine
Deus meus, salvum me
fac propter magnam misericordiam tuam (1)
Tôi tự hỏi không biết Tu viện trưởng có cố tình chọn hát bài này trong đêm nay không, tiếng kêu than của những kẻ bị bách hại cầu khẩn Chúa cứu vớt khỏi tay những ông hoàng bất nhân. Đằng kia, các sứ giả của ông Hoàng vẫn đang ngồi dự kinh lễ, nghe nhắc lại làm thế nào mà hàng bao thế kỷ nay dòng tu của chúng tôi đã nhanh chóng chống lại sự bách hại của những kẻ quyền thế, nhờ sợi dây liên hệ đặc biệt với “Thượng Đế”. Quả thật, đoạn đầu của khúc ca đã tạo nên một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ.
Khi từ “Sederunt” vừa mới trĩu nặng thoát ra, thì từ “Principes” đã bay bổng lên không trung bằng một giọng thanh tao hùng tráng và thiên thần. Tôi chẳng còn thắc mắc ai là kẻ có quyền thế đang lên tiếng chống lại mình nữa, cái bóng của con ma đe doạ đang ngồi đó đã tan đi, biến mất.
Tôi tin rằng lúc đó các bóng ma khác cũng đã tan biến, vì sau khi tâm trí bị khúc ca cuốn hút, tôi nhìn lại chỗ ngồi của Malachi thì thấy hình dáng quản thư viện trong số những người khác đang cầu kinh, như thể trước đây Huynh ấy vẫn có mặt. Tôi nhìn thầy William và thấy mắt thầy lộ vẻ an tâm, vẻ an tâm mà từ đằng xa tôi cũng thấy đang hiện lên trong đôi mắt Tu viện trưởng. Còn Jorge, lão một lần nữa lại quơ tay sang bên cạnh, và khi đụng phải thân hình người ngồi kế bên giật tay về ngay. Tôi không biết lòng lão dấy lên cảm xúc gì.
Bây giờ ca đoàn đang hoan hỉ cất lên khúc “Adiuva me” trong đó âm “a” trong sáng hồ hởi vang lên khắp nhà thờ, và âm “u” không nghe âm u như trong từ “Seredunt”, mà đầy khí thế thiêng liêng. Nguyên tắc buộc tu sĩ và tu sinh khi hát phải ngồi ngay người, bạnh cổ, nhìn thẳng, quyển sách ca được đặt gần ngang tầm vai nên họ có thể đọc mà không cần cúi đầu, thế nên hơi thở từ lồng ngực thoát ra một cách thoải mái. Nhưng lúc ấy vẫn còn về đêm, nên dù các hồi kèn đang vang reo nhiều người hát vẫn còn ngái ngủ, họ chìm đắm trong những nốt ngân dài, dựa vào các âm ba của ca khúc để chốc chốc gục lên gục xuống. Ngay trong tình huống đó, những người đánh thức dùng đèn soi sáng từng bộ mặt để lay cả xác lẫn hồn tỉnh dậy.

o0o

Bằng cách đó, một trong những người đi đánh thức đã thoạt tiên nhận thấy Malachi đang lắc lư một cách lạ lùng, tựa như Huynh ấy đột nhiên chìm đắm vào làn sương Cimmerius (2) của giấc ngủ mà có lẽ đêm qua không hưởng được. Người đánh thức tiến về phía Malachi, đưa đèn lên soi khuôn mặt. Sự kiện này khiến tôi để ý. Quản thư viện ngồi bất động. Người ấy chạm vào mình y và Malachi nặng nề ngã chúi tới trước. Người đánh thức chỉ vừa kịp giữ Huynh ấy lại trước khi té xuống đất.
Khúc ca khựng lại, giọng hát tắt ngấm, có một thoáng bàng hoàng. William rời chỗ, phóng ngay đến nơi Pacificus và người đánh thức đang đặt Malachi xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
Thầy trò tôi đến đó gần như cùng một lúc với Tu viện trưởng, và dưới ánh đèn, chúng tôi nhìn thấy gương mặt kẻ xấu số. Tôi đã miêu tả diện mạo Malachi, nhưng đêm nay, dưới ánh đèn, nó mới chính là hình ảnh của thần chết: cái mũi nhọn, đôi mắt sâu hoắm, thái dương trũng xuống, tai trắng bệch nhăn nhúm, trái tai quay ra ngoài, da mặt cứng đờ, căng và khô, gò má vàng khè đầy những đốm bầm. Mắt vẫn mở và hơi thở thoi thóp thoát ra từ đôi môi khô héo. Huynh ấy há hốc mồm, và khi thầy William cúi xuống, tôi từ đằng sau cũng khom người và trông thấy cái lưỡi đen sì ngọ nguậy giữa hai hàm răng. Thầy William quàng tay qua vai Malachi nâng Huynh ấy dậy, tay kia lau lớp mồ hôi nhễ nhại trên vầng trán. Malachi cảm thấy ai đó hiện diện chạm đến mình, Huynh nhìn trừng trừng trước mặt, nhưng chắc chắn không thấy gì, không nhận ra ai. Huynh giơ bàn tay run rẩy lên nắm lấy ngực thầy William, kéo mặt thầy xuống gần sát mặt mình, rồi bằng một giọng khàn khàn yếu ớt thốt lên vài lời:
–         Huynh ấy bảo tôi… thật… Nó có sức mạnh của hàng ngàn con bọ cạp…
–         Ai bảo Huynh? Ai?
Malachi lại cố gắng nói. Nhưng toàn thân run bần bật, đầu gục về phía sau. Mặt thất sắc, mất hết cả sức sống. Huynh ấy đã chết.
Thầy William đứng lên, trông thấy Tu viện trưởng bên cạnh, nhưng chẳng nói lời nào. Đoạn thầy trông thấy Bernard Gui sau lưng Tu viện trưởng, bèn hỏi:
–         Thưa Ngài Bernard, ai đã giết người này, sau khi Ngài đã khôn khéo tìm ra và giam giữ những kẻ sát nhân?
–         Đừng hỏi tôi. Tôi chưa bao giờ tuyên bố đã tống giam tất cả những tên tội phạm đang tung hoành trong tu viện này. Nếu có khả năng, tôi sẵn lòng làm điều đó. – Hắn nhìn thầy William – Nhưng bây giờ tôi sẽ giao những tên đó cho sự nghiêm khắc… hay sự khoan dung quá độ của Cha Tu viện trưởng
Tu viện trưởng tái mặt, im lặng. Sau đó Bernard bỏ đi.
Ngay lúc đó, chúng tôi nghe có tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào. Đó là Jorge, đang quì trên ghế. Một tu sĩ đang đỡ Huynh, ắt hẳn người ấy đã kể lại sự việc vừa xảy ra. Giọng Jorge đứt quãng:
–         Sẽ không bao giờ chấm dứt… Chúa ơi… hãy tha thứ cho tất cả chúng con!
Thầy William cúi xuống nhìn xác chết thêm một lúc, cầm cổ tay và quay lòng bàn tay về phía ánh sáng. Đầu ba ngón tay đầu tiên của bàn tay mặt tím bầm.

Chú thích:
(1) Các ông Hoàng ngồi xuống
Và lên tiếng chống lại con
những kẻ bất nhân
bách hại con
Lạy chúa, Chúa của con
Xin giúp con
Xin Chúa mở lòng từ bi hải hà
cứu thoát con
(2) Một dân tộc huyền thoại sống trên một vùng đất được Homer miêu tả là vĩnh viễn bị sương mù và bóng tối bao phủ.

KINH NGỢI KHEN

Chọn một quản hầm mới,
nhưng chưa tìm ra quản thư mới.

Đã đến Kinh Ngợi Khen rồi ư? Nó đến sớm hay muộn hơn? Từ lúc đó, tôi mất hết ý niệm về thời gian. Có lẽ nhiều giờ đã trôi qua, hay có thể ít hơn, trong thời gian này xác Malachi được đặt trên một cái bục trong nhà thờ, các tu sĩ quây một vòng bán nguyệt xung quanh. Tu viện trưởng ra lệnh chôn cất ngay. Tôi nghe Cha gọi Benno và Nicholas đến. Cha nói trong chưa đầy một ngày mà tu viện đã mất một quản thư viện và một quản hầm. Cha bảo Nicholas:
– Con sẽ đảm trách nhiệm vụ của Remigio. Con biết công việc của nhiều người trong tu viện này. Chỉ định ai đó thay con phụ trách lò rèn, và cung cấp lương thực hôm nay ngay cho nhà bếp và nhà ăn. Con được phép khỏi dự kinh lễ. Đi đi.
Rồi Cha bảo Benno:
– Con vừa được bổ nhiệm làm phụ tá của Malachi hôm qua. Hãy mở cửa phòng thư tịch và nhớ đừng để ai lên thư viện một mình.
Benno thẹn thùng nêu lên rằng mình chưa được cho biết những bí mật của chốn đó. Tu viện trưởng trừng mắt nhìn Benno:
– Không ai bảo con sẽ được phép biết. Con phải lo cho công việc được tiến hành, và xem đó như một lời cầu nguyện cho các Sư huynh quá cố… và cho những ai sẽ phải chết. Mỗi một tu sĩ chỉ được làm việc trên những quyển sách đã trao cho mình. Ai cần sách thì cứ tra bản thư mục. Thế là đủ. Con được miễn dự Kinh Chiều, vì lúc ấy con phải khoá hết mọi cửa.
– Nhưng làm thế nào con ra được?
– Câu hỏi hay đấy. Cha sẽ khoá các cửa dưới sau bữa ăn tối. Thôi đi đi!
Benno bước ra nhưng tránh mặt thầy William đang muốn nói chuyện với Huynh. Trong khu hát kinh chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại: Alinardo, Pacificus, Aymaro, và Peter. Aymaro khinh khỉnh nói:
– Chúng ta hãy tạ ơn Chúa! Tên người Đức chết rồi, có nguy cơ sẽ có một quản thư viện mới còn dã man hơn.
Thầy William hỏi:
– Huynh nghĩ ai sẽ được chỉ định giữ chức này.
Peter mỉm cười bí hiểm:
– Sau các diễn biến trong những ngày qua, vấn đề không còn là quản thư viện, mà là Tu viện trưởng…
– Suỵt. – Pacificus nói:
Alinardo, với vẻ trầm tư cố hữu nói: – Họ sẽ hành động bất công một lần nữa… như hồi thời của ta vậy. Phải chận đứng họ lại.
– Ai? – Thầy William hỏi. Pacificus thân mật nắm lấy tay thầy dắt về hướng cửa, xa khỏi cụ già.
– Alinardo… như Huynh biết… Chúng tôi thương lão Huynh ấy lắm. Đối với chúng tôi, già ấy tượng trưng cho truyền thống cũ và thời hoàng kim của tu viện. Nhưng đôi khi già phát biểu mà không hiểu điều mình nói. Chúng tôi đều lo lắng về một quản thư viện mới. Người ấy phải xứng đáng, chín chắn và khôn ngoan… Tất cả chỉ cần thế thôi.
– Người ấy có cần thiết biết tiếng Hy Lạp không?
– Và cả tiếng Ả Rập, theo truyền thống bắt buộc: chức vụ này đòi hỏi vậy. Nhưng trong số chúng tôi có rất nhiều người hội đủ khả năng này. Có thể nói là có tôi, Peter và Aymaro…
– Benno cũng biết tiếng Hy Lạp.
– Benno thì quá trẻ. Tôi không hiểu sao hôm qua Malachi lại chọn Huynh ấy làm phụ tá, nhưng…
– Thế Adelmo có biết tiếng Hy Lạp không?
– Tôi nghĩ là không. Không, chắc là không.
– Nhưng Venantius và Berengar biết tiếng Hy Lạp. Thôi được rồi, cảm ơn Huynh.
Chúng tôi bỏ xuống bếp tìm cái gì ăn. Tôi hỏi:
– Sao thầy lại muốn tìm hiểu ai biết tiếng Hy Lạp?
– Vì tất cả những ai chết có ngón tay bầm tím đều biết tiếng Hy Lạp. Do đó, có thể chắc rằng kẻ chết kế tiếp sẽ ở trong số những người biết tiếng Hy Lạp. Kể cả thầy nữa. Con được an toàn.
– Thế thầy nghĩ gì về những lời cuối cùng của Malachi?
– Con đã nghe mà…. Bọ cạp. Hồi kèn thứ năm, trong số nhiều điều khác, có báo hiệu một bầy cào cào sẽ đến dày xéo con người bằng những nọc độc như nọc bọ cạp. Và Malachi cho chúng ta hay rằng, ai đó đã cảnh báo trước cho Huynh ấy biết.
– Hồi kèn thứ sáu báo hiệu ngựa đầu sư tử, miệng phun khói lửa, lưu huỳnh, người cỡi mặc áo giáp màu đỏ rực, ngọc da cam và lưu huỳnh.
– Nhiều thứ quá. Nhưng án mạng kế tiếp có thể xảy ra cạnh chuồng ngựa. Chúng ta phải canh chừng nó. Và chúng ta phải chuẩn bị cho loạt kèn thứ bảy. Sẽ còn hai nạn nhân nữa. Ai có thể bị chọn lựa nhỉ? Nếu mục tiêu là bí mật của “Finis Africae” thì những kẻ biết bí mật sẽ bị chọn. Theo thầy nghĩ, chỉ có thể là Tu viện trưởng, trừ phi âm mưu nhằm một mục tiêu khác. Con vừa nghe họ lập mưu lật đổ Tu viện trưởng, nhưng Alinardo dùng chữ “họ”…
– – Phải báo cáo Tu viện trưởng.
– Báo cáo gì? Rằng họ sẽ giết Cha à? Thầy không có bằng chứng rõ ràng. Thầy tiến hành như thể cùng nghĩ như kẻ sát nhân. Nhưng nếu hắn theo đuổi một phương án khác thì sao? Và nhất là, nếu không phải chỉ có một kẻ sát nhân?
– Thầy muốn nói gì?
– Thầy không chắc. Nhưng như thầy đã bảo, chúng ta phải tưởng tượng mọi tình huống có thể xảy ra, và mọi điều xáo trộn.

KINH ĐẦU

Nicholas kể nhiều điều
khi thầy tôi đến thăm
hầm kho tàng

Nicholas nhận trách nhiệm mới là quản hầm, Huynh đang ban chỉ thị cho các đầu bếp và họ báo cáo cho Huynh nghe các hoạt động của nhà bếp. Thầy William muốn nói chuyện với Nicholas, nhưng Huynh bảo chúng tôi đợi một lát, cho đến khi Huynh xuống hầm kho tàng để trông coi việc đánh bóng các hộp kính, vì đó vẫn còn là nhiệm vụ của Huynh. Ở đấy, chúng tôi sẽ có nhiều thì giờ để nói chuyện hơn.
Quả nhiên, một lát sau, Nicholas bảo chúng tôi đi theo, Huynh đi vào nhà thờ, đi ra sau bàn thờ chính xuống một cầu thang nhỏ trong khi đó các tu sĩ đang dựng bục đặt quan tài trong gian giữa giáo đường để canh xác Malachi. Đến cuối thang, chúng tôi lọt vào một căn phòng có vòm trần rất thấp, chống đỡ bằng những cột to bằng đá thô. Chúng tôi đang ở trong nhà hầm, nơi cất giữ tài sản của tu viện, nơi Tu viện trưởng bo bo giữ gìn và chỉ cho phép mở cửa trong những dịp thật đặc biệt đón khách quý.
Khắp nơi là các hộp đủ cỡ, trong đó chứa những báu vật đẹp lộng lẫy rực sáng lên dưới ánh đuốc của hai người phụ tá tin cẩn của Nicholas, những bộ trang phục bằng vàng, vương miện vàng nạm ngọc, rương bằng nhiều kim loại khác nhau có chạm hình, những đồ bằng ngà và men huyền. Nicholas khoái trá đưa chúng tôi xem một quyển Phúc âm bìa làm bằng những miếng men cực đẹp, gồm những chương được sắp xếp theo thứ tự và sơn màu khác nhau, có viền vàng và chạm trổ lộng lẫy, đóng lại bằng đá núi hình như cái đinh. Huynh còn cho chúng tôi xem một bộ tranh ngà cẩn vàng gồm năm bức, vẽ năm cảnh của cuộc đời Chúa Ki-tô, ở chính giữa có một ngọn đèn thần, gồm những ngăn mạ bạc cẩn kính, một hình ảnh duy nhất đầy màu sắc trên nền màu bạch lạp.
Khi Nicholas khoe với chúng tôi những vật này, gương mặt và cử chỉ của Huynh rạng rỡ, đầy vẻ tự hào. Thầy William ca ngợi những vật vừa được xem, rồi hỏi Nicholas: Malachi là loại người thế nào.
Nicholas liếm một ngón tay và chà lên một mặt pha lê chưa được đánh bóng kỹ, rồi không nhìn thầy, gượng cười đáp:
– Nhiều người bảo Malachi là người sâu sắc, nhưng ngược lại, Huynh ấy rất nông cạn. Còn Alinardo cho Huynh ấy là một tên ngốc.
– Alinardo có oán thù gì với một kẻ nào đó thời xa xưa khi Huynh ấy bị từ chối không cho làm quản thư viện không?
– Tôi cũng nghe nói như vậy, nhưng đó là chuyện xưa, ít ra là năm mươi năm rồi. Khi tôi đến đây thì quản thư viện là Robert xứ Bobbio, và các tu sĩ có xầm xì về việc bất công đối với Alinardo. Robert có một phụ tá, sau này đã chết, và Malachi tuy còn rất trẻ lại được bổ nhiệm thay thế người ấy. Nhiều người cho rằng Malachi không xứng đáng, mặc dù Huynh ấy tuyên bố mình biết tiếng Hy Lạp và Ả Rập nhưng không đúng. Huynh ấy chỉ giỏi bắt chước và sao lại các bản viết bằng những ngôn ngữ ấy với tuồng chữ thật đẹp, mà chẳng biết mình đang chép gì. Alinardo nói bóng gió rằng Malachi được bổ nhiệm vào chức đó để ủng hộ mưu đồ của kẻ thù của Alinardo. Nhưng tôi không hiểu lão Huynh ấy định ám chỉ ai. Đó là toàn bộ câu chuyện. Lúc nào người ta cũng xầm xì rằng Malachi canh tu viện như một con chó giữ nhà mà không biết mình đang bảo vệ cái gì. Vì thế, người ta cũng thì thầm chống đối Berengar khi Malachi chọn Huynh ấy làm phụ tá. Người ta bảo chàng trai trẻ đó cũng chẳng khôn ngoan gì hơn ông thầy mình, y chỉ là một tên mưu sỉ. Họ cũng nói – chắc hẳn (đến?) nay Huynh cũng nghe đồn về việc này rồi – rằng có mối quan hệ lạ lùng giữa Berengar và Malachi… Chuyện đồn đãi xưa rồi. Và như Huynh biết đấy, họ lại bàn tán về Berengar và Adelmo, các thầy ký trẻ bảo Malachi âm thầm chịu đựng sự ghen tuông kinh khủng… Họ cũng lào xào về sự liên hệ giữa Malachi và Jorge. Không, không phải theo kiểu Huynh nghĩ đâu – chưa ai xì xào về đạo đức của Jorge cả! – nhưng Malachi, với chức vụ quản thư viện, theo truyền thống, đáng lẽ phải xưng tội với Tu viện trưởng, còn các tu sĩ khác sẽ đến xưng tội với Jorge hay với Alinardo, nhưng bây giờ lão huynh ấy đã gần như mất trí nhớ rồi… Thế nhưng, họ bảo trái lại, Malachi lại bàn bạc quá nhiều với Jorge, tựa như Tu viện trưởng nắm phần hồn của Malachi, còn Jorge lại giữ phần xác, phần hành động và công việc của Huynh ấy. Quả thực, như Huynh biết và thấy đấy, nếu ai đó muốn biết vị trí của một quyển sách xưa chẳng còn ai nhớ đến thì người ấy sẽ không hỏi Malachi mà hỏi Jorge. Malachi giữ thư mục và đi lên thư viện, nhưng Jorge mới là người biết mỗi tựa sách có ý nghĩa gì…
– Tại sao Jorge lại biết quá nhiều điều về Thư viện?
– Sau Alinardo, Huynh ấy là người cao niên nhất, và đã ở đây từ thời trẻ. Jorge phải trên tám mươi tuổi rồi, và họ bảo Huynh ấy đã mù gần bốn mươi năm, có lẽ lâu hơn nữa…
– Làm thế nào sau khi mù, Huynh ấy lại trở nên uyên bác như vậy?
– Ồ, có nhiều huyền thoại về Huynh ấy – Dường như ngay từ hồi còn bé, Huynh ấy đã được ban ân phước và đã đọc được sách của các học giả Hy Lạp và Ả Rập bằng tiếng Castile mẹ đẻ của mình. Từ sau khi bị mù đến nay, Huynh ấy ngày ngày ngồi nhiều giờ trong Thư viện và bảo người khác đọc thư mục và mang sách đến cho mình, rồi một tu sinh đọc to nó lên cho Huynh nghe suốt giờ này sang giờ kia.
– Bây giờ Malachi và Berengar đã chết, còn ai nắm được các bí mật của Thư viện?
– Tu viện trưởng, và Cha ấy sẽ phải truyền chúng lại cho Benno.. nếu Cha muốn…
– Sao Huynh lại bảo “nếu Cha muốn”?
– Vì Benno còn trẻ và được phong phụ tá khi Malachi vẫn còn sống, làm phụ tá quản thư khác với làm quản thư nhiều. Theo truyền thống, quản thư viện về sau sẽ trở thành Tu viện trưởng…
– À, ra thế… Thảo nào người ta ham muốn chức quản thư viện đến vậy. Thế Tu viện trưởng có dạo đã là quản thư viện à?
– Không, không phải Viện trưởng này. Cha Bề trên đã được chỉ định trước khi tôi đến đây. Tính đến nay đã ba mươi năm rồi. Trước lúc đó, Tu viện trưởng là Paul xứ Rimini, họ kể nhiều câu chuyện lạ lùng về con người kỳ dị này. Dường như đó là một kẻ ngốn sách kinh khủng nhất, ông ấy thuộc nằm lòng tất cả mọi cuốn sách trong thư viện, nhưng ông ấy mắc một chứng yếu đuối rất lạ: ông ấy không viết được. Họ gọi ông ấy là “Abbas agraphicus”[1]… Ông trở thành Tu viện trưởng lúc còn rất trẻ, người ta bảo ông được Algirdas xứ Cluny ủy hộ… Nhưng đó chỉ là chuyện phiếm của mấy tu sĩ già. Dầu sao, Paul lên làm Tu viện trưởng, và Robert xứ Bobbio thế chỗ của ông trong thư viện, nhưng người này mắc bệnh rồi yếu dần, họ biết Robert sẽ không đủ khả năng điều hành tu viện nữa. Rồi Paul xứ Rimini biến mất…
– Ông chết à?
– Không, ông ấy biến mất, tôi không biết tại sao. Một ngày nọ ông lên đường du hành và chẳng bao giờ trở lại nữa, có lẽ ông ta bị bọn cướp giết chết dọc đường đi… Dầu sao, khi Paul mất tích thì Robert không thể thế chỗ ông và những âm mưu mờ ám đã xảy ra. Người ta nói, Cha bề trên ngày nay là con hoang của một lãnh chúa vùng này. Cha lớn lên trong một tu viện ở Fossanova, người ta kể rằng khi còn trẻ, Cha đã chăm sóc Thánh Thomas khi Ngài mất tại đó, và được giao nhiệm vụ mang cái xác khổng lồ của Ngài xuống cầu thang của một ngọn tháp chật hẹp đến nỗi không đưa thi hài qua được… bọn ác ở đây xầm xì rằng đó là giây phút vinh quang của Cha… Sự thật là Cha được bầu làm Tu viện trưởng và mặc dầu chưa bao giờ làm quản thư viện, nhưng Cha đã được một người mà tôi nghĩ là Robert, chỉ giáo cho biết những bí ẩn trong thư viện. Bây giờ, Huynh hiểu tại sao tôi không biết Tu viện trưởng có muốn chỉ giáo cho Benno hay không: thế cũng giống như phong cho một tên trai trẻ vô tâm, một nhà ngữ pháp học bán khai từ phương Bắc đến làm người kế vị của mình. Benno biết gì về xứ này, về tu viện và các mối liên hệ của nó với các lãnh chúa trong vùng?
– Nhưng Malachi và Berengar cũng đâu phải người Ý, thế mà cả hai đều được bổ nhiệm vào Thư viện.
– Đó là một điều bí ẩn đối với Huynh. Các tu sĩ thắc mắc rằng trong hơn nửa thế kỷ qua, tu viện đã từ bỏ truyền thống cũ… Thế nên năm mươi năm qua, có lẽ còn lâu hơn nữa, Alinardo đã háo hức chức quản thư viện. Trước đây, quản thư viện luôn luôn là người Ý – trong xứ này đâu có thiếu đầu óc uyên bác. Vả lại, Huynh thấy…
Nói đến đây, Nicholas ngập ngừng, như không dám nói điều mình muốn:
– … Huynh thấy đó, Malachi và Berengar chết rồi, có lẽ để họ không thể trở thành Tu viện trưởng
Nicholas lúng túng xua tay trước mặt như để đuổi đi ý nghĩ không được thật thà lắm, rồi làm dấu thánh giá:
– Tôi nói gì thế nhỉ? Huynh thấy không, trong những năm qua, nước này đã xảy ra lắm điều nhục nhã, ngay cả trong các tu viện, trong triều đình Giáo hoàng, trong những nhà thờ… Đấu tranh để giành quyền lực, tố cáo dị giáo để đoạt đất đai có lộc thánh.. Xấu xa biết bao! Tôi mất niềm tin ở loài người, đâu đâu tôi cũng thấy mưu mô và thông đồng. Tu viện của chúng ta sẽ hóa thành một ổ rắn độc trỗi dậy nhờ phép mầu huyền bí ở nơi trước kia là thắng lợi của những con người thánh thiện. Hãy nhìn đây: quá khứ của tu viện này!
Huynh chỉ vào những báu vật nằm rải rác khắp nơi. Để lại các thập giá cùng các lọ thánh khác, Huynh dẫn chúng tôi đến xem những hộp đựng thánh tích tượng trưng cho vinh quang của nơi này.
– Hãy xem, đây là đầu chiếc thương đã đâm vào sườn của Chúa Cứu Chuộc! – Chúng tôi trông thấy một cái hộp vàng, nắp bằng pha lê, đựng một cái gói màu tím, trên đặt một mảnh sắt hình tam giác, trước đây bị gỉ sét, nhưng nay đã sáng bóng nhờ bôi nhiều dầu và sáp. Nhưng nó cũng chưa đáng kể. Trong một chiếc hộp bằng bạc nạm thạch anh tím khác, qua lớp vỏ ngoài trong suốt, tôi trông thấy một mảnh gỗ tôn kính của thập giá thiêng liêng do chính Hoàng hậu Helena, mẹ của Hoàng đế Constantine mang đến tu viện. Bà đã đi hành hương đến những thánh địa, khai quật đồi Golgotha và mộ Chúa, rồi xây một đại giáo đường trên đó.
Rồi Nicholas chỉ chúng tôi xem các vật khác nữa mà tôi không thể miêu tả tất cả số lượng và độ quý hiếm của chúng. Một chiếc hộp bằng ngọc xanh nước biển đựng một cái đinh của thánh giá. Trong một cái ống nằm trên cái gối bằng những bông hồng héo, có một đoạn vòng gai. Và trong một hộp khác, cũng trên lớp lót bằng những đóa hoa khô, là một mảnh vải màu vàng từ chiếc khăn bàn trong bữa tiệc cuối cùng. Rồi có những chiếc túi với các vòng xích bằng bạc của Thánh Matthew, và trong một cái ống cột bằng một giải lụa đã mục nát vì thời gian và niêm lại bằng vàng là mảnh xương tay của Thánh Anne.
Lại có những vật khác tuy không phải là thánh tích, nhưng vẫn mãi mãi chứng thực cho những kỳ tích và các điều lạ lùng từ phương xa, chúng được mang đến tu viện do các tu sĩ đã du hành đến những cực xa xôi nhất của thế giới. Còn có những thánh tích khác mà tôi không nhận ra, đựng trong những cái hộp cổ lỗ còn quý hơn chúng nữa, vài chiếc hộp rất cổ xưa. Tất cả những vật này, kể cả vật khiêm tốn nhất, đều đáng để Hoàng đế đánh đổi cả một lâu đài, chúng không chỉ tượng trưng cho danh giá bao la của tu viện mà còn là kho báu thực sự của nơi gìn giữ chúng.
Tôi cứ sững sờ dạo quanh ngắm nghía, vì Nicholas đã thôi không giải thích về các báu vật nữa, dẫu sao mỗi thứ đã có một bản miêu tả rồi. Tôi được tự do lang thang giữa đống của cải quý hiếm vô giá đó, lúc thì được ngắm chúng dưới ánh sáng rực rỡ, lúc thì chỉ nhìn được loáng thoáng dưới ánh sáng lờ mờ, vì các người phụ tá của Nicholas đã đem đuốc đến một nơi khác trong hầm. Tôi say mê ngắm nhìn những mẩu sụn đã ngả vàng, trông vừa huyền ảo vừa ghê sợ, vừa biểu hiện vừa bí ẩn; những mảnh áo từ một thời xa xăm ngàn xưa giờ đã sờn chỉ bạc phếch, đôi khi được cuộn lên đựng trong lọ như một bản giấy nhạt màu, những vật liệu nhăn nhúm lẫn với tấm vải giường. Phải chăng đó là cách thân thể của các vị thánh được chôn để chờ sự hồi sinh của xác thịt? Từ những mẫu rã rời đó, phải chăng sẽ tạo lại được các cơ thể mà dưới sự rực rỡ của hư ảnh tuyệt đẹp, sẽ hồi phục các cảm giác tinh nhạy tự nhiên, sẽ ngửi thấy – như Pipernus viết – các mùi vị khác nhau[2]?
Thầy William chạm vào vai tôi, kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ, và nói:
– Thầy lên phòng thư tịch đây. Thầy còn phải xem vài thứ…
– Nhưng không thể lấy được sách đâu. Benno được lệnh…
– Thầy chỉ phải xem lại các cuốn sách đang đọc hôm trước; tất cả vẫn còn ở trong phòng thư tịch, trên bàn Venantius. Nếu muốn, con cứ ở đây. Hầm này là một hình ảnh đẹp thu tóm những cuộc tranh luận về cơ nghèo mà con đã theo dõi mấy ngày nay. Bây giờ chắc con hiểu tại sao các sư huynh xâu xé lẫn nhau để giành chức Tu viện trưởng.
– Nhưng thầy có tin điều Nicholas ám chỉ không? Các án mạng có liên hệ với cuộc tranh đấu giành sự phong quyền không?
– Thầy đã bảo con rằng, lúc này thầy không muốn đưa ra các giả thuyết. Nicholas đã nói nhiều điều, có vài điều khiến ta quan tâm. Bây giờ thầy sẽ lần theo một dấu vết khác, hay có lẽ cũng là dấu vết đó, nhưng từ một hướng khác. Chớ để mấy cái hộp này hớp hồn con đấy. Thầy đã thấy nhiều thập giá trong những giáo đường khác. Nếu tất cả những cái đó đều thật cả thì Chúa của chúng ta không thể bị đọa đày trên hai tấm ván đóng đinh với nhau, mà là trên cả một khu rừng.
– Ôi thầy! – Tôi sững sờ nói.
– Đúng thế đấy, Adso ạ. Và thậm chí, còn có nhiều kho tàng phong phú hơn. Cách đây một thời gian, trong đại giáo đường xứ Cologne, thầy đã trông thấy cái sọ của John-Người rửa tội[3] lúc mười hai tuổi.
– Thực hả thầy? – Tôi kinh ngạc thốt lên, rồi ngờ vực hỏi thêm – Nhưng Người rửa tội bị xử tội vào tuổi già hơn kia mà.
– Cái sọ kia hẳn ở trong một kho tàng khác, – thầy William nghiêm nghị nói. Tôi thật chẳng hiểu lúc nào thầy đùa. Ở xứ tôi, khi đùa thì người ta cười vang, rồi mọi người cùng chung vui. Còn thầy Willam chỉ cười khi nói những điều nghiêm túc, và rất nghiêm nghị khi nói những điều đáng cười.

Chú thích:
[1] Cha Bề trên mắc bệnh mất khả năng viết.
[2] Differentias odorum.
[3] Người đã rửa tội cho Chúa Ki-tô, bị vua Herod giết.

KINH XẾ SÁNG

Adso lắng nghe khúc ca “Dies irae”[1]
rồi nằm mơ, hay thấy ảo giác,
tùy người ta định nghĩa như thế nào cũng được

Thầy William chia tay Nicholas và lên phòng thư viện. Bây giờ tôi đã nhìn kho tàng đã mắt và định vào nhà thờ để cầu nguyện cho linh hồn Malachi. Tôi chưa bao giờ thích con người dễ sợ này, và không chối cãi rằng lâu nay tôi đã tin Malachi là người gây ra tất cả các án mạng. Bây giờ tôi mới biết, có lẽ Huynh ấy là một kẻ khốn nạn đáng thương, ẩn ức vì không thỏa mãn được dục vọng, một cái bình đất giữa những cái bình sắt, gắt gỏng vì bối rối, im lặng và tránh né vì tự hiểu không biết nói gì. Tôi cảm thấy hơi cắn rứt, nghĩ rằng cầu nguyện cho số phận dị thường của Huynh ấy có thể làm vơi đi mặc cảm tội lỗi của tôi.
Bên trong giáo đường lúc này mờ mờ ảo ảo vì ánh sáng bị thi hài của người xấu số chế ngự. Vang lên tiếng các tu sĩ rầm rì đọc kinh cầu hồn.
Trong tu viện xứ Melk, tôi đã có lần chứng kiến cái chết của một sư huynh. Tôi không thể gọi đó là một dịp vui, nhưng tôi thấy nó thanh thản, nhẹ nhàng và trung thực. Các tu sĩ thay phiên nhau ở trong phòng người hấp hối, tìm lời tốt lành để an ủi người ấy, và ai cũng thực tâm xem người chết là may mắn, vì Huynh ấy sắp chấm dứt một cuộc đời đức hạnh để sớm nhập vào ca đoàn thiên thần ở chốn ơn phước vĩnh hằng. Một phần của sự thanh thản và mùi hương của sự mong muốn thiện ý đó được chuyển đến người hấp hối, và người ấy cuối cùng đã nhẹ nhõm ra đi. Những cái chết trong những ngày vừa qua thật khác lạ biết bao! Cuối cùng, tôi đã trông thấy nạn nhân của những con bọ cạp quỉ quái trong “finis Africae” chết như thế nào, và chắc hẳn Venantius và Berengar cũng chết như thế, dù đã nhờ nước làm dịu bớt cơn đau, mặt họ cũng bị tàn phá như mặt Malachi.
Tôi ngồi co ro ở cuối nhà thờ để chống rét. Khi thấy hơi ấm người, tôi mấp máy môi hòa theo điệp khúc với những sư huynh đang cầu nguyện. Tôi hát theo mà gần như không biết là mình hát gì, trong khi đầu gật gù, mắt muốn nhắm lại. Nhiều phút trôi qua, tôi biết mình đã ngủ gục và thức giấc, ít nhất là ba bốn lần: Rồi ca đoàn bắt đầu hát bài “Dies irae”.. .Khúc ca thấm vào tôi như ma túy. Tôi ngủ thiếp đi. Hay nói đúng hơn, tôi ngủ chập chờn, nửa say nửa tỉnh. Tôi gập người lại như một hài nhi trong bụng mẹ. Trong cái linh hồn mờ mờ sương khói đó, tôi thấy mình như lọt vào một nơi không thuộc trần gian này, tôi gặp một ảo giác, hay một giấc mơ, tùy người ta gọi sao cũng được.
Tôi bước xuống những bực thang hẹp vào một lối đi thấp, như thể đang vào hầm kho tàng, nhưng cứ tiếp tục xuống, tôi đến một hầm rộng hơn, đó là nhà bếp của Đại dinh. Nó chắc chắn là nhà bếp, nhưng không chỉ có tiếng rộn rịp của nồi niêu song chảo, mà còn có tiếng thổi bễ, búa đập ồn ào tựa như các thợ rèn của Nicholas cũng tụ họp ở đây. Lò và vạc đỏ rực chiếu sáng mọi vật, những nồi đun bốc khói sôi sùng sục. Đầu bếp trở xiên trong không trung, còn tất cả tu sinh hiện có mặt nhảy lên bắt lấy gà vịt và các gia cầm khác bị ghim trên những cây sắt nóng đỏ. Bên cạnh đó, mấy người thợ rèn đập búa rầm rầm điếc cả trời xanh, những chùm tia lửa từ chiếc đe tung tóe lên, quyện với những ngọn lửa từ lò túa ra.
Tôi không hiểu mình đang ở trong địa ngục hay trên cái thiên đàng nhỏ mật, lủng lẳng xúc xích mà Salvatore đã tưởng tượng. Nhưng tôi chưa kịp thắc mắc xem mình đang ở đâu thì một đám người lùn, đầu to như cái nồi chạy ào vào, đẩy tôi dạt đi, lôi tôi tới ngưỡng cửa của nhà ăn và tống vào trong.
Gian phòng được bày biện để dọn tiệc. Trên tường treo thảm và cờ xí, nhưng các hình ảnh trang trí trên đó không phải là loại thường trưng bày để khai trí người ngoan đạo hoặc tán dương sự vinh quang của vua chúa. Ngược lại, dường như chúng được gợi cảm hứng từ các minh họa bên lề của Adelmo, và tái tạo lại các hình ảnh kém khủng khiếp hơn nhưng lại hài hước hơn của Huynh ấy: thỏ nhảy múa quanh gốc cây xum xuê; sông đầy cá, cá tự ném mình vào chảo chiên trong tay các con khỉ mặc quần áo nửa đầu bếp, nửa giám mục; những con quái vật bụng phệ nhảy tưng tưng quanh những ấm nước bốc hơi.
Ngay giữa bàn là Tu viện trưởng trong trang phục đại tiệc, áo khoác lớn thêu chỉ tím, tay cầm chiếc nĩa như một quyền trượng. Bên cạnh Cha, Jorge đang uống một cốc rượu lớn, Remigio ăn mặc như Bernard Gui, tay cầm một quyển sách hình con bọ cạp, thành tâm đọc tiểu sử của các vị thánh và những đoạn trong Phúc Âm, nhưng đó là những chuyện về Chúa Ki-tô đang bông đùa với một Thánh Tông đồ, nhắc cho Thánh ấy rằng ông là một cục đá và ông phải xây một nhà thờ trên cục đá lì lợm đó, lăn trên cánh đồng đó, hay là chuyện Thánh Jerome bình giảng Thánh Kinh, bảo rằng Chúa muốn bỏ ngỏ phía sau thành phố Jerusalem. Cứ mỗi câu quản hầm đọc, Jorge lại phá lên cười, đập tay xuống bàn la lên: – Trời đất quỉ thần ơi, ngươi sẽ kế vị Tu viện trưởng – Chính lão ấy đã nói những lời như thế, xin Chúa tha thứ cho con.
Khi Tu viện trưởng vui vẻ ra hiệu thì một đoàn trinh nữ tiến vào. Đó là một dãy phụ nữ ăn mặc rực rỡ, lộng lẫy, trong đám đó tôi ngỡ đã nhận ra mẹ mình, nhưng rồi biết mình lầm, vì đó quả thực là cô gái khủng khiếp như thiên binh vạn mã. Khác chăng là nàng đang đội một vương miện ngọc trai trắng, hai bên khuôn mặt là hai bím tóc và hai suối ngọc tuôn xuống quyện với hai chuỗi ngọc khác đeo trên ngực, mỗi hạt ngọc lủng lẳng một viên kim cương to như quả mận. Thêm nữa, tai nàng còn đeo tòn ten hai chuỗi ngọc xanh, nối lại với nhau tạo thành một vòng quấn quanh chiếc cổ cao thẳng và trắng ngần như tháp Li-Băng. Áo của nàng màu ốc gai, tay nàng cầm một cái cốc vàng đính kim cương mà tôi biết, tôi chẳng hiểu tại sao mình lại biết, trong đó có chứa thuốc độc mà hôm nọ người nào đó đã trộm của Severinus. Theo sau nàng con gái xinh đẹp như bình minh này là các cô gái khác. Một cô khóac một chiếc áo trắng có thêu bên ngoài một chiếc áo màu đậm khác, cùng một khăn choàng vai hai lớp màu vàng có thêu hoa dại. Cô thứ hai khoác một chiếc áo dệt hoa vàng, trên chiếc áo dài màu hồng nhạt lốm đốm lá xanh có dệt hình hai hình vuông lớn, giống như một mê cung tối tăm. Cô thứ ba mặc một cái áo màu ngọc, dệt hình những con thú nhỏ màu đỏ, tay cầm một khăn choàng thêu màu trắng. Tôi không quan sát những cô còn lại ăn mặc ra sao, vì tôi cố tìm hiểu xem họ là ai mà đi theo người con gái bây giờ lại giống Đức Mẹ Đồng Trinh. Mỗi người cầm trên tay một bản hình cuộn, hay tựa như các bản hình cuộn là từ miệng các cô phun ra. Tôi nhận ra họ là Ruth, Sarah, Susanna và các người đàn bà khác trong Thánh Kinh.
Đến lúc này, Tu viện trưởng la lên:
“Vào đi mấy đứa con hoang!”. Rồi một loạt các thánh nhân mà tôi có thể nhận ra dễ dàng bước vào nhà ăn, trang phục long trọng và lộng lẫy. Chính giữa nhóm này là một người ngồi trên ngai, đó là Chúa Ki-tô, đồng thời cũng là Adam – trên vai khoác một chiếc áo màu tím có kết một vòng nguyệt quế lớn bằng ngọc trai và hồng ngọc, đầu đội vương miện giống như vương miện của người con gái ấy, tay cầm một cái cốc lớn hơn, ngập đầy huyết heo. Tất cả các vị thánh nhân quen thuộc khác mà tôi sẽ nói sau đều bao quanh Ngài, cùng với một đám lính của Vua Pháp mặc binh phục xanh hay đỏ, cầm khiên màu ngọc nhạt có khắc mẫu tự đầu tên của Chúa. Trưởng toán lính đến bái chào Tu viện trưởng và đưa cốc cho Cha. Sau đó, Tu viện trưởng nói: “Di chuyển cái thứ nhất và cái thứ bảy của cái thứ tư”[2], rồi mọi người đồng thanh cất tiếng ca: “Trong tận cùng Châu Phi, amen”[3]. Rồi mọi người “ngồi xuống”[4]
Khi hai chủ tiệc đã giải tán khách ra như thế, thì theo lệnh của Tu viện trưởng Solomon, người ta bắt đầu dọn bàn. Thánh James và Andrew mang đến một bó rơm, Adam ngồi ngay vào giữa, Eva nằm xuống trên một cái lá, Cain kéo vào một cái cày, Abel mang vào một cái xô để vắt sữa ngựa Brunellus, ông Noah đắc thắng chèo thuyền vào, Abraham ngồi dưới gốc cây, Isaac nằm trên bàn thờ bằng vàng trong giáo đường, Moses ngồi xổm trên một tảng đá, Thánh Daniel hiện ra trên bục mai táng trong vòng tay Malachi, Tobias nằm dài trên giường, Thánh Joseph ném mình vào đấu lúa, Benjamin ngả người tựa vào một cái bao, và còn nhiều người nữa, nhưng hình ảnh trở nên lộn xộn. Vua David đứng trên một mô đất, Thánh John trên nền nhà, Vua Pharoch trên đất, Lazarus trên bàn, Chúa Ki-tô trên miệng giếng, Zaccheus trong bụi cây, Thánh Matthew trên ghế đẩu, Raab trên bụi gai, bà Ruth trên đống rơm, Thecla trên bục cửa sổ (gương mặt xanh xao của Adelmo từ bên ngoài ló vào như để cảnh giác bà có thể ngã gục xuống vực đá), Susanna trong vườn, tên bán Chúa Judas giữa những nấm mồ, Thánh Peter trên ngai, Thánh James nằm võng, Thánh Elias cưỡi ngựa, bà Rachel ngồi trên một cái bọc, Thánh Tông đồ Paul đặt gươm xuống để nghe Esau phàn nàn, trong khi Job ngồi trên đống phân than vãn và bà Rebecca mang áo quần đến giúp đỡ, bà Judith thì giúp một cái chăn, bà Hagar giúp một tấm vải liệm, còn vài tu sinh thì khiêng vào một cái nồi lớn bốc hơi nghi ngút, từ trong đó nhảy ra Venantius mình mẩy đỏ lòm, rồi Huynh đi phân phát tiết canh heo.
Phòng ăn ngày càng đông, mọi người đều ăn ngấu nghiến. Tiên tri Jonas bỏ lên bàn vài quả bầu, tiên tri Isaiah đem lên ít rau, tiên tri Ezekich một ít dâu đen, Zaecheus hoa sung dâu, Adam chanh, Thánh Daniel đậu lu-pin, vua Pharaoh tiêu, Cain artichaud, Eva quả vả, Rachel táo, Ananias đem vài trái mận nhỏ như kim cương, Leah đem hành, Aaron ô-liu, Thánh Joseph một quả trứng, ông Noah nho, thánh Simeon đào, trong khi đó Chúa Ki-tô vừa hát bài “Dies irae”, vừa vui vẻ rót lên tất cả các dĩa một ít giấm mà Ngài đã vắt được từ miếng bọt bể, lấy từ cây thương của một tên lính thuộc vua Pháp.
Đến lúc này, Jorge, sau khi gỡ cặp kính nhiệm mầu ra, đốt một bụi cây do Sarah nhóm, Isaac khuân xuống và Joseph chẻ, trong khi Jacob đào giếng và Thánh Daniel ngồi xuống bờ hồ thì tôi tớ mang nước lên, Noah mang rượu, Hagar mang túi da đựng rượu, Abraham mang một con bê bị Raab trói vào cột, Chúa Ki-tô nắm thừng và Elijah cột chân. Rồi Absalom nắm lông nó treo lên, Peter rút kiếm ra, Cain giết nó, Vua Herod thọc huyết, Shem quăng bộ lòng và phân đi, Jacob bôi thêm dầu, Molessadon bỏ thêm muối, Antiochus đem lên lửa, Rebecca nấu, Eva nếm trước và ọc ra, nhưng Adam bảo không sao cả và vỗ vào lưng Severinus, khi Huynh đề nghị thêm rau thơm vào. Rồi chúa Ki-tô bẻ bánh mì và phân phát cá, Jacob hét lên vì Esau đã ăn hết súp, Isaac đang nhai ngấu nghiến một con dê non quay, Jonal ngốn một con cá voi luộc, còn Chúa Ki-tô thì nhịn đói bốn mươi ngày đêm.
Trong khi đó, mọi người ra vào mang theo những con vịt ngon nhất săn được đủ màu đủ cỡ, Benjamin luôn luôn giữ phần lớn nhất, bà Mary ăn miếng ngon nhất, còn Martha thì phàn nàn cứ phải rửa bát đĩa. Rồi họ xẻ thịt con bê, lúc ấy đã phồng lên thật lớn. Thánh John được chia cái đầu, Abessalom bộ óc, Aaron cái lưỡi, Sampson cái hàm, Thánh Peter cái tai, Holofernes cái đầu, Leah thịt mông, Saul cái cổ, Jonal cái bụng, Tobias lá lách, Eva cái sườn, bà Mary cái ức, Elijabeth hạ bộ, Moses cái đuôi, Lot được chân và tiên trị Ezekiel được xương. Trong khi đó, Chúa Ki-tô đang ngấu nghiến một con lừa, Thánh Francis một con sói, Abel một con cừu, Eva một con lươn, Người rửa tội con cào cào, vua Pharaoh một con bạch tuộc; vua David đang ăn một con cánh cam, nhào xuống một trinh nữ đen nhưng đẹp, trong khi Sampson thì cắn một miếng thịt mông sư tử còn Thecla thét lên bỏ chạy vì bị một con nhện đen lông lá đuổi theo.
Rõ ràng mọi người giờ đã say mèm, vài người trượt rượu té, vài người ngã vào vại, chân thọc ra ngoài như hai cái cọc. Tất cả các ngón tay của Chúa Ki-tô đều tím đen khi Ngài đưa ra những trang sách và phán: Cầm vật này ăn đi, đây là những câu đố của Symphosius, kể cả câu đố về con cá của Chúa trời và Đấng Cứu Chuộc của các ngươi.
Adam nằm dài nốc rượu và rượu từ be sườn nhỉ ra ngoài. Noah vừa ngủ vừa chuởi Ham, Holofernes ngáy chẳng nghi ngờ ai cả, Jonah ngủ ngon, Thánh Peter canh cho đến khi gà gáy. Chúa Ki-tô giật mình thức giấc khi nghe Bernard Gui và Bertrand del Poggetto âm mưu thiêu cô gái. Ngài hét lên: Cha ơi, nếu muốn thì hãy để ta chuyền cốc này! Rồi kẻ thì rót thật tệ còn kẻ thì uống thật giỏi, người thì chết vì cười còn người thì cười đến chết, người thì cầm bình còn người thì uống chung cốc với kẻ khác. Susanna la lên rằng nàng chẳng bao giờ trao thân thể ngà ngọc của mình cho quản hầm và Salvatore để đổi lấy một trái tim bò khốn khổ. Pilate lang thang khắp nhà ăn như một linh hồn lưu lạc đi xin nước để rửa tay, còn Fra Dolcino, đầu đội mũ gắn lông chim, mang nước đến, rồi khúc khích cởi áo ra và phơi bày hạ bộ máu đỏ lòm, trong khi đó Cain chưởi bới ông và ôm lấy người đẹp Margaret xứ Trent: Dolcino bật khóc và tựa đầu vào vai Bernard Gui, gọi hắn là Giáo hoàng thiên thần, Ubertino dùng cây của cuộc sống an ủi ông, Michael xứ Cesena dùng cái túi vàng, những cô Mary vẩy thuốc lên người ông, và Adam thuyết phục ông cắn vào một quả táo vừa mới hái.
Rồi vòm của Đại dinh mở ra và từ trời xanh Roger Bacon hạ giáng trên một máy bay “chỉ có một người điều khiển”[5], vua David bèn chơi đàn lia, Salome đeo bảy lớp mạng nhảy múa, mỗi lần một lớp mạng rơi xuống, nàng lại thổi một trong bảy hồi kèn và phô bày một trong bảy điềm báo trước, cho đến khi chỉ còn lại một cô gái duy nhất. Ai cũng bảo chưa hề có một Tu viện nào vui vẻ như thế này, đoạn Berengar kéo áo dòng của mọi người lên, đàn ông cũng như đàn bà, và hôn lên hậu môn của họ.
Rồi chính Tu viện trưởng nổi giận đùng đùng vì Cha bảo mình đã tổ chức một bữa tiệc vui vẻ như thế này mà chẳng ai cho Cha cái gì cả. Thế là mọi người tranh nhau đem tặng Cha quà cáp, báu vật, một bò đực, một cừu, một sư tử, một lạc đà, một nai đực, một bê, một ngựa cái, một cỗ xe ngựa mặt trời, cằm của Thánh Eubanus, đuôi của Thánh Ubertina, tử cung của Thánh Venantia, cổ của Thánh Burgosina, được chạm trổ như một cái cốc mười hai tuổi, và một bản sao quyển “Ngũ giác đài của vua Solomon”[6]. Nhưng Tu viện trưởng hét lên rằng họ đang cố đánh lạc hướng để Cha khỏi chú ý đến hành động của họ, nhưng thực ra họ đang ăn cướp của quí trong hầm kho tàng, nơi chúng tôi đang tụ họp, và một quyển sách quý nhất nói về bọ cạp và bảy hồi kèn bị trộm mất. Cha bèn gọi lính của vua Pháp lục soát mọi kẻ tình nghi. Mọi người xấu hổ thấy bọn lính tìm được một mảnh vải nhiều màu trên người Hagar, một con dấu bằng vàng trong người Rachael, một gương bạc trong ngực Thecla, một cái vòi dưới cánh tay Benjamin, một khăn phủ giường trong đống quần áo của Judith, một cái thương trong tay Longinus và một bà vợ hàng xóm trong vòng tay Abimelech. Nhưng tồi tệ nhất là họ tìm thấy con gà trống đen trong cô gái đẹp và đen như một con mèo mun, rồi họ gọi nàng là phù thủy và Tông đồ giả danh. Thế là họ xông vào nàng để trừng trị. Người Rửa tội chém đầu nàng, Abel mổ bụng nàng, Adam lôi ruột ra, Nebuchadnezzaz dùng bàn tay bốc lửa vẽ các dấu hiệu hoàng đạo lên ngực nàng, Eijiah chở nàng đi trên cỗ xe nóng đỏ, Noah ném nàng xuống nước, Ananias nhét nàng vào lò, Sampson xiềng nàng lại, Paul quất roi vào người nàng, Peter đóng nàng vào thập giá, đầu dốc ngược xuống, Stephen ném đá vào nàng, Laurence thiêu nàng, Bartholomew lột da nàng, Judas tố cáo nàng, quản hầm đốt nàng, và Thánh Peter phủ nhận mọi điều. Rồi hết thảy lao lên cái xác đó, ném phân vào nàng, đánh rắm vào mặt nàng, tiểu lên đầu nàng, ói vào ngực nàng, dứt tóc, cầm đuốc đang cháy quất vào mông nàng. Thân thể cô gái xưa kia ngọt ngào đẹp đẽ bây giờ tan nát, bị xé thành từng mảnh vương vãi khắp các hộp kính, khắp những hộp vàng-và-pha-lê đựng thánh tích trong hầm. Nói đúng hơn, không phải xác cô gái đã làm đầy hầm này, mà chính các mảnh thịt trong nhà hầm quay vòng vòng đã dần dà tạo thành thân xác của cô gái, bây giờ chỉ còn là một chất đá khoáng, rồi nó sẽ bị tan rã vương vãi, bụi thiêng của những đoạn khúc do sự báng bổ điên cuồng tích tụ lại. Tựa như một thân thể bao la duy nhất, trong mười thế kỷ, đã rã thành từng phần, và những phần này đã được sắp xếp để làm đầy cả một hầm kho tàng này, tuy nó đẹp hơn lò thiêu xương của các tu sĩ quá cố, nhưng cũng giống vậy thôi. Tựa như chính xác thịt chắc nịch của thân thể con người, kiệt tác của tạo hóa, đã vỡ ra thành nhiều dạng riêng biệt, do đó nó trở thành hình ảnh của chính thực thể đối kháng của mình, một hình dạng không còn lý tưởng nữa mà rất trần tục, bằng cát bụi và những mảnh hôi tanh, chỉ có thể biểu trưng cho cái chết và sự hủy diệt…
Bây giờ tôi chẳng còn thấy những người dự tiệc hay quà tặng của họ đâu nữa, tựa như mọi khách khứa trong buổi dạ tiệc đều ở trong hầm, nhưng mỗi người đã khô đi thành bã, mỗi người là sự cải dung trong mờ của chính mình, Rachel là một khúc xương, Thánh Daniel là cái răng, Sampson là cái hàm, Chúa Ki-tô là một mảnh vải màu tím. Tựa như đến khi gần tàn, bữa tiệc đã hóa thành vụ xử giảo cô gái, và biến hành vụ xử giảo chung khắp, và tôi đang ở đây chứng kiến hậu quả sau cùng của nó, mọi thi thể chuyển hóa thành một thi thể duy nhất, bị tan nát và đày đọa như thân thể Dolcino sau khi chịu tra tấn, chuyển hóa thành một kho tàng ghê tởm, và lộng lẫy trải rộng hết mức như con vật bị lột da treo cổ, tuy nhiên vẫn còn giữ được những đường gân, lòng ruột, tất cả các bộ phận khác, ngay cả nét mặt nữa, dù chúng đã bị tê liệt rồi… Từ mọi xó xỉnh trong hầm kho tàng, các đại thi thể được chia ra nằm trong những hộp bằng kính và những hộp đựng thánh tích mà vẫn được tái tạo thành một khối mênh mông dị thường, đang chế giễu tôi, thầm thì với tôi và bảo tôi phải chết! Nó vẫn là cái thân thể tại bữa dạ tiệc đã ngồi ăn uống và nhào lộn một cách dung tục, nhưng ở đây, tôi thấy nó gắn chặt vào những mảnh vụn vô tri vô giác không nắm bắt được. Ubertino siết cánh tay tôi, bấu móng tay vào thịt tôi và thì thầm: “Con thấy không, cái mà ban đầu vênh váo tự đắc và hí hửng cười cợt, cũng chính là cái mà bây giờ tại đây đang bị trừng phạt và tưởng thưởng, nó được giải thoát khỏi sự cám dỗ của đam mê và khổ hạnh hóa vĩnh cửu. Nó bị giam giữ trong cơn băng giá triền miên để bảo vệ và tự thanh lọc, nhờ chiến thắng sa đọa để tự cứu khỏi sự tha hóa, vì không có một điều gì khác có thể biến cái đã là cát bụi có thể trở về với cát bụi. Cái chết là sự yên nghỉ của người lữ hành, là chấm dứt mọi công việc[7]”.
Đột nhiên Salvatore bước vào hầm kho tàng, sáng lên như một con quỉ và la lên: “Đồ ngốc! Ngươi không thấy đây là Lyotard vĩ đại à? Cậu bé ơi, ngươi sợ gì chứ? Phô-mai nhồi đây!” Rồi thình lình hầm kho tàng sáng lên những tia lửa đỏ rực và nó lại biến thành nhà bếp, nhưng nó giống phần trong của một cái tử cung máu mủ sền sệt hơn là một nhà bếp. Ở chính giữa là một con thú đen như quạ có hàng ngàn cánh tay, bị xiềng vào một cũi lớn, nhưng nó giang tay để vồ bât kỳ ai gần đó. Như một nông dân khát nước vắt chùm nho, con khổng thú dừng (dùng?) tay vắt nát những người nó tóm được, rồi nó ngấu nghiến chân của người này, đầu của người kia, ợ ra một ngọn lửa thối hơn lưu huỳnh. Nhưng kỳ lạ thay, cảnh tượng ấy không khiến tôi sợ, và tôi ngạc nhiên thấy mình có thể dễ dàng ngắm nghía con “thiện quỉ” đó, mà chung qui không ai khác hơn là Salvatore, vì giờ tôi đã biết tất cả về thân xác trần tục của con người, cùng sự đau khổ và sự tha hóa của nó, nên tôi không sợ gì nữa. Thực ra dưới ánh sáng của ngọn lửa ấy, nay như đã dìu dịu và vui tươi, tôi thấy lại tất cả những thực khách đã trở về nguyên trạng, họ đang ca hát, và nói mọi việc đang bắt đầu lại, trong số đó có người trinh nữ ấy, xinh đẹp và toàn vẹn, nàng nói với tôi: “Không sao cả, không sao cả, rồi anh sẽ thấy. Em sẽ còn đẹp hơn trước đây nữa, cho em đi một lát để thiêu trên giàn hỏa, rồi hai ta sẽ hội ngộ ở đây!” Lạy Chúa tha tội, rồi nàng phơi bày chỗ kín cho tôi tiến vào, tôi thấy mình lọt vào một hang động xinh đẹp như thung lũng hạnh phúc của thời vàng son, đẫm sương, sai quả và xum xuê những cây đầy phô-mai nhồi. Mọi người thảy đều cảm ơn Tu viện trưởng đã đãi một bữa tiệc vui vẻ, và họ tỏ thiện cảm bằng cách xô đẩy Cha, đá đít Cha, xé quần xé áo, đè xuống đất, quất roi vào hạ bộ, còn Cha thì cười và van xin họ đừng thọc lét Cha nữa. Rồi các thầy dòng Anh em Nghèo khó đi vào trên những con ngựa mũi phì khói lưu huỳnh, lưng họ giắt những bọc đầy vàng mà họ dùng để biến chó sói thành cừu non và ngược lại, họ phong chúng làm Hoàng đế với sự công nhận của đông đảo nhân dân đang ca ngợi sự toàn năng vô biên của Chúa. Chúa Ki-tô vung vòng gai của Ngài, hét lên: “Muốn khỏi cười phải bóp miệng lại!” Giáo hoàng John bước vào, nguyền rủa cảnh hỗn độn: “Đến độ này, ta không biết nó sẽ chấm dứt ở đâu!” Nhưng mọi người chế giễu John và theo Tu viện trưởng đi ra cùng với heo vào rừng hái nấm truýp. Tôi toan theo họ thì thấy thầy William từ trong góc bước ra khỏi Mê cung, tay cầm một cục nam châm đang kéo thầy thật nhanh về hướng Bắc. Tôi la lớn “Đừng bỏ con thầy ơi! Con cũng muốn xem trong “finis Africae” có gì!”
“Con đã thấy nó rồi!” – Thầy đáp, bấy giờ đã ở thật xa.
Khi tôi thức giấc thì những lời cuối cùng của bài ca tang lễ đang chấm dứt trong giáo đường:
Ngày ấy đầy nước mắt
Kẻ bất chính từ tro sống dậy
Xin Chúa hãy tha thứ cho hắn
Vì ơn đức Chúa Ki-tô
Xin Chúa hãy ban cho hắn
Sự an nghỉ vĩnh viễn
[8]
Một dấu hiệu cho thấy ảo giác của tôi cũng nhanh như mọi ảo giác khác, nếu nó không bằng một khoảnh khắc của tiếng “amen” như tục ngữ nói, thì nó đã kéo dài gần hết bài kinh “Dies irae”

Chú thích:
[1] Bài ca bằng tiếng La Tinh về Ngày phán xét, bây giờ thường được hát như kinh cầu hồn.
[2] Age primum et septimum de quatuor
[3] In finibus Africae, amen

[4] Sederunt
[5] unico homine regente

[6] Pentagonum Salomonis
[7] Mors est quies viatoris, finis et omnis laboris
[8] Lacrimosa dies illa
Qua resurget ex favilla
iudicandus homo reus:
huic ergo parce, deus.
Pie Iesu domine
dona eis requiem

SAU KINH XẾ SÁNG

William giải thích giấc mơ của Adso

Tôi bàng hoàng đi qua cổng chính và thấy một đám đông ở đấy. Các Sư Huynh dòng Francisco sắp ra đi, và thầy William đã xuống chia tay họ.
Tôi cũng đến tạm biệt họ. Đoạn tôi hỏi thầy khi nào những người kia cùng với các phạm nhân sẽ lên đường. Thầy bảo họ đã đi cách đây nửa tiếng, khi chúng tôi đang ở trong hầm kho tàng, hay có lẽ khi tôi đang mơ.
Tôi hoảng hốt một lúc, rồi bình tâm lại. Thế tốt hơn. Tôi không chỉ chịu đựng nổi cảnh tượng những người phạm tội bị lôi đi xa và mãi mãi, tôi muốn nói đến tên quản hầm và Salvatore xấu xa… Và dĩ nhiên, tôi cũng muốn ám chỉ cô gái. Hơn nữa, giấc mơ đã làm tôi hoảng loạn nên cảm xúc như bị tê dại đi.
Khi đoàn lữ hành của các tu sĩ Khất thực đi ra cổng để rời tu viện, thầy trò tôi đứng trước cửa nhà thờ, lòng buồn rười rượi vì nhiều lý do khác nhau. Tôi quyết kể thầy nghe giấc mơ vừa qua. Mặc dù hư ảnh đó lộn xộn và nhiều màu nhiều vẻ, nhưng lạ lùng thay, tôi nhớ rất rõ từng hình ảnh, từng hành động, từng lời nói trong giấc mơ đó. Tôi kể hết không sót một chi tiết, vi tôi biết giấc mơ thường là những thông điệp huyền nhiệm, từ đó người ta có thể đọc được những lời tiên tri rõ ràng.
Thầy William lặng lẽ nghe tôi, rồi hỏi:
– Con có biết con đã mơ thấy gì không?
Tôi hoang mang đáp:
– Đúng như con đã kể…
– Đương nhiên, thầy hiểu. Nhưng con có biết phần lớn điều con kể đã được viết ra không? Con đã thêm những con người và sự kiện trong những ngày qua vào bức tranh quen thuộc với con, vì con đã đọc câu chuyện trong giấc mơ ở đâu đó, hay con được nghe kể trong trường, trong chủng viện khi còn nhỏ. Đó là “Bữa tiệc của Cyprian”[1].
Tôi ngỡ ngàng trong giây lát rồi chợt nhớ ra. Thầy nói đúng! Có lẽ tôi đã quên tựa câu chuyện, nhưng có tu sĩ chững chạc hay tu sinh ngang ngạnh nào lại không cười vì những hư ảnh khác nhau trong câu chuyện bằng văn xuôi hay văn vần này. Mặc dù các thầy tu nghiêm khắc ghét cay ghét đắng và cấm đọc tác phẩm này, không có một chủng viện nào mà tu sĩ không thầm thì kể chuyện đó cho nhau nghe, nó đã được rút gọn và viết lại theo nhiều kiểu khác nhau, vài người còn thành kính sao chép lại, bảo rằng đằng sau tấm mạng khôi hài đó của câu chuyện có ẩn giấu những bài học luân lý bí mật, những người khác thì khuyến khích lưu hành nó vì cho rằng qua những hình ảnh giễu cợt trong đó, các tu sinh trẻ có thể dễ nhớ những đoạn thánh sử hơn. Một đoạn thơ đã được viết cho Giáo Hoàng John VIII, với lời đề tặng: “Tôi thích bông đùa, thưa Giáo hoàng John, hãy chấp nhận tôi trong lời bông đùa này. Và nếu Ngài muốn, Ngài cũng có thể cười”. Người ta còn nói Vua Charles Sói đầu [2] đã chuyển thể nó thành kịch dưới dạng một huyền thoại hài hước bằng văn vần để giải trí cho các vị chức sắc trong nhà thờ tới dự tiệc.
Các thầy tôi đã chửi mắng vô kể, khi tôi cùng các bạn đồng môn đọc các đoạn trong truyện đó! Tôi nhớ có một thầy tu già ở Melk thường bảo một người đạo đức như Thánh Cyprian không thể viết một câu chuyện thô tục, phạm thần phạm thánh, nhại lại Thánh kinh như thế, đó là chuyện của một tên vô thần hay một thằng hề chớ đâu phải chuyện của Thánh viết… Tôi đã quên mất những chuyện đùa trẻ thơ đó bao nhiêu năm nay rồi. Tại sao hôm nay “Bữa tiệc” lại hiện lên trong giấc mơ của tôi rõ ràng đến thế? Trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng giấc mơ là những thông điệp thiêng liêng, hay tệ hơn nữa cũng là những điều vớ vẩn lặp lại từ tiềm thức, khi ta ngủ, về các sự kiện đã xảy ra trong ngày. Bây giờ tôi mới biết người ta cũng có thể mơ thấy sách vở, và do đó, mơ thấy những giấc mơ.
Thầy William bảo: – Giá thầy là Artemidorus để giảng giải thật đúng giấc mơ của con. Nhưng thầy nghĩ: dù không có tài học của Artemidorus đi nữa thì cũng rất dễ hiểu những điều đã xảy ra. Cậu nhỏ ạ, trong những ngày vừa qua, con đã chứng kiến một loạt biến cố, trong đó mọi quy luật chính trực dường như đã bị tiêu diệt. Sáng nay, khi con ngủ, trong tâm trí con đã tái hiện ký ức về một loại hài kịch, trong đó miêu tả một thế giới lộn ngược. Con đã ghép thêm vào đó các hồi ức, nỗi ưu phiền, sợ hãi gần đây nhất của con. Từ những hình vẽ minh họa bên lề của Adelmo, con cho sống lại một cuộc hội hè mà trong đó mọi thứ dường như đều quay ngược hướng, thế nhưng, như trong câu chuyện “Bữa tiệc” mỗi người lại làm chính cái hành động của mình trong đời thực. Cuối cùng, trong giấc mơ con tự hỏi thế giới nào là giả, thế giới nào là thực, và đi cắm đầu xuống đất có nghĩa là gì. Giấc mơ của con không còn phân biệt được đâu là trời đâu là đất, đâu là sống, đâu là chết nữa. Giấc mơ của con gieo ngờ vực vào những lời giáo huấn đã ban cho con.
Tôi kính cẩn nói:
– Giấc mơ con, chớ không phải là con. Vậy thì giấc mơ không phải là thông điệp thiêng liêng, đó là sự mê sảng quỉ quái, và không chứa đựng một sự thật nào!
– Adso, thầy cũng chẳng biết. Chúng ta đã có quá nhiều sự thật, đến nỗi nếu một ngày nào đó có ai đòi rút tỉa ra một sự thật, ngay từ giấc mơ của chúng ta, thì đó sẽ là ngày tên phản Chúa đã thực sự sẵn sàng. Thế nhưng càng nghĩ đến giấc mơ của con, thầy lại càng thấy trong đó lộ ra nhiều điều hơn. Có lẽ không phải cho con mà cho thầy. Đừng phiền lòng nếu thầy dùng giấc mơ của con để lập nên những giả thuyết. Thầy biết đó là một hành động thấp hèn, không nên làm… Nhưng thầy tin linh hồn của con trong giấc ngủ hiểu nhiều điều hơn thầy trong sáu ngày tỉnh táo…
– Thật hả thầy?
– Thật. Và có thể không. Thầy thấy giấc mơ của con lộ ra điều trùng hợp với một trong các giả thuyết của thầy. Con đã giúp thầy nhiều lắm. Cảm ơn con.
– Nhưng có gì trong giấc mơ của con khiến thầy quan tâm đến thế. Nó cũng vô nghĩa như mọi giấc mơ khác!
– Như mọi giấc mơ và hư ảnh, nó có một ý nghĩa khác. Phải hiểu nó như một phép ẩn dụ, hay một phép loại suy…
– Như Thánh Kinh à?
– Giấc mơ là một đoạn trong thánh kinh, và nhiều đoạn kinh chẳng là gì cả mà chỉ là những giấc mơ.

Chú thích:
[1] Coena Cypriani.
Cyprian: Thánh tử đạo, giám mục thành Carthage (Hy lạp)

[2] Chỉ Vua Charles II (875-877 sau Công Nguyên) Vua của Thánh đế La Mã.

KINH TRƯA

Tái lập thứ tự kế vị
của các quản thư viện,
nắm thêm dữ kiện về
quyển sách bí ẩn

Thầy William quyết định lên lại phòng Thư tịch, nơi thầy vừa rời gót. Thầy xin phép Benno tra cứu thư mục, và giở xem thật nhanh. Thầy nói:
– Nó chắc đâu đây thôi. Thầy mới thấy nó cách đây một giờ.
Thầy dừng lại một trang và bảo: – Đây, hãy đọc đầu đề này.
Trong một đề mục, có một nhóm bốn tựa sách, cho thấy quyển sách chứa nhiều bản văn. Tôi đọc thấy:
I. ar. Về lời nói của một kẻ ngốc
II. syr. Quyển sách nhỏ về thuật giả kim Ai Cập
III. Cuộc triển lãm của thầy Alcofribae về bữa tiệc của Cyprian, giám mục thành Carthage.
IV. Quyển sách thiếu đoạn đầu nói về nỗi đọa đầy của các nàng trinh nữ và tình yêu của những cô gái điếm[1].
– Gì thế thầy?
Thầy thì thầm bảo:
– Sách chúng ta tìm đấy. Đó là lý do tại sao giấc mơ của con đã gợi cho thầy nhớ đến một điều gì. Bây giờ thầy đã biết điều đó.
Thầy liếc nhanh các trang trước và sau:
– Thật ra, đây là tất cả các sách thầy nghĩ đến. Nhưng đây không phải là điều thầy muốn kiểm tra lại. Xem này. Con có bảng viết không? Giỏi. Chúng ta phải tính toán và cố nhớ thật rõ điều Alinardo đã bảo chúng ta hôm trước, cũng như những gì ta biết được từ Nicholas sáng nay. Này nhé, Nicholas bảo Huynh ấy đến đây ba mươi năm trước, lúc ấy Cha bề trên đã được bổ nhiệm làm Tu viện trưởng. Tu viện trưởng trước Cha là Paul xứ Rimini. Đúng không? Cứ cho sự kế vị này xảy ra khoảng năm 1290, trước hay sau không thành vấn đề. Nicholas cũng bảo, khi Huynh đến thì Robert xứ Bobbio đã là quản thư viện. Đúng chưa? Rồi Robert chết, chức vụ này được trao cho Malachi, cứ cho là vào đầu thế kỷ này. Ghi vào. Tuy nhiên, trước khi Nicholas đến, có một giai đoạn Paul là quản thư viện. Người ấy giữ chức vụ đó trong bao lâu? Không ai nói. Chúng ta có thể xem sổ sách tu viện, thầy nghĩ rằng Tu viện trưởng hiện cất giữ chúng, nhưng lúc này thầy không muốn hỏi Cha các sổ đó. Giả sử Paul được bổ làm quản thư viện cách đây sáu mươi năm. Viết vào. Tại sao Alinardo lại than phiền rằng năm mươi năm trước đây, chức quản thư viện lẽ ra đã được trao cho Huynh ấy mà lại trao cho người khác? Phải chăng Huynh ám chỉ Paul xứ Rimini?
– Hay Robert xứ Bobbio!
– Có lẽ vậy. Nhưng hãy nhìn thư mục này. Như con biết, các đề mục được ghi theo thứ tự thời gian nhận sách vào. Và ai ghi tên tựa sách vào sổ? Quản thư viện. Do đó, dựa theo sự thay đổi tuồng chữ trong những trang này, chúng ta có thể xác lập được thứ tự kế vị của các quản thư viện. Bây giờ, chúng ta xem thư mục ngược từ dưới lên, tuồng chữ cuối cùng là của Malachi, con thấy đấy. Và chỉ chiếm có vài trang thôi. Rồi chúng ta giở ngược về sau thì thấy một loạt trang viết bằng một tuồng chữ run rẩy. Thầy có thể nhận rõ sự hiện diện của Robert bệnh hoạn. Có lẽ Robert không giữ chức quản thư viện lâu. Rồi chúng ta thấy gì nữa? Hết trang này sang trang khác, viết bằng một tuồng chữ thẳng và tự tin, toàn bộ số sách nhận được kể cả nhóm sách mà thầy vừa xem xét mới đây, quả thực đáng kể. Paul xứ Rimini hẳn đã làm việc tích cực lắm! Quá tích cực nữa, nếu con nhớ rằng người ấy trở thành Tu viện trưởng khi còn rất trẻ. Nhưng hãy cho rằng trong vài năm, độc giả mọt sách này đã làm giàu cho thư viện thêm vô số sách. Chẳng phải Nicholas kể rằng, người ấy được mệnh danh là “Abbas agraphicus” (2) vì cái tật, hay cơn bệnh lạ lùng đã làm người mất khả năng viết. Vậy thì ai đã viết những trang này? Có lẽ là phụ tá của ông. Nhưng nếu có cơ may người phụ tá này được bổ làm quản thư, ông ta sẽ tiếp tục viết và chúng ta hiểu được tại sao có nhiều trang cùng một tuồng chữ ở đây như vậy. Thế thì, giữa nhiệm kỳ của Paul và Robert có một quản thư viện khác, được chọn cách đây năm mươi năm, đó là đối thủ bí ẩn của Alinardo, lão Huynh ấy đã hy vọng được kế tục Paul vì lớn tuổi hơn. Rồi người ấy chết, và không biết thế nào đó mà Robert được bổ nhiệm thay người này, trái với kỳ vọng của Alinardo và những người khác.
– Nhưng sao thầy biết chắc khoảng thời gian đó là đúng? Ngay cả việc cho rằng tuồng chữ này là tuồng chữ của người quản thư vô danh, thì tại sao Paul lại không thể viết các đầu đề trong những trang trước nữa?
– Vì trong số những tựa nhận được, họ có ghi lại tất cả các nghị định và sắc chỉ, và các sắc nghị này đều có ghi ngày tháng chính xác. Nếu con tra thấy ở đây có “Sự cảnh giác nghiêm nhặt” (3) của Giáo hoàng Boniface VII ban hành năm 1296, thì con biết rằng sắc chỉ này không đến Thư viện trước năm đó, và cũng không đến sau năm đó nhiều. Như thế là, ta đã có những cột mốc thời gian, do đó thầy cho rằng Paul xứ Rimini lên nhận chức quản thư viện năm 1265 và lên Tu viện trưởng năm 1275, và tuồng chữ của Paul, hay của một người khác không phải là Robert, kéo dài từ năm 1265 đến 1285, như vậy thầy phát hiện có một khoảng cách biệt là mười năm.
Thầy tôi quả thực sắc sảo. Tôi hỏi: – Thế thầy rút ra được từ khoảng cách biệt thời gian này những kết luận gì?
– Không có kết luận nào cả. Chỉ được vài tiền đề.
Rồi thầy đứng lên, đến nói chuyện với Benno. Huynh vẫn bám vị trí, nhưng lộ vẻ rất lúng túng. Huynh vẫn ngồi sau bàn của mình, chưa dám chuyển sang ngồi ở bàn của Malachi bên cạnh thư mục. Thầy William nói chuyện với Benno có vẻ hơi lạnh lùng. Chúng tôi chưa quên được buổi gặp gỡ khó chịu đêm hôm trước.
– Sư huynh quản thư viện, mặc dù Huynh vừa nhận một chức vụ quan trọng, tôi mong Huynh sẽ trả lời câu hỏi sau: Vào buổi sáng khi Adelmo và vài người khác tại đây bàn luận về các câu đố dí dỏm, rồi Berengar lần đầu tiên, nói đến “finis Africae”, có ai đề cập đến “Bữa tiệc của Cyprian” không?
Benno đáp: – Có, tôi đã chẳng nói với Huynh rồi ư? Trước khi họ bàn về các câu đố của Symphosius, chính Venantius đã nhắc đến “Bữa tiệc”, rồi Malachi nổi giận, bảo đó là một tác phẩm hạ cấp và Tu viện trưởng đã cấm không ai được đọc nó…
– Tu viện trưởng à? Hay lắm. Cảm ơn Benno.
– Khoan đã. Tôi muốn nói chuyện với Huynh. – Benno ra dấu bảo chúng tôi theo ra khỏi phòng thư tịch, đến cầu thang dẫn xuống nhà bếp, để không ai nghe thấy lời mình nói. Môi Benno run bần bật. Huynh nói:
– Sư huynh William, tôi sợ quá. Họ đã giết Malachi. Bây giờ tôi là người duy nhất biết quá nhiều. Hơn nữa, nhóm tu sĩ Ý ghét tôi lắm… Họ không muốn có thêm một quản thư viện nước ngoài nữa… Tôi tin những người kia bị giết cũng chính vì nguyên do này… Tôi chưa bao giờ kể Huynh nghe việc Alinardo ghét cay ghét đắng Malachi.
– Ai là người đã tước mất chức quản thư của lão huynh ấy nhiều năm trước đây?
– Tôi không biết: Huynh ấy nói về chuyện ấy rất lờ mờ, và dẫu sao chuyện đó cũng xa xưa quá. Họ chắc chết hết rồi. Nhưng nhóm tu sĩ Ý quanh Alinardo trước đây thường nói… Malachi là một hình nộm do một người khác đặt vào vị trí này, với sự đồng lõa của Tu viện trưởng… Không nhận thức được điều này, tôi… tôi vô tình đã can dự vào cuộc mâu thuẫn giữa hai phe thù nghịch… Sáng nay, tôi mới nhận ra điều này… Nước Ý là một nước đầy rẫy âm mưu: ở đây họ thuốc cả các Giáo hoàng, thế nên hãy tưởng tượng một thanh niên khốn khổ như tôi đây… Hôm qua tôi chưa hiểu, tôi nghĩ quyển sách đó là nguồn gốc của mọi việc, nhưng bây giờ tôi không dám chắc thế nữa. Đó chỉ là một cái cớ thôi: Huynh thấy đấy, quyển sách đã tìm lại được mà Malachi vẫn cứ chết… Tôi phải… Tôi muốn. Tôi muốn chạy trốn. Huynh khuyên tôi nên làm gì đây?
– Hãy bình tĩnh. Bây giờ Huynh cần lời khuyên phải không? Tối hôm qua, Huynh có vẻ như mình là chúa tể thế giới. Chàng trai ngu ngốc ạ, nếu hôm qua Huynh giúp tôi thì chúng ta đã ngăn được án mạng cuối cùng này. Chính Huynh là người đã đưa cho Malachi quyển sách, khiến Huynh ấy phải chết. Nhưng tối thiểu, hãy cho tôi biết một điều: Huynh có cầm quyển sách ấy trong tay không, Huynh có sờ vào nó, đọc nó không? Thế sao Huynh không chết?
– Tôi không biết. Tôi thề rằng tôi chưa chạm vào nó, hay nói cho đúng ra, tôi có sờ vào nó khi lấy nó ra từ phòng thí nghiệm, nhưng không mở nó ra. Tôi giấu nó dưới áo dòng, rồi đem bỏ nó dưới giường trong phòng tôi. Tôi biết Malachi đang theo dõi tôi nên lên phòng thư tịch ngay. Sau đó, khi Malachi đề nghị tôi làm phụ tá cho Huynh, tôi bèn giao quyển sách ấy lại. Toàn bộ câu chuyện là thế.
– Đừng có giấu tôi là Huynh có mở sách ra.
– Có, trước khi giấu, tôi có mở sách ra, để biết chắc đó là quyển sách Huynh đang tìm kiếm. Sách bắt đầu bằng một bản viết tiếng Ả Rập, rồi đến một bản – tôi nghĩ bằng tiếng Xy-ri cổ, rồi tới một bản tiếng La-tinh, và cuối cùng là một bản tiếng Hy Lạp…
Tôi nhớ lại những từ viết tắt chúng tôi đã thấy trong thư mục. Hai tựa đầu được ghi bằng “Ar.” và “Syr.”. Đúng là quyển sách ấyrồi! Thầy William vẫn ráo riết hỏi:
– Huynh chạm vào nó mà không chết. Thế có nghĩa là không phải chạm vào sách là chết người. Huynh có thể nói gì thêm về bản tiếng Hy Lạp không? Huynh có đọc qua không?
– Đọc sơ sài thôi. Chỉ đủ để biết nó không có tựa, nó bắt đầu như thể đã thiếu một phần…
– Liber acephalus. Quyển sách thiếu đoạn đầu… Thầy William lầm thầm.
– Tôi cố đọc trang đầu, nhưng sự thật thì vốn Hy Lạp của tôi rất nghèo. Nhưng tôi rất tò mò về một chi tiết khác, cũng liên quan đến những trang viết bằng tiếng Hy Lạp ấy. Tôi không thể giở xem tất cả các trang ấy được, vì chúng – biết giải thích sao nhỉ? – âm ẩm, dính chặt vào nhau. Rất khó tách một trang này ra khỏi trang kia. Vì loại giấy da đó rất kỳ… mềm hơn các loại giấy khác, trang đầu bị hư nhũn, gần như nhăn nhúm hết. Nó, nó… Lạ lùng lắm!
– “Lạ lùng”: chính là cái từ Severinus đã dùng, – thầy William nói.
– Loại giấy da đó không giống giấy da lắm… Nó như một loại hàng lụa, nhưng rất mịn – Benno tiếp
– Charta lintes, hay giấy lụa đấy. Huynh chưa bao giờ thấy nó à?
– Tôi có nghe nói đến, nhưng chưa bao giờ trông thấy cả. Người ta bảo nó rất đắt và mỏng manh lắm, thế nên rất hiếm khi được sử dụng. Người Ả-rập làm ra loại giấy ấy phải không?
– Họ là người đầu tiên sản xuất nó. Nhưng nó cũng được sản xuất ở Ý và Fabriano. Và cũng… Trời đất, đương nhiên rồi! – Mắt thầy William sáng lên. – Thật là một tiết lộ tuyệt hay, tuyệt đẹp! Tốt cho Huynh rồi, Benno! Cảm ơn Huynh! Phải, tôi nghĩ tại thư viện đây, loại giấy charta lintes phải hiếm hoi, vì không có một bản viết cận đại nào được nhập vào cả. Ngoài ra, nhiều người sợ loại giấy lụa này không chịu nổi qua nhiều thế kỷ như loại giấy da, và có lẽ đúng thế. Hãy tưởng tượng xem, nếu ở đây họ cần một loại gì đó không trường cửu như than… thì sẽ là giấy lụa chăng? Hay lắm. Tạm biệt. Và đừng lo sợ nữa. Huynh không bị nguy hiểm đâu.
Chúng tôi rời phòng thư tịch, Benno ở lại, tuy chưa hoàn toàn an tâm, nhưng đã bình tĩnh hơn.
Tu viện trưởng đang ở nhà ăn. Thầy William đến xin thưa chuyện với Cha. Không tìm cách trì hoãn được, Cha Bề trên đành đồng ý tiếp chúng tôi một lát, tại nhà của mình.

Chú thích:
[1] I. ar. de dictis cuiusdam stulti
II. syr. libellus alchemicus aegypt
III. Expositio Magistri Alcofribae de coena beati Cypriani Cartaginensis Episcopi
IV. Liber acephalus de stupris virginum et meretricum amoribus

[2] Tu viện trưởng mất khả năng viết
[3] Firma Cautela

KINH XẾ TRƯA

Tu viện trưởng không nghe William,
Cha thuyết giảng về ngôn ngữ của đá quí,
và tỏ ý không muốn tiếp tục
cuộc điều tra về các sự kiện đau buồn
vừa xảy ra thêm nữa.

Các gian nhà của Tu viện trưởng ở trên lầu nhà nguyện, và từ cửa sổ của một phòng khách xa họa rộng mênh mông, nơi Cha tiếp chúng tôi nhìn ra, người ta có thể nhìn thấy tòa Đại Dinh đồ sộ bên ngoài vòm mái của giáo đường, dưới bầu trời trong sáng và lộng gió.
Tu viện trưởng đang đứng bên cửa sổ quan sát nó và trịnh trọng chỉ cho chúng tôi xem. Cha bảo:
– Nó là một thành trì đáng khâm phục, cách kiến trúc cân đối của nó tổng hợp các qui tắc vàng chi phối cấu trúc của một cái hộp. Nó được chia làm ba tầng, vì số ba là số của Chúa Ba Ngôi, số ba là số các thiên thần đến thăm Abraham. Có ba đức tính thần học, ba ngôn ngữ thiêng liêng, ba phần hồn, ba loại âm thanh, ba thời đại trong lịch sử loài người: trước, trong và sau Mười điều răn.
Thầy Willam đồng ý:
– Đó là sự hòa hợp tuyệt diệu của các liên hệ huyền nhiệm.
Tu viện trưởng tiếp:
– Những hình vuông cũng chứa đựng các bài học tinh thần. Có bốn phương trời, bốn mùa, bốn hiện tượng khí tượng: nóng, lạnh, khô, ẩm; bốn giai đoạn đời người: sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tuổi già; bốn loại sinh vật: thiên, địa, không, thủy, và bốn màu cầu vồng, và bốn năm cần để thành một năm nhuận.
Thầy William nói:
– Ồ, chắc thế rồi, và ba cộng bốn là bẩy, con số huyền nhiệm nhất; trong khi đó ba nhân bốn là mười hai, con số Thánh Tông đồ, và mười hai nhân mười hai là một trăm bốn mươi bốn, là số những người được Chúa chọn lên thiên đường.
Tu viện trưởng không nói thêm gì được nữa sau màn biểu diễn kiến thức về thế giới lý tưởng của các con số nữa. Thế là thầy William vào thẳng vấn đề. Thầy bảo:
– Chúng ta phải bàn về các biến cố vừa xảy ra mà con đã suy nghĩ kỹ.
Tu viện trưởng xoay lưng về hướng cửa sổ và nghiêm khắc nhìn ngay mặt thầy William.
– Có lẽ quá kỹ nữa. Sư huynh William, thú thật là Cha đã trông đợi ở con nhiều hơn thế. Con đến đây gần sáu ngày rồi, ngoài Adelmo, đã có thêm bốn tu sĩ bị chết, hai người bị Tòa án dị giáo bắt – hẳn nhiên là do công lý thôi, nhưng chúng ta có thể tránh được nỗi nhục này nếu phán quan chẳng buộc phải can thiệp vào các án mạng trước – và cuối cùng, cuộc họp mà Cha chủ trì đã kết thúc thảm thương… chính vì tất cả những điều ác độc đó.
Thầy William bối rối im lặng. Tu viện trưởng đúng mười mươi rồi. Thầy công nhận:
– Đúng thế. Thưa Đức Cha, con đã không đáp ứng được lòng trông đợi của Cha, nhưng con xin giải thích tại sao. Các án mạng này không bắt nguồn từ một vụ cãi vã hay một mối nợ máu giữa các tu sĩ, mà từ những hành động phát xuát từ lịch sử xa xưa của tu viện.
Tu viện trưởng khó chịu nhìn thầy: – Con muốn nói gì? Chính Cha đã nhận thấy chìa khóa của vấn đề không phải là sự việc tồi tệ của quản hầm, vốn đã giao cắt với một câu chuyện khác. Nhưng câu chuyện kia, một câu chuyện mà Cha có thể biết, nhưng không thể bàn bạc… Cha mong nó đã minh bạch và con sẽ kể cho Cha nghe về nó…
– Đức Cha đang nghĩ đến một hành động nào đó mà Cha đã biết được, nhờ xưng tội… – Tu viện trưởng lảng đi, và thầy William tiếp: – Nếu Đức Cha muốn biết xem con có nắm được, mà không cần Cha cho hay, rằng có những quan hệ bất hợp pháp giữa Berengar và Adelmo, giữa Berengar và Malachi, thì phải, ai trong tu viện cũng đều biết điều này…
Tu viện trưởng mặt đỏ gay.
– Cha nghĩ không nên nói những việc như thế trước mặt tu sinh này. Cha nghĩ bây giờ cuộc họp đã xong rồi, con không cần đến cậu ta làm thư ký ghi chép làm chi nữa. Đi đi, cậu bé – Viện trưởng ra lệnh. Tôi xấu hổ lui ra. Nhưng vì tò mò, tôi để hé cửa hành lang, và bò sát bên ngoài để nghe lỏm câu chuyện.
Thầy William lại tiếp:
– Tuy nhiên, các mối quan hệ bất hợp pháp này, cho dù chúng có xảy ra đi nữa, thì chỉ có ảnh hưởng rất ít đến các biến cố đau thương này. Then chốt của vấn đề nằm ở một nơi khác, con nghĩ rằng Cha đã hình dung được. Tất cả xoay quanh việc ăn cắp và sở hữu một quyển sách đã cất dấu trong “finis Africae”, và bây giờ nhờ sự can thiệp của Malachi, đã hoàn về vị trí cũ, mặc dù, như Cha đã thấy, chúng ta không nắm được sự nối tiếp của các án mạng.
Im lặng một hồi lâu, rồi Tu viện trưởng cất tiếng, giọng ngập ngừng, nghẹn ngào, như một người bị choáng váng bởi những tiết lộ bất ngờ.
– Điều này không thể xảy ra… con… Làm sao con biết về “finis Africae”? Con đã vi phạm luật cấm của ta và xâm nhập Thư viện à?
Đáng lẽ thầy William phải thưa thật, nhưng như thế Tu viện trưởng sẽ nổi giận không lường được. Thế nhưng thầy tôi rõ ràng cũng không muốn nói dối. Thầy chọn cách trả lời câu hỏi đó bằng cách đưa ra một câu hỏi khác: – Thoạt đầu tiên gặp gỡ, chẳng phải Đức Cha đã bảo con rằng, một người đã miêu tả chú ngựa Brunellus thật chính xác mà không hề nhìn thấy nó như con, sẽ dễ dàng hình dung những nơi chốn mà người ấy không được vào sao?
– Đúng vậy. Nhưng sao con lại nghĩ như ban nãy?
– Làm thế nào con đi đến kết luận của mình là một câu chuyện dài. Nhưng người ta đã gây ra một loạt án mạng để ngăn cản không cho nhiều người phát hiện một điều mà người ta không muốn họ phát hiện. Bây giờ, tất cả những ai biết chi đó về các bí mật của thư viện, bằng những cách chính đáng hay mưu mô đi nữa, đều đã chết! Chỉ còn mỗi một người: đó là Cha.
– Bộ con muốn ám chỉ… con muốn ám chỉ…
– Xin chớ hiểu lầm con, – thầy William nói, có lẽ thầy cũng thật định bụng bóng gió xa gần. – Con nói, chỉ còn một người biết và không muốn người nào khác biết. Vì Cha là người cuối cùng ấy, Cha có thể sẽ là nạn nhân kế tiếp. Trừ phi Cha kể cho con những điều Cha biết về quyển sách cấm đó, và nhất là, ai trong tu viện có thể biết điều Cha biết, và có lẽ còn hơn thế nữa, về Thư viện.
Tu viện trưởng nói:
– Trong này lạnh quá. Ta hãy ra ngoài đi.
Tôi chạy xa cửa thật nhanh và đợi cả hai ở đầu cầu thang. Tu viện trưởng trông thấy tôi, bèn mỉm cười.
– Tu sĩ trẻ này hẳn đã nghe bao nhiêu là chuyện buồn phiền mấy ngày vừa qua! Lại đây cậu bé, đừng có ưu phiền quá. Cha nghĩ, người ta đã tưởng tượng ra nhiều âm mưu không có thực…
Cha giơ một tay cho ánh sáng soi rạng chiếc nhẫn tuyệt đẹp đeo trên ngón áp út, dấu hiệu quyền lực của mình. Chiếc nhẫn bằng đá quí lấp lánh với tất cả vẻ rực rỡ của nó. Cha bảo tôi:
– Con có nhận thấy nó không? Đó là biểu tượng uy quyền nhưng cũng là gánh nặng của ta. Nó không phải là vật trang sức: nó là lời luận giải xinh đẹp về Phúc âm mà Cha là kẻ giữ gìn. – Ngón tay Cha chạm lên mặt nhẫn gồm nhiều viên đá quí điểm những đốm màu khác nhau, sắp xếp lại thành một kiệt tác tuyệt diệu của nghệ thuật tự nhiên và con người. Cha nói: – Đây là thạch anh tím, tấm gương của sự khiêm cung, nhắc chúng ta nhớ đến tính chân thật, ngọt ngào của Thánh Matthew. Đây là đá chalcedony, biểu tượng của sự từ thiện, lòng thành tâm của Joseph và Thánh James vĩ đại. Đây là ngọc thạch anh, nói lên đức tin và gắn liền với Thánh Peter, này là ngọc Sardonyx, dấu hiệu của sự tử vì đạo, nhắc ta nhớ đến Thánh Bartholomew. Đây là ngọc xafia, hy vọng và trầm tư, ngọc của Thánh Andrew và Thánh Paul, và đây là beryl, giáo điều đúng đắn, học thức và lòng bao dung, các đức tính của Thánh Thomas. – Giọng Cha lạc trong những hư ảnh huyền nhiệm: – Ôi, ngôn ngữ của những viên ngọc đá mới kỳ thú biết bao!
Cha xoay xoay chiếc nhẫn, tựa như muốn làm hoa mắt tôi với những tia lấp ánh rực rỡ của nó: – Thật là ngôn ngữ diệu kỳ phải không? Ngôn ngữ của đá ngọc rất đa dạng, mỗi loại biểu thị nhiều sự thật khác nhau, tùy theo ý nghĩa của lời giảng giải mà ta chọn, và tùy theo hoàn cảnh mà chúng xuất hiện. Và ai quyết định trình độ giảng giải và hoàn cảnh thích hợp? Cậu nhỏ, con biết vì họ đã dạy con rồi: đó chính là người cầm quyền, người bình luận tin cậy nhất, người đầy uy tín nhất, và do đó thiêng liêng nhất. – Cha chìa nhẫn ra cho tôi hôn, và tôi quì xuống. Cha vuốt đầu tôi: – Cậu bé, con phải quên đi những điều đã nghe được trong những ngày vừa qua, hẳn nhiên chúng đều sai lầm cả. Con đã bước vào một dòng tu vĩ đại nhất, cao quí nhất. Cha là Tu viện trưởng của dòng tu này, con nằm dưới quyền của Cha. Đây là lệnh của Cha: hãy quên đi, và mãi mãi khép miệng lại. Thề đi.
Quá xúc động và bị khuất phục, tôi đương nhiên phải thề. Và nếu vậy, bây giờ quí độc giả sẽ chẳng còn đọc được hồi ký trung thực của tôi đâu. Thầy William lúc đó bèn can thiệp, có lẽ không phải để ngăn tôi đừng thề, mà chỉ là một phản xạ trong cơn giận dữ, thầy muốn phá vỡ cái bùa chú mà Tu viện trưởng đang tung ra.
– Thằng bé này có liên quan gì đến việc đó? Con hỏi Cha một câu, con xin lưu ý cho Cha biết một mối nguy hiểm, con yêu cầu Cha nói lên một cái tên… Bây giờ Cha cũng muốn con hôn nhẫn này và thề sẽ quên những điều con biết hay nghi ngờ sao?
– À, con… – Tu viện trưởng buồn bã nói, – Cha không trông đợi một thầy dòng Khất thực hiểu được vẻ đẹp của truyền thống chúng tôi, hay phải tôn trọng sự kín đáo, các bí mật, những bí ẩn của lòng từ thiện, – phải, lòng từ thiện, và ý thức danh dự, và lời thề im lặng, những điều làm nền tảng cho sự vĩ đại của chúng tôi… Con đã kể cho Cha nghe một câu chuyện lạ lùng, một câu chuyện không thể tin được, về một quyển sách cấm đã gây ra một chuỗi vụ giết người, về một kẻ nào đó biết những việc chỉ mình Cha biết… Toàn là chuyện hoang đường, những lời buộc tội vu vơ. Con cứ nói lên chuyện đó đi, sẽ chẳng ai tin con đâu. Và thậm chí, nếu có vài yếu tố trong cách giải thích hoang tưởng là đúng đi nữa… thì, bây giờ, một lần nữa, tất cả lại nằm dưới sự kiểm soát và định đoạt của Cha. Cha sẽ xem xét việc này. Cha có quyền, có phương tiện. Ngay từ đầu, Cha đã sai lầm đi nhờ một người ngoài, dù người ấy có khôn ngoan và đáng tin cậy đến đâu chăng nữa, điều tra những việc mà chỉ mình Cha có trách nhiệm giải quyết. Nhưng con đã hiểu, như con đã kể Cha nghe. Thoạt đầu, Cha tưởng nó liên quan đến một sự vi phạm lời thề trinh tiết, và Cha muốn một người khác nói lên cái điều Cha đã biết qua xưng tội. Chà, bây giờ chính con đã nói lên điều đó. Cha rất biết ơn những việc con đã làm hay cố làm. Cuộc gặp gỡ giữa hai phái đoàn đã kết thúc, sứ mệnh của con tại đây đã chấm dứt. Cha nghĩ triều đình đang nóng lòng đợi con, không ai muốn vắng mặt lâu một người như con. Cha cho phép con rời tu viện. Hôm nay, có lẽ muộn rồi: Cha không muốn con ra đi sau hoàng hôn, vì đường xá không được an ninh. Con sẽ lên đường tảng sáng ngày mai. Thôi, khỏi cảm ơn Cha, Cha rất vui khi con đến đây, rất quí được đón tiếp con như một người anh em đến với anh em. Bây giờ, con và tu sinh của con có thể lui về sửa soạn hành lý. Bình minh sáng mai, Cha sẽ chào tạm biệt con. Cha thực tâm cảm ơn con. Dĩ nhiên, con không cần tiếp tục cuộc điều tra thêm làm gì. Chớ quấy rầy các tu sĩ thêm nữa. Con được phép đi.
Đó không phải một cách cho lui, mà là một lời đuổi thẳng. Thầy William từ giã và chúng tôi xuống lầu.
– Thế nghĩa là thế nào? – Tôi hỏi, chẳng còn hiểu ất giáp gì nữa.
– Cố dựng lên một giả thuyết xem, con hẳn biết cách rồi.
– Quả thật, con biết mình phải đưa ra ít nhất hai giả thuyết đối nghịch nhau, và cả hai đều không thể tin được. Này nhé… – Tôi nuốt nước miếng, xúc động, hồi hộp. – Giả thuyết thứ nhất: Tu viện trưởng đã biết tất cả và tưởng thầy sẽ không phát hiện được điều gì. Giả thuyết thứ hai: Tu viện trưởng chẳng bao giờ nghi ngờ điều gì. Nhưng dẫu sao, Cha cứ nghĩ, tất cả là do cuộc cãi vã… giữa các tu sĩ đồng tính luyến ái… Tuy nhiên, bây giờ thầy đã mở mắt cho Cha thấy, nên Cha đột nhiên nhận thức được một việc rất kinh khủng, và đã nghĩ ra một cái tên và biết chắc chắn ai là kẻ có tội trong các án mạng. Nhưng lúc này, Cha muốn tự tay giải quyết vấn đề và tống khứ thầy đi để cứu vãn danh dự của tu viện.
– Giỏi. Con bắt đầu suy luận khá đấy. Nhưng, con đã thấy trong cả hai trường hợp, Tu viện trưởng đều lưu tâm đến thanh danh của tu viện mình. Dù Cha có là kẻ sát nhân hay nạn nhân kế tiếp đi nữa, Cha không muốn những tin tức ô nhục về cộng đồng thiêng liêng này lan ra khỏi những ngọn núi. Giết tu sĩ của Cha đi, nhưng chớ có chạm đến danh dự của tu viện. Cha chả… – Thầy William bắt đầu giận sôi lên. – Lão lãnh chúa lưu manh, con công đực nổi tiếng nhờ đào mồ chôn Aquinas [1], cái túi da đựng rượu căng phồng vênh váo, sống chỉ vì đeo một cái nhẫn to như đáy ly! Tất cả bọn Cluniac các người đều tự mãn, tự mãn, còn lối hơn cả các vương tôn công tử, còn bảo hoàng hơn cả vua!
– Thầy…- tôi đánh bạo trách móc, lòng thấy bị xúc phạm.
– Con im ngay, con cũng một phường với chúng. Lũ các người không phải là những người dân phàm tục, hay con cái của họ. Nếu một nông dân đi theo thì các người sẽ đón nhận, nhưng như ta thấy hôm qua đó, các người sẽ chẳng ngần ngại gì trao anh ta lại cho thế quyền. Nhưng nếu là một kẻ trong số các người thì không, không bao giờ, phải bao che cho người ấy. Tu viện trưởng có thể chỉ mặt tên khốn nạn đó, đập hắn chết trong hầm kho tàng rồi để hắn chết quéo trong mấy cái hộp đựng thánh tích, với điều kiện tu viện khỏi bị nhục… Còn để cho một tu sĩ Francisco, một tu sĩ Khất thực bình dân khám phá ra cái ổ chuột trong tòa nhà thiêng liêng này ư? À, không thể được, bằng mọi giá, Tu viện trưởng không thể để điều này xảy ra. Cảm ơn, Sư huynh William, Hoàng đế cần Huynh, Huynh thấy cái nhẫn tôi đeo đẹp biết bao, tạm biết Huynh. Nhưng bây giờ chuyện thách thức không chỉ giữa ta và Tu viện trưởng nữa, mà là giữa ta và toàn bộ sự việc: ta sẽ không rời nơi này cho đến khi tìm ra. Lão muốn ta ra đi sáng mai phải không? Được lắm, đây là nhà của lão mà, nhưng cho đến sáng mai ta phải biết, phải biết.
– Thầy phải biết? Giờ có ai ép buộc thầy đâu?
– Adso ạ, chẳng ai buộc chúng ta phải biết cả. Nhưng chúng ta phải biết thế thôi, dù là biết không trọn vẹn đi nữa.
Tôi vẫn còn hoang mang và thấy nhục về những lời thầy William xúc phạm đến dòng tu và các Tu viện trưởng của tôi. Tôi cố phân minh phần nào cho Cha Bề trên, bằng cách đưa ra giả thuyết thứ ba, sử dụng tài lý luận mà tôi nghĩ mình bắt đầu thành thạo.
– Thưa thầy, thầy chưa xét đến khả năng thứ ba. Những ngày vừa qua chúng ta đã nhận thấy một điều, và sáng hôm nay, sau những lời tâm sự tin cậy của Nicholas và những lời đồn đại chúng ta nghe được trong nhà thờ, điều ấy dường như quá rõ rằng có một nhóm tu sĩ Ý không chịu chấp nhận sự kế vị của các quản thư người nước ngoài, họ lên án Tu viện trưởng đã không tôn trọng truyền thống cũ, và theo như con hiểu, họ nấp sau lưng già Alinardo, đẩy già tới trước như một điển hình để đòi hỏi một chính quyền khác trong tu viện. Do đó, có lẽ Tu viện trưởng sợ tiết lộ của chúng ta sẽ trao vũ khí vào tay kẻ thù mình, và muốn giải quyết vấn đề một cách hết sức thận trọng.
– Có thể như vậy. Nhưng lão ấy vẫn là một cái túi da đựng rượu căng phồng vênh váo, và chính lão sẽ bị giết.
Chúng tôi đang ở trong nhà dòng. Gió càng lúc càng hung tợn hơn, ánh sáng mờ dần, dù mới chỉ qua kinh Xế Trưa. Sắp hoàng hôn rồi. Chúng tôi chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Thầy William nói:
– Muộn rồi, và khi có ít thời gian, người ta phải ráng giữ bình tĩnh. Chúng ta hành động như thể chúng ta đang có thời gian vĩnh cửu. Thầy phải giải quyết một vấn đề: làm cách nào xâm nhập “finis Africae” vì lời giải đáp cuối cùng phải nằm ở đó. Rồi chúng ta phải cứu một người, thầy chưa quyết được đó là ai. Cuối cùng, chúng ta nên xem xét có gì xảy ra ở hướng chuồng ngựa không, con sẽ để mắt đến nó… Hãy nhìn xem cái gì chộn rộn thế…
Quả thật khoảng giữa Đại dinh và nhà dòng chợt náo động khác thường. Mới cách đây một lát, một tu sinh từ nhà Tu viện trưởng chạy vụt về phía Đại Dinh. Bây giờ, Nicholas lại từ Đại Dinh chạy trực chỉ hướng nhà nghỉ. Ở một góc, nhóm tu sĩ ban sáng: Pacificus, Aymaro, và Peter, đang bàn cãi sôi nổi với Alinardo, tựa như muốn thuyết phục già một điều gì.
Rồi, dường như họ đi đến một quyết định. Aymaro đỡ lấy già Alinardo, lúc ấy vẫn lộ vẻ miễn cưỡng không sốt sắng lắm, và cùng đi vào nhà của Tu viện trưởng. Họ vừa mới bước vào thì Nicholas từ nhà nghỉ đi ra, dẫn theo Jorge, cả hai cùng đi về hướng đó. Trông thấy hai tu sĩ Ý bước vào, huynh rỉ tai Jorge điều gì đó, và lão già lắc đầu. Tuy nhiên, họ vẫn cất bước về phía nhà nguyện.
– Tu viện trưởng đang tự cáng đáng tình hình hiện nay…- Thầy William nói, giọng ngờ vực. Từ Đại Dinh lại hiện thêm nhiều tu sinh nữa trên phòng thư tịch xuống, theo bén gót họ là Benno, Huynh tiến đến phía chúng tôi, mặt lộ vẻ hết sức lo lắng. Huynh nói:
– Trong phòng thư tịch có điều bất an. Không ai chịu làm việc, mà cứ xì xầm nói chuyện với nhau… Việc gì xảy ra thế?
– Việc xảy ra là, những người cho đến sáng nay tưởng như là người tình nghi nhất thì đều đã chết. Hôm kia thì ai cũng dè chừng, cảnh giác với Berengar, ngu ngốc lường gạt và dâm dục, rồi họ nghi quản hầm, người tình nghi dị giáo, và cuối cùng là Malachi, người ai nấy đều không ưa… Bây giờ, họ chẳng biết nghi ai nữa, nên phải khẩn cấp tìm một kẻ thù hay một tên bung xung. Mỗi người nghi một người khác, vài người sợ hãi, như Huynh vậy, một số người khác lại quyết định phải hù những người khác sợ. Tất cả các Huynh đều lo cuống cuồng lên. Adso, thỉnh thoảng liếc chừng các chuồng ngựa nhé. Thầy về nghỉ một lát đây.
Tôi chưng hửng: về nghỉ trong khi chỉ còn lại vài giờ thật chẳng có vẻ khôn ngoan tí nào. Nhưng bây giờ tôi đã hiểu thầy tôi. Thân thể thầy càng được nghỉ ngơi thì trí tuệ thầy lại càng sôi sục lên.

Chú thích:
[1] Chỉ Thánh Thomas (1225?-1274) triết gia, học giả Ý.

GIỮA KINH CHIỀU VÀ KINH TỐI

Kể tóm tắt những giờ dài hoang mang

Tôi thật khó tường thuật lại những gì đã xảy ra trong những giờ tiếp theo, giữa Kinh Chiều và Kinh tối.
Thầy William vắng mặt. Tôi lang thang quanh dãy chuồng ngựa, nhưng chẳng thấy có gì bất thường. Các người giữ ngựa dẫn thú về chuồng, trời gió làm chúng bồn chồn. Ngoài ra, tất cả đều tĩnh lặng.
Tôi bước vào nhà thờ. Mọi người đều đã vào chỗ, nhưng Tu viện trưởng để ý thấy Jorge vắng mặt. Cha khoát tay ra hiệu hoãn buổi lễ. Cha gọi Benno, phái Huynh đi tìm già Jorge, nhưng Benno không có mặt. Có người lên tiếng bảo: có lẽ Benno đang dọn dẹp phòng thư tịch để đóng cửa buổi tối. Tu viện trưởng giận dữ bảo Cha đã quyết định: Benno sẽ không đóng cửa nào cả, vì Huynh ấy không biết cách. Aymaro đứng dậy nói: – Nếu Đức Cha đồng ý, con sẽ đi gọi Huynh ấy…
– Không ai yêu cầu Huynh làm điều gì cả. – Tu viện trưởng cộc lốc gắt lên, Aymaro ngồi xuống chỗ của mình, không quên ném cho Pacificus một cái nhìn khó hiểu. Tu viện trưởng cho gọi Nicholas, lúc ấy không có mặt. Có người nhắc Cha rằng, Nicholas đang sửa soạn bữa tối, Cha lộ cử chỉ giận lắm, tựa như không thích để mọi người thấy Cha đang bồn chồn lo lắng. Cha hét:
– Ta muốn Jorge có mặt ở đây. Tìm Huynh ấy! Con đi ngay! – Cha ra lệnh cho thầy của các tu sinh.
Một người khác báo cáo Cha rằng Alinardo cũng vắng mặt. Cha bảo: – Cha biết, Huynh ấy không được khỏe.
Tôi ngồi gần Peter và nghe Huynh ấy nói với Gunzo xứ Nola ngồi bên cạnh, bằng một thứ thổ ngữ miền Trung Ý mà tôi hiểu được phần nào:
– Tôi cũng nghĩ vậy. Hôm nay, sau cuộc hội đàm, tu sĩ già đáng thương quẫn trí cả lên. Cha Bề trên cư xử như con điếm ở Avignon!
Các tu sinh đều hoang mang. Tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm của họ cảm thấy một điều căng thẳng bao trùm khu hát kinh, như tôi đang cảm thấy vậy. Tiếp sau đó là im lặng và bối rối kéo dài. Tu viện trưởng ra lệnh đọc vài bài vịnh, và Cha chọn ba bài mà giáo luật không qui định cho đọc trong Kinh Chiều. Mọi người nhìn nhau, rồi bắt đầu cầu nguyện bằng giọng trầm trầm. Thầy của các tu sinh trở lại, theo sau là Benno. Huynh về chỗ, đầu cúi gầm, Jorge không có trong phòng thư tịch, cũng không ở phòng mình. Tu viện trưởng ra lệnh bắt đầu buổi lễ.
Khi tan lễ, trước khi mọi người đi dùng buổi tối, tôi chạy đến gọi thầy William. Thầy ăn mặc chỉnh tề, đang nằm dài bất động trên giường. Thầy bảo không ngờ đã tối như vậy. Tôi kể tóm tắt những gì đã xảy ra. Thầy lắc đầu.
Ở cửa nhà ăn, chúng tôi trông thấy Nicholas, người mấy giờ trước đây đã cùng đi với Jorge. Thầy William hỏi Huynh, già Jorge ban nãy có vào gặp Tu viện trưởng ngay không. Nicholas bảo Jorge phải đợi một lúc lâu ở ngoài cửa, vì Alinardo và Aymaro đang ở trong phòng. Sau khi Jorge được mời vào, già ở bên trong một lúc, trong khi Nicholas đợi bên ngoài. Rồi Jorge đi ra và bảo Nicholas đi theo đến nhà thờ, lúc ấy đã vắng ngắt, khoảng một giờ trước Kinh Chiều.
Tu viện trưởng thấy chúng tôi nói chuyện với quản hầm bèn khiển trách: – Sư huynh William, con vẫn còn điều tra à? – Cha bảo thầy William đến bàn cùng ăn như thường lệ. Đối với dòng Benedict, sự hiếu khách là điều thiêng liêng.
Bữa tối yên lặng hơn mọi ngày, và rất buồn. Tu viện trưởng ăn uống thờ ơ, đầu óc ám ảnh bởi những suy nghĩ nặng nề. Đến cuối bữa, Cha hối các tu sĩ đi dự Kinh Tối.
Alinardo và Jorge vẫn vắng mặt. Các tu sĩ chỉ vào chỗ trống của tu sĩ mù và xì xào với nhau. Khi tan lễ, Tu viện trưởng yêu cầu mọi người đọc một bài kinh đặc biệt vì sức khỏe của Jorge xứ Burgos. Không rõ Cha muốn nói sức khỏe thể chất hay sức khỏe vĩnh cửu. Mọi người đều hiểu một tai họa mới sắp đổ xuống đầu cộng đồng. Đoạn Tu viện trưởng lệnh cho mỗi tu sĩ phải về nhanh phòng mình sớm hơn lệ thường. Cha ra lệnh, không một ai, Cha nhấn mạnh những từ “không một ai”, được đi lại bên ngoài khu nhà nghỉ. Các tu sinh hoảng sợ là những người đầu tiên rời gót, họ sụp mũ xuống mặt, đầu cúi thấp, không dám nói chuyện trao đổi, huých hó, cười đùa, hay giỡn ngầm với nhau như thường bữa.
Khi các tu sĩ nối nhau đi ra, tôi nhẹ nhàng nhập vào hàng, đằng sau nhóm mà bây giờ tôi đặc tả là “nhóm tu sĩ Ý”. Pacificus thầm thì với Aymaro: – Huynh có tin thực là Cha Bề trên không biết Jorge ở đâu không? – Aymaro đáp: – Cha có thể biết, và hiểu rằng từ nơi lão Jorge đang có mặt hiện nay, lão sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa. Có lẽ lão già đòi hỏi quá nhiều, và Cha Bề trên không cần lão nữa…
Khi thầy trò tôi giả vờ đi về khu hành hương, chúng tôi thoáng thấy Tu viện trưởng quay lại Đại Dinh, qua cánh cửa nhà ăn, lúc ấy còn đang mở ngỏ. Thầy William bảo nên đợi một lát, khi toàn khu vực đã vắng bóng người, thầy bảo tôi bám theo Cha. Chúng tôi vội băng qua khoảng trống và đi vào giáo đường.

SAU KINH TỐI

Gần như do tình cờ
William khám phá bí mật
để đột nhập “finis Africae”

Như hai tên ám sát, chúng tôi nấp gần cổng vào, sau một cái cột, từ đây, chúng tôi có thể quan sát nhà thờ và những cái sọ. Thầy William bảo:
– Cha Bề trên đã vào đóng cửa Đại Dinh. Khi Cha gài then từ bên trong, Cha chỉ có thể đi ra bằng lối lò thiêu xương.
– Thế rồi?
– Rồi ta sẽ thấy Cha làm gì.
Chúng tôi không khám phá được Cha đã làm gì. Một giờ trôi qua mà Cha vẫn chưa xuất hiện. Tôi nói, Cha đã vào “finis Africae”. Thầy đáp, có lẽ. Muốn đưa ra nhiều giả thuyết nữa, tôi tiếp: Có lẽ Cha đã băng qua nhà ăn để ra ngoài lại và đang đi tìm Jorge. Thầy đáp, cũng có thể lắm. Tôi tưởng tượng thêm, có lẽ Jorge đã chết. Có lẽ lão đang ở trong Đại Dinh và giết Tu viện trưởng. Có lẽ cả hai đang cùng ở một chỗ nào khác và ai đó đang rình rập họ. “Những tu sĩ Ý” muốn gì? Tại sao Benno sợ hãi thế? Hay Huynh ấy chỉ đeo mặt nạ để đánh lạc hướng chúng tôi? Tại sao Huynh ấy nán lại phòng thư tịch trong giờ Kinh Chiều, nếu Huynh ấy không biết cách đóng cửa phòng hay cách ra ngoài? Phải chăng, Huynh ấy muốn thăm dò lối đi trong Mê cung? Thầy William bảo:
– Tất cả đều có thể xảy ra. Nhưng chỉ có một điều đang, đã, và sắp xảy ra. Và cuối cùng, Ơn trên đã ban cho chúng ta một sự khẳng định ngời sáng.
– Điều gì thế? – Tôi hỏi, tràn trề hy vọng.
– Rằng sư huynh William xứ Baskerville, người giờ đây tin rằng đã hiểu hết mọi việc, lại không biết cách vào “finis Africae”. Đi xuống chuồng ngựa, Adso, đi xuống chuồng ngựa!
– Nhưng nếu Tu viện trưởng thấy chúng ta?
– Chúng ta sẽ giả thành hai bóng ma.
Tôi nghĩ, giải pháp này không thực tế lắm, nhưng làm thinh. Thầy William càng lúc càng bồn chồn. Chúng tôi ra khỏi cửa bắc và băng qua nghĩa trang, gió rít từng cơn, tôi cầu Chúa sao cho đừng gặp hai con ma, vì tu viện đêm đó không thiếu các linh hồn bị đọa đày. Chúng tôi đến dãy chuồng ngựa, chúng càng bồn chồn hơn bao giờ hết vì thời tiết khắc nghiệt. Cửa chính của chuồng ngựa có một lưới sắt rộng, cao ngang tầm ngực, qua đó có thể nhìn vào bên trong. Tôi thấy con Brunellus đứng đầu phía tay trái. Bên phải nó, con ngựa thứ ba trong hàng ngẩng đầu lên, cảm biết có người đến, nó hí lên. Tôi mỉm cười nói:
– Tertius equi, con ngựa thứ ba.
– Gì vậy? – Thầy William hỏi.
– Không có gì cả. Con nhớ đến Salvatore đáng thương. Gã muốn làm phép mầu quái quỉ với con ngựa đó, gọi nó bằng tiếng La tinh của gã là “Tertius equi”, “i” đáng lẽ là “u” mới phải.
– “U” à? – Thầy hỏi, nãy giờ thầy nghe tôi nói vu vơ mà không chú ý lắm.
– Vâng, vì “Tertius equi” không có nghĩa là con ngựa thứ ba, mà là phần thứ ba của con ngựa, và mẫu tự thứ ba của từ “equus” là “u”. Nhưng chúng thảy đều vô nghĩa.
Thầy William nhìn tôi, và trong bóng đêm, dường như tôi thấy mặt thầy biến đổi. Thầy bảo:
– Chúa phù hộ cho con, Adso ạ! Chà, phải rồi, Suppositio materialis giả thuyết vật chất, bản viết được đoán theo de dicto[1] chớ không phải de re [2]… Sao ta ngu quá! – Thầy vỗ lên trán đánh “bộp” một cái. Tôi nghĩ chắc đau lắm. – Cậu bé của thầy, trong ngày hôm nay, đây là lần thứ hai sự thông thái đã từ miệng con thốt ra, lần đầu trong giấc mơ và bây giờ khi tỉnh! Chạy đi, chạy về phòng con và đem cây đèn, hay tốt hơn đem cả hai cây đèn chúng ta đã giấu. Đừng để ai thấy con, và đến với thầy trong nhà thờ ngay! Đừng hỏi gì nữa! Đi đi!
Tôi chẳng hỏi gì, đi ngay. Hai cây đèn giấu dưới giường, tôi đã cẩn thận châm đầy dầu đến miệng trước rồi. Tôi có đá lửa sẵn trong áo dòng. Ôm chặt hai dụng cụ quí báu vào ngực, tôi chạy vào nhà thờ.
Thầy William đứng dưới ngọn đèn ba chân, đang đọc lại bản ghi chú của Venantius. Thầy bảo:
– Adso, “primum et septimum de quatuor” không có nghĩa là cái thứ nhất và thứ bảy của thứ tư, mà là của cái thứ tư, của từ “thứ tư”.
Tôi không hiểu gì trong một thoáng, nhưng rồi trí sáng lên:
– “Super thronos viginti quatuor”. Câu viết! câu thơ. Những từ này được khắc trên tấm gương!
– Đi ngay, – thầy William bảo – có lẽ chúng ta còn kịp cứu một mạng người!
– Người nào? – tôi hỏi, khi thầy dùng tay mày mò mấy cái sọ người để mở cửa vào lò thiêu xương.
– Mạng của kẻ không đáng giữ nó, – thầy bảo. Chúng tôi đang ở trong lối đi dưới đất, đèn chiếu sáng, lần về phía cửa, dẫn vào nhà bếp.
Trước đây, tôi đã nói rằng đến đây người ta sẽ đẩy một cánh cửa gỗ và lọt vào nhà bếp, đằng sau lò sưởi, ở cuối cầu thang xoắn ốc dẫn lên phòng thư tịch. Ngay khi chúng tôi vừa đẩy cửa đó, chúng tôi nghe ở phía tay trái vài tiếng động nghèn nghẹt bên trong tường. Chúng phát ra từ bức tường bên cạnh cửa, cuối dãy các hốc chứa sọ và xương. Thay vào các hốc cuối cùng là một bức tường trống bằng những viên đá lớn hình vuông, chính giữa là một tấm bảng có khắc vài chữ viết lồng nhau đã mòn nhẵn. Dường như âm thanh phát xuất từ bên cạnh tấm bảng, hay trên tấm bảng gì đó, một phần bên kia bức tường, và một phần gần như trên đầu chúng tôi.
Nếu nghe được một âm thanh như thế vào đêm đầu tiên, có lẽ tôi đã nghĩ ngay đến mấy tu sĩ chết. Nhưng bây giờ tôi có khuynh hướng nghĩ đến những điều tệ hơn từ các tu sĩ sống. Tôi hỏi:
– Có thể là ai thế nhỉ?
Thầy William mở cửa và trồi ra bên cạnh lò sưởi. Cũng nghe có những tiếng đấm thùm thụp dọc theo bức tường hai bên cầu thang, tựa như có ai đang bị giam trong bức tường, hay trong cái khoảng không mênh mông dày đặc mà ta giả sử nằm giữa bức tường trong cửa nhà bếp và bức tường ngoài của ngọn tháp phía Nam.
Thầy William bảo: – Có người đang bị nhốt kín trong đó rồi. Từ đầu, thầy vẫn tự hỏi không hiểu có một lối khác lên “finis Africae” trong cái Đại Dinh đầy ngõ ngách này không. Rõ ràng là có. Từ lò xương, trước khi đến nhà bếp, một bức tường trống mở ra, và người ta leo lên cầu thang song song với cầu thang này, nó được giấu trong tường và dẫn thẳng lên căn phòng không có cửa sổ.
– Nhưng bây giờ ai đang ở đó?
– Người thứ hai. Một người ở trong “finis Africae”, một người khác cố đến chỗ đó, nhưng người trên kia hẳn đã chặn cái bộ máy điều khiển cửa ra vào. Thế là người dưới đây lọt bẫy. Và người ấy đang vùng vẫy dữ dội vì thầy nghĩ, trong khoảng tường chật hẹp này, chẳng có mấy không khí đâu.
– Ai vậy? Chúng ta phải cứu người ấy.
– Chúng ta sẽ biết người ấy là ai ngay thôi. Còn việc cứu người ấy thì chỉ có duy nhất một cách là thả cái bộ máy ở trên kia ra: chúng ta chưa nắm được bí mật ở đầu kia. Lên lầu nhanh thôi!
Thế là chúng tôi lên phòng thư tịch, từ đó đi vào Mê cung và sải nhanh đến ngọn tháp phía Nam. Hai lần tôi phải chậm bước lại, vì gió đêm nay tràn qua các khe hở tạo thành luồng luồn khắp các lối đi, nó rên rỉ trong mọi phòng, thổi xào xạc những tờ giấy nằm vương vãi trên bàn, do đó tôi phải lấy tay che đèn lại.
Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến căn phòng có tấm gương, lần này đã chuẩn bị tinh thần để đối phó với trò chơi biến dạng đang đợi mình. Chúng tôi giơ cao ngọn đèn để soi sáng dòng thơ ở trên tận cùng khung cửa tấm gương. “Super thronos viginti quatuor”… Bây giờ bí mật đã hoàn toàn rõ: từ “quatuor” có bảy mẫu tự, chúng tôi sẽ phải nhấn vào mẫu tự “q” và “r”. Tôi náo nức nghĩ phải tự tay mình làm mới được. Tôi đặt vội cái đèn xuống chiếc bàn ở giữa phòng, nhưng nóng nảy quá khiến ngọn lửa liếm vào bìa một quyển sách cũng đang đặt trên bàn.
– Coi chừng, thằng ngốc! – Thầy William la lên, và thổi phụt một hơi tắt ngọn lửa. – Con muốn đốt thư viện hả?
Tôi xin lỗi, và toan châm đèn lại, nhưng thầy Willam ngăn:
– Không sao. Đèn của thầy cũng đủ rồi. Cầm đèn soi cho thầy, vì câu thơ quá cao, con không với tới đâu. Chúng ta phải nhanh lên.
– Nhưng nếu có kẻ đã vũ trang ở trong đó thì sao? – Tôi hỏi, khi thấy thầy William đang nhón gót cố chạm lên dòng thơ trong sách Mặc Khải, lần mò tìm hai mẫu tự tai ác.
– Đồ quỉ, soi đèn cho thầy, và đừng có sợ gì hết, Chúa ở cùng chúng ta! – Thầy đáp, tiếng hơi lùng bùng khó nghe. Ngón tay thầy đang chạm lên mẫu tự “q” của từ “quatuor”, đứng lui lại mấy bước, tôi thấy rõ công việc của thầy hơn. Tôi đã nói rằng các mẫu tự trong câu thơ dường như được khắc hay vạch vào tường: các mẫu tự của từ “quatuor”, bề ngoài trông giống các đường viền kim loại, đằng sau chúng là một bộ máy kỳ diệu được đặt kín trong tường. Khi đẩy tới, chữ “q” bật lên một tiếng “click” giòn, và khi thầy William ấn vào chữ “r” thì một hiện tượng tương tự xảy ra. Toàn khung kính dường như rung chuyển, và mặt gương bật ngược lại. Tấm gương chính là một cái cửa gắn bản lề phía bên trái. Thầy William lách mình qua kẽ hở và tôi lủi theo, tay giơ đèn qua khỏi đầu.
Hai giờ sau Kinh Tối, cuối ngày thứ sáu, nửa đêm khuya thanh vắng rạng ngày thứ bảy, chúng tôi đã đột nhập vào “finis Africae”.

Chú thích:
[1] Cách nói
[2] Từ chữ “de règle” có nghĩa là theo qui luật hay dạng đúng qui tắc.

nguon : vnthuquan.net

03/05/2010

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG (ngày thứ 5 ) – UMBERTO ECO

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 09:21

NGÀY THỨ 5

KINH ĐẦU

Người dịch : Đặng Thu Hương

Cuộc tranh luận
về sự cơ nghèo của Chúa Kitô

Tim tôi bị dày vò bởi trăm ngàn nỗi khắc khoải sau cảnh tượng đêm qua, nên buổi sáng ngày thứ năm, khi tôi thức dậy, thì chuông báo Kinh Đầu đã điểm. Thầy William lắc tôi thật mạnh, đe rằng hai phái đoàn sẽ gặp nhau chốc lát nữa thôi. Tôi nhìn ra cửa sổ, chẳng thấy gì cả. Làn sương mù hôm qua, giờ vẫn là lớp màn sữa đục phủ trùm lên toàn cao nguyên.
Khi bước ra ngoài, cảnh tu viện hiện ra ngỡ như chưa từng trông thấy nó bao giờ. Từ xa xa, ta nhận ra được vài tòa nhà chính – như giáo đường, Đại Dinh, nhà nguyện – dù vẫn mờ mờ ảo ảo như bóng lồng trong bóng, còn các khu nhà khác thì đến gần mấy bước mới nhận ra. Đồ đạc và thú vật dường như đột hiện lên từ cõi hư vô; người ta hiện hình lên như những bóng ma, ban đầu màu xám, rồi dần dần, một cách khó khăn, mới nhận ra mặt.
Sinh ra từ miền Bắc, tôi không quen với loại thời tiết mù sương này. Có lẽ vào lúc khác, nó sẽ nhẹ nhàng gợi tôi nhớ đến những bình nguyên và lâu đài nơi quê hương tôi. Nhưng sáng hôm nay, thời tiết này đau đớn thay, lại giống với tâm hồn tôi quá, và nỗi buồn do nó đánh thức dậy cứ lớn dần lớn dần khi tôi chậm bước đến nhà nguyện.
Còn cách nhà nguyện vài thước, tôi thấy Bernard Gui chia tay với một người mà tôi chưa kịp nhận mặt. Khi người ấy đi qua, tôi mới biết là Malachi. Huynh ấy nhìn quanh như một người phạm tội không muốn bị ai bắt gặp.
Huynh không nhận ra tôi và bỏ đi. Bị óc hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo Bernard và thấy hắn đang giở xem vài tờ giấy gì đó, có lẽ do Malachi vừa đưa. Đến cổng nhà nguyện, hắn ra dấu gọi trưởng nhóm cung thủ đang đứng gần đó đến và thầm thì vài lời với người này. Rồi hắn đi vào. Tôi tiếp tục bám theo.
Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến đây. Nhìn từ bên ngoài, nhà nguyện lớn vừa phải, kiến trúc thanh nhã. Tôi nhận thấy nó vừa được xây lại trên tàn tích của một giáo đường nguyên sơ dành cho tu viện trưởng, mà một phần có lẽ đã bị hỏa thiêu.
Từ ngoài bước vào, người ta đi qua một cánh cổng kiểu mới, vòm nhọn không có trang trí, trên cùng là một cửa sổ hồng. Nhưng bên trong, người ta lọt vào một tiền sảnh xây dựng trên nền móng của một hành lang cũ. Đối diện là một cửa khác, vòm kiểu xưa, với một mạng giữa hình bán nguyệt, được chạm khắc tuyệt đẹp. Hẳn đó là cánh cửa của nhà thờ cũ, nay đã biến mất. Không có hình ảnh kỳ thú nào chạm khắc trên cánh cửa khiến người ta cảm thấy bất an, vì chúng không tượng trưng cho các tội lỗi trần thế hay nỗi khổ đau dưới địa ngục, mà chỉ muốn minh chứng rằng, Chúa Lời đã đến với toàn thế giới hữu tri và đang lan đến thế giới vô tri. Như thế, cánh cửa này là lời hứa hoan hỉ về một sự hài hòa, thống nhất, đạt được trong lời Chúa dạy, về một giáo hội tốt đẹp toàn thế giới.
Tôi nhủ thầm, đây là một điềm báo tốt cho cuộc họp sắp xảy ra bên trong ngưỡng cửa này. Tại đây, những con người vì những lời minh giảng mâu thuẫn về phúc âm đã trở thành kẻ thù của nhau, hôm nay có thể sẽ hòa giải được các ý kiến bất đồng. Tôi tự trách mình là một kẻ tội lỗi yếu đuối, cứ mãi khóc than vì nỗi đau riêng, trong khi những biến cố quan trọng trong lịch sử Thiên chúa giáo như thế này đang sắp xảy ra. Tôi so sánh khổ đau hèn mọn của mình với lời hứa cao cả về một nền hòa bình yên lành đã được khẳng định trong viên đá của mạng giữa. Tôi xin Chúa tha thứ sự yếu đuối của tôi, và tôi băng qua thềm cửa với niềm thanh thản mới.

o0o

Vừa bước vào, tôi thấy toàn bộ các thành viên của hai phái đoàn đã đến đông đủ. Họ ngồi đối diện nhau trên các băng ghế dài được sắp theo hình bán nguyệt, hai phe ngăn cách nhau bởi một chiếc bàn, nơi Tu viện trưởng và Hồng y Bertrand đang ngồi.
Thầy William đặt tôi ngồi cùng với các tu sĩ dòng Khất thực. Ở đây, có Cha Michael cùng các môn đệ, và các tu sĩ khác của dòng Francisco trong Triều Avignon, vì cuộc gặp gỡ này không nhằm làm ra vẻ một trận chiến tay đôi giữa người Ý và người Pháp, mà chính là cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ giáo luật dòng Francisco với những người chỉ trích nó – những người thảy đều liên kết với nhau bởi lòng trung thành Công giáo vững chắc với triều đình Giáo hoàng.
Tu viện trưởng khai mạc phiên họp và cho rằng đây là lúc thích hợp để tóm lược các biến cố trong thời gian gần đây. Cha nhắc lại rằng, trong năm 1332, Đại hội chung của các thầy dòng Khất thực, họp tại Perugia, dưới sự lãnh đạo của Cha Michael xứ Cesena, đã xác lập một suy nghĩ đúng đắn là để nêu gương cho một cuộc đời hoàn thiện, Đấng Ki-tô và các tông đồ theo lời dạy của Ngài, đã chẳng bao giờ sở hữu một vật gì, dù là của cải hay hận thù.
Sự thật này là một điều trong đức tin và giáo lý của Thiên chúa giáo, được suy ra từ nhiều đoạn khác nhau trong các kinh sách. Như thế, việc từ bỏ quyền sở hữu mọi vật là xứng đáng và thiêng liêng. Hội đồng thành Viên năm 1312 cũng đã tán thành chân lý này. Chính Giáo hoàng John trong sắc lệnh “Đòi hỏi của một số người”[1] năm 1317, về tình trạng của các thầy dòng Khất thực, đã cho rằng sự khẳng định của Hội đồng đó là đúng đắn và hợp lý. Tu viện trưởng tiếp, thế nhưng năm 1323, John đã ban hành sắc lệnh ngày nay rất nổi tiếng là “Giữa một số người”[2] trong đó hoàn toàn lên án các luận thuyết của Đại hội Perugia.
Đến đây, giáo chủ Bertrand nhã nhặn ngắt lời Tu viện trưởng và bảo rằng năm 1324, để làm sự việc phức tạp hơn và để chọc giận Giáo hoàng, Vua Louis đã khẳng định các luận thuyết của Đại hội Perugia mà chẳng hề có căn cứ nào, rồi đặt mình chống lại Giáo hoàng, gọi Giáo hoàng là kẻ gây tai tiếng và gieo mầm mất đoàn kết, và sau cùng là kẻ cầm đầu dị giáo.
Tu viện trưởng liền tiếp tục và bảo phần đầu của cuộc tranh luận nên được tiến hành giữa các sứ giả của Giáo hoàng với những người con đại diện của Thánh Francis, những người bằng việc tham gia cuộc gặp gỡ này, đã chứng tỏ mình là những đưa con trung thành nhất của Giáo hoàng. Đoạn, Tu viện trưởng mời cha Michael, hay đại biểu của Cha, chỉ rõ lập trường mà Cha định bảo vệ tại Avignon.
Cha Michael bảo ông vui mừng thấy trong số những người tham dự sáng nay có Cha Ubertino xứ Casale, người mà chính Giáo hoàng năm 1322 đã yêu cầu viết một bản tường thuật đầy đủ về vấn đề sự cơ nghèo của Chúa. Ubertino là người tốt nhất có thể tóm lược các điểm cốt yếu của các tư tưởng mà ngày nay, vẫn là những tư tưởng của dòng Francisco không hề thay đổi.
Ubertino đứng dậy, và bằng một giọng nói đầy thuyết phục, nụ cười đầy hấp lực, cách lý luận rõ ràng và liên tục, Cha đã thu hút người nghe suốt thời gian trình bày, Cha đưa ra một bản luận văn dài rất uyên bác, nêu lên các căn cứ làm nền tảng cho các luận thuyết của Đại hội Perugia.
Nhưng đến đây, Jean d’Anneaux phía đối diện đã đứng dậy tuyên bố rằng, ông nghĩ các lập luận của Ubertino là trái ngược với sự suy luận đúng đắn lẫn sự minh giảng đúng đắn về Thánh kinh.
Bên dòng Khất thực, Jerome, Giám mục xứ Kaffa, đã nóng nảy đứng dậy. Hàm râu Huynh run lên vì tức giận, mặc dù đã cố nói giọng hòa hoãn. Huynh đưa ra các lập luận hơi lộn xộn. Thế nhưng các lý lẽ trái ngược của Jean de Baunine, phe Giáo hoàng, giờ đã điên tiết lên, nghe còn lộn xộn hơn. Cuộc tranh luận càng lúc càng gay gắt, và đã có thêm sự tham gia của Giám mục dòng Dominic xứ Alborea. Rồi Alborea đuối lý, bèn lao ngang qua khoảng ngăn cách dòng Khất thực và đoàn Giáo hoàng, la toáng lên và dùng những lời lẽ tôi chẳng dám nhắc lại, đe dọa sẽ bứt râu Giám mục xứ Kaffa, nhét râu ông vào đâu đó, để trừng phạt theo kiểu ăn miếng trả miếng.
Các tu sĩ dòng Khất thực vội chạy tới quây thành một vòng cản, bảo vệ người anh em của mình; bên Avignon nghĩ rằng nên tiếp tay với giám mục Dominic, người cùng phe mình, và thế là một trận cãi lộn ầm ĩ liền nổ ra. Tu viện trưởng và Hồng y phải cố hết sức mới dẹp yên, nhưng trong trận đấu võ mồm hỗn loạn tiếp theo đó, các tu sĩ dòng Khất thực và tu sĩ dòng Dominic mắng nhau hết sức nặng lời, như thể mỗi người là con chiên của của Chúa chống lại bọn Saracen[3]. Hai người duy nhất còn ngồi trên ghế là William phía bên này và Bernard Gui phía bên kia. Thầy William lộ vẻ buồn, còn Bernard lại ra mặt vui, khẽ nhếch mép cười.
Khi Alborea nắm lấy hàm râu của Giám mục xứ Kaffa, tôi hỏi thầy:
– Chẳng lẽ không có cách tranh luận nào để chứng minh hay phản bác sự cơ nghèo của Chúa tốt hơn ư?
– À, con có thể xác nhận cả hai lập trường, Adso ạ. Nhưng vấn đề không phải Chúa nghèo hay không nghèo mà chính là Giáo hội có buộc phải nghèo hay không, và “nghèo” không có nghĩa là có hay không sở hữu một cung điện. Thực ra, nó có nghĩa là xác nhận hay phủ nhận các quyền hợp pháp được sở hữu của cải trần gian.
– Thế thì tại sao Hoàng đế lại rất chú ý đến những gì dòng Khất thực nói về sự cơ nghèo.
– Đúng thế. Dòng Khất thực đang về hùa với Hoàng đế chống lại Giáo hoàng. Nhưng Marsilius và thầy xem đó là con dao hai lưỡi, và muốn triều đình ủng hộ quan điểm của chúng ta và phục vụ lý tưởng vì nhân loại.
– Thầy sẽ nói như thế khi người ta mời thầy phát biểu chăng?
– Nếu thầy nói như vậy, thầy sẽ hoàn thành sứ mệnh của mình là giải thích các quan điểm của những nhà thần học triều đình. Nhưng đồng thời, thầy cũng không chu toàn nhiệm vụ, vì thầy phải tạo điều kiện dẫn đến một cuộc gặp gỡ khác ở Avignon, và thầy e rằng Giáo hoàng John sẽ không nhất trí cho thầy đến đó, nếu thầy nói những điều này.
– Vậy thì…?
– Vậy thì thầy bị kẹt giữa hai thế lực đối nghịch nhau, như một con lừa loay hoay không biết nên ăn bao rạ nào. Thời điểm chưa chín muồi. Marsilius kêu gào phải có một cuộc đổi mới cấp tốc, nhưng không thể thực hiện được. Còn Hoàng đế Louis đâu có khá hơn các vị tiên vương, mặc dù hiện nay Ngài là thành trì duy nhất chống lại một tên xấu xa như John. Nếu họ không giết sạch nhau, thì thầy sẽ phải lên tiếng. Dầu sao, con cũng phải ghi lại tất cả những lời phát biểu: tối thiểu, chúng ta cũng lưu lại được biên bản của cuộc họp hôm nay.
Khi hai thầy trò tôi nói chuyện thì cuộc tranh cãi đã lên đến tột đỉnh gay gắt. Quả thực, tôi cũng không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại nghe giọng nói của nhau được. Bernard Gui bèn ra hiệu cho các cung thủ vào để tách hai phe ra. Nhưng, như những người bao vây và bị bao vây ở hai bên chiến lũy, họ vẫn chửi bới, lăng nhục nhau, người này không đợi người kia nói dứt lời như thường xảy ra trong các vụ tranh luận ở quê tôi, mà theo kiểu dân trời biển, câu này lấp câu kia, như những làn sóng của một đại dương cuồng nộ. Tôi ghi lại đây một cách lộn xộn, không rõ người nào nói câu nào.
– Phúc âm nói rằng, Chúa có một túi tiền!
– Câm mồm! Chính các người đã vẽ các túi ấy lên cả thánh giá. Thế ngươi sẽ nói sao về việc Chúa khi đến Jerusalem phải trở về nghỉ đêm ở Bethany[4]?
– Nếu Chúa muốn ngủ ở Bethany thì ngươi là cái thứ gì mà thắc mắc?
– Không, đồ ngu. Chúa về Bethany vì Ngài không có tiền trả phòng trọ ở Jerusalem!
– Quỉ thần ơi, nhà ngươi thật ngốc như lừa. Thế Chúa ăn gì ở Jerusalem?
– Thế thì một con ngựa được chủ cho ăn lúa để sống có phải là chủ của lúa không?
– Thấy chưa? Ngươi so sánh Chúa với con ngựa…
– Không, chính ngươi là kẻ đã so sánh Chúa với tên Giám mục buôn thần bán thánh của triều đình ngươi, đồ đống cứt!
– Thế ư? Đã bao nhiêu lần giáo hội phải vác chiếu hầu tòa để bảo vệ tài sản của các ngươi?
– Tài sản của giáo hội chớ không phải của chúng tôi. Chúng tôi chỉ sử dụng nó thôi!
– Sử dụng để tiêu pha, để xây dựng nhà thờ đẹp, có tượng vàng, đồ đạo đức giả, mồ cha cố tổ những tên xấu xa đê hèn. Ngươi thừa biết không phải sự cơ nghèo mà chính là việc từ thiện mới thực là nguyên tắc của một đời toàn thiện.
– Đó chính là những lời của tên Thomas háu đói của các ngươi!
– Đồ du côn, hãy giữ lời ăn tiếng nói. Người mi gọi là “tên háu đói” chính là một vị thánh của giáo hội La Mã!
– Thánh đếch gì! Được John phong thánh để chọc quê dòng Francisco! Giáo hoàng của các ngươi không thể tạo ra thánh, vì hắn chính là một tên dị giáo! Tên đầu sỏ dị giáo!
– Bọn ta đã nghe điều đó rồi. Những lời phun ra từ bọn ngụy Bavaria ở Sachsenhausen, được Ubertino của các ngươi nhai đi nhai lại!
– Chớ hàm hồ, đồ lợn, mày là con của con mụ điếm Babylon và những con đượi khác! Ngươi biết năm đó Ubertino không ở với Đức vua mà ở ngay tại Avignon để phục vụ Giáo chủ Orsini, và Giáo hoàng đã phái cha đến Aragon làm sứ giả!
– Biết quá rồi, tại bàn ăn của giáo chủ, lão thề sẽ sống đời nghèo nàn, mà nay lại ở trong tu viện giàu nhất của bán đảo nước Ý này! Ubertino, nếu ngươi không ở đấy thì ai đã ở đấy thúc giục vua Louis sử dụng tác phẩm của ngươi?
– Nếu vua Louis đọc tác phẩm của ta thì ta có lỗi gì? Chắc chắn vua không thể đọc sách của các ngươi, đồ vô học.
– Ta mà vô học ư? Chẳng phải Thánh Francis của các ngươi là đồ vô học, đi nói chuyện với ngan ngỗng sao?
– Đồ báng bổ!
– Mi mới chính là đồ báng bổ.
Đến đây, Hồng y Bertrand và Tu viện trưởng đồng thanh hét lên:
– Thôi đi, thôi đi các huynh kính mến!

Chú thích:
[1] Quorundam exigit
[2] Cum inter nonnullos
[3] Người Hồi giáo chống lại Thập Tự Quân
[4] Một thành phố cổ gần Jerusalem, trên núi Olives

KINH XẾ SÁNG

Severinus nói với William
về một quyển sách lạ

Cuộc cãi lộn còn đang gay cấn thì một tu sinh canh cửa bước vào, vượt qua cảnh hỗn loạn này như một người băng đồng dưới cơn mưa đá. Chú ấy tiến gần thầy William, thì thầm rằng Severinus khẩn thiết muốn nói chuyện với thầy. Chúng tôi bước ra tiền sảnh đầy đặc các tu sĩ hiếu kỳ đang lắng nghe từ những tiếng la hét xem bên trong xảy ra diễn biến gì. Ở hàng đầu, chúng tôi thấy Aymaro chào chúng tôi với nụ cười khinh khỉnh cố hữu của một kẻ tội nghiệp trần gian ngu ngốc này, và nói:
– Từ khi các dòng Khất thực được thành lập, Thiên chúa giáo hẳn đã đạo đức hơn.
Thầy William gạt phắt Aymaro sang một bên và đi về cái góc nơi Severinus đang đợi. Huynh thất vọng vì muốn nói chuyện riêng với chúng tôi, nhưng không thể tìm được một nơi yên vắng trong cảnh hỗn loạn này. Chúng tôi định ra ngoài, nhưng Michael xứ Cesena nhìn ra cửa nhà nguyện, vẫy thầy William vào, bảo cuộc cãi cọ đã được hòa giải, và người ta sẽ tiếp tục đọc tham luận.
Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, thầy William giục Severinus nói, và dược thảo sư cố hết sức để mọi người khỏi nghe thấy:
– Berengar chắc chắn đã vào bệnh xá trước khi đến nhà tắm
– Sao Huynh biết?
Có vài tu sĩ đến gần, vì tò mò muốn nghe chuyện của chúng tôi. Severinus nhìn quanh, giọng càng nhỏ hơn:
– Huynh bảo tôi người đó… chắc hẳn phải mang trong người vật gì… Đúng, tôi tìm thấy một vật trong phòng thí nghiệm, giữa những quyển sách… một quyển sách, không phải của tôi, một quyển sách lạ…
Thầy William đắc thắng nói: – Chính nó đấy. Mang nó đến cho tôi ngay.
– Không thể được. Tôi sẽ giải thích sau. Tôi đã khám phá… tôi nghĩ đã khám phá được một điều hay lắm… Huynh phải đến, tôi phải đưa Huynh xem quyển sách.. một cách thận trọng…
Severinus im bặt. Chúng tôi nhận ra Jorge đã âm thầm lặng lẽ hiện ra bên cạnh chúng tôi như thể có phép mầu vì không quen nơi đây, hai tay lão đưa ra phía trước như thể mò đường. Một người bình thường có lẽ không hiểu nổi những lời thầm thì của Severinus, nhưng chúng tôi biết rằng, cũng như mọi người mù khác, thính giác của Jorge vô cùng nhạy bén.
Nhưng dường như lão chưa nghe gì cả. Quả thực, lão lại sờ soạng đi xa dần chúng tôi, chạm vào một tu sĩ và hỏi người ấy điều chi đó. Tu sĩ nắm nhẹ cánh tay lão và đưa ra ngoài. Lúc đó, Cha Michael xuất hiện và đòi thầy William phải vào lần nữa. Thầy bèn quyết định và nói với Severinus:
– Huynh làm ơn trở về ngay nơi Huynh vừa đến. Khóa cửa bên trong và đợi tôi.
Thầy nói với tôi:
– Còn con, hãy theo dõi Jorge. Dù lão ấy có nghe gì đi nữa, thầy nghĩ, lão sẽ không nhờ dắt đến bệnh xá đâu. Dẫu sao, con sẽ kể cho ta biết lão đi đâu.
Khi quay về tiền sảnh, thầy William thấy Aymaro len lỏi trong đám đông chen lấn nhau, định theo dõi Jorge ra ngoài. Đến đây, thầy William lại hành động thiếu khôn ngoan. Từ đầu sảnh đường này, thầy hét lớn đến Severinus đang đứng ở ngoài thềm đầu sảnh kia:
– Cố giữ những tờ giấy đó cho an toàn… Đừng quay lại… nơi để chúng!
Tôi đang định bám theo Jorge thì thấy quản hầm tựa vào rầm cửa ngoài; hắn đã nghe lời thầy William cảnh giác, bèn nhìn từ thầy tôi sang dược thảo sư, mặt căng thẳng vì sợ hãi. Hắn thấy Severinus bước ra, liền bám theo. Đến ngưỡng cửa, tôi sợ sẽ mất dấu Jorge đang chìm vào làn sương mù, nhưng hai người kia đang trực chỉ hướng ngược lại, và cũng sắp sửa biến mất trong sương. Tôi tính toán thật nhanh xem mình nên làm gì. Thầy William bảo tôi theo dõi lão mù vì e rằng lão sắp đến bệnh xá. Nhưng người hướng dẫn đã dắt lão đi hướng khác; lão đang băng qua nhà dòng và trực chỉ giáo đường hay Đại dinh. Ngược lại, viên quản hầm ắt hẳn đang theo dõi dược thảo sư, và thầy William đang lo lắng về việc có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm. Thế nên tôi bèn theo hai người này, lòng ngổn ngang thắc mắc không biết Aymaro biến đi đâu, trừ phi Huynh ấy đi ra vì những lý do hoàn toàn khác hẳn chúng tôi.
Tôi bám theo quản hầm, giữ một khoảng cách vừa phải. Hắn đang bước chậm lại vì biết chắc có người đang theo dõi mình, nhưng không biết đó là ai. Tôi không nhận rõ được cái bóng mình đang theo, nhưng tôi biết đó là hắn.
Bị buộc phải để ý đến tôi nên hắn không theo sát Severinus được, thế nên, khi cánh cửa bệnh xá hiện lên trong làn sương thì nó đã đóng kín rồi. Tạ ơn Chúa, Severinus đã vào được bên trong. Quản hầm, một lần nữa quay lại nhìn tôi, trong khi tôi đứng im như cột cờ; rồi hắn như quyết định điều gì đó và đi về phía nhà bếp. Tôi nghĩ mình đã hoàn thành sứ mệnh, nên quyết định quay về để báo cáo. Có lẽ tôi đã nhầm: nếu tôi đứng lại canh thì có lẽ đã tránh được nhiều tai họa. Sai lầm đó, đến nay tôi mới nhận ra.
Tôi trở lại tiền sảnh nhà nguyện. Cảnh náo loạn ban nãy dường như chẳng có gì nguy hiểm. Tôi đến bên thầy William và báo cáo ngắn gọn vài lời. Thầy gục gặc đầu tán thành, và ra hiệu bảo tôi im lặng. Cuộc tranh cãi lộn xộn đang lắng dịu. Các nhà thương thuyết thuộc hai phe đang ôm hôn hữu nghị. Giám mục Alborea ca ngợi đức tin của các tu sĩ dòng Khất thực. Jerome tán dương lòng từ thiện của các thầy giảng. Ai cũng bày tỏ hy vọng Giáo hội sẽ không bị xào xáo vì các mâu thuẫn nội bộ nữa. Người thì khen ngợi sự cứng cỏi của nhóm này, người thì ca tụng sự hòa hoãn của nhóm kia. Ai cũng nhắc đến công lý và sự khôn ngoan. Chưa bao giờ tôi trông thấy có nhiều người thành khẩn lưu tâm đến sự vẻ vang của những giá trị thần học chính yếu đến thế.

o0o

Bây giờ, Hồng y Bertrand mời thầy William giảng giải các luận thuyết của những nhà thần học hoàng gia. Thầy miễn cưỡng đứng dậy; biết rằng cuộc họp này không đi đến đâu. Thực ra, thầy đang nôn nóng muốn đi, vì đối với thầy, quyển sách bí ẩn kia còn khẩn thiết hơn kết quả của buổi họp. Tuy nhiên, rõ rằng là thầy không thể tránh né bổn phận của mình.
Thầy cất tiếng, với nhiều tiếng “ừ” “à” khác thường và không phải cách, dường như để chứng tỏ rằng thầy không tuyệt đối tin tưởng điều thầy sắp phát biểu. Thầy mở lời, đoan chắc rằng thầy đã quán triệt quan điểm của những người phát biểu trước, cũng vì thế cái mà những người khác gọi là “học thuyết” của các nhà thần học hoàng gia, chẳng qua chỉ là những nhận xét rời rạc, không thể gọi là những tín điều đã được khẳng định.
Thầy William nói bằng một giọng rất ôn tồn, ngập ngừng diễn tả những điều thầy đã khẳng định, do đó, không ai có thể đứng lên phản đối. Thế không có nghĩa là mọi người đều tin lời thầy nói. Những người phe Avignon ngồi bồn chồn vặn vẹo, cau mày, lẩm bẩm những lời phê phán với nhau, ngay cả Tu viện trưởng cũng lộ vẻ khó chịu vì những lời lẽ này. Còn bên dòng Khất thực, Cha Michael thì hoang mang, Jerome thì khiếp sợ, còn Ubertino lại tư lự.
Hồng y Poggetto phá tan sự im lặng, mỉm cười một cách thoải mái và nhã nhặn hỏi thầy William xem thầy có dám đi Avignon để thưa với Giáo hoàng những điều này không. Thầy William hỏi lại ý kiến của Hồng y xem có nên làm như vậy không. Hồng y trả lời, suốt đời Giáo hoàng đã nghe rất nhiều ý kiến tranh luận, và vẫn là Người cha thương yêu đối với mọi đứa con của Người, nhưng các đề nghị của thầy William ắt hẳn sẽ làm người hết sức đau buồn.
Bernard Gui, nãy giờ chưa hề mở miệng, bây giờ mới lên tiếng:
– Tôi sẽ rất vui mừng nếu Sư Huynh William, người đã giải thích các tư tưởng của mình một cách vô cùng khéo léo và hùng hồn, sẵn lòng bày tỏ các tư tưởng đó để Giáo hoàng phán xét…
– Thưa ngài Bernard, ngài đã thuyết phục tôi, nhưng tôi sẽ không đi. – Đoạn thầy William phân trần với Hồng y:
– Cha biết đấy, bệnh yếu phổi không cho phép con thực hiện một cuộc hành trình dài như thế trong thời thiết này.
Hồng y nói: – Thế sao Huynh lại nói dài dòng thế?
Thầy William nhũn nhặn đáp: – Để minh chứng cho sự thật vì sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.
Đến lúc này, Jean de Baunne, tu sĩ dòng Dominic, mới lớn tiếng phản đối:
– Không! Ở đây, chúng ta không bàn đến sự thật giải phóng chúng ta, mà về sự tự do quá trớn, muốn tự cho nó là sự thật!
Thầy William dịu dàng công nhận:
– Cũng có thể.
Linh cảm báo tôi biết rằng một cuộc đấu khẩu cuồng nộ sắp bùng nổ có thể còn gay gắt hơn lần trước. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Trong khi De Baunne đang nói thì trưởng toán lính bước vào và thầm thì điều gì đó vào tai Bernard. Bernard đứng phắt dậy, giơ tay lên nói:
– Thưa các Huynh, buổi tranh luận bổ ích này có thể được tiếp diễn, nhưng hiện nay, một biến cố trầm trọng buộc chúng ta phải đình chỉ cuộc họp này lại, nếu Tu viện trưởng cho phép. Một việc đã xảy ra ở đằng kia…
Hắn chỉ mông lung ra ngoài, đoạn sải bước qua tiền sảnh, đi ra ngoài. Nhiều người bước liền theo. Thầy trò tôi ở trong số những người đi đầu.
Thầy nhìn tôi nói: – Thầy e có việc gì xảy ra cho Severinus.

KINH TRƯA

Tìm thấy xác chết của Severinus
nhưng quyển sách Huynh đã tìm được
thì không còn nữa.

Chúng tôi đau khổ sải bước băng qua sân. Trưởng toán lính dẫn chúng tôi đến bệnh xá. Khi đến nơi, chúng tôi thấy trong lớp sương mù dày đặc nhiều bóng người xôn xao. Tu sĩ và tôi tớ chạy toán loạn. Các cung thủ đứng canh ở bên ngoài, ngăn không cho ai vào. Bernard nói:
– Những lính canh đó là do tôi phái tới để lùng kiếm một người có thể soi sáng nhiều điều bí ẩn.
Tu Viện trưởng sững sờ hỏi:
– Sư huynh dược thảo sư à?
Bernard mở đường vào trong, nói:
– Không. Cha sẽ thấy ngay thôi.
Chúng tôi bước vào phòng thí nghiệm của Severinus, và một cảnh tượng đau thương đập ngay vào mắt. Xác của dược thảo sư xấu số nằm giữa một vũng máu, đầu lai láng máu. Kệ ở tứ phía dường như bị một cơn bão tàn phá: các chai lọ, sách vở, tài liệu bị đập vỡ, xé rách tan hoang, nằm vương vãi khắp nới. Bên cạnh xác chết là một lồng cầu lớn, ít nhất bằng hai đầu người, gồm nhiều vòng kim loại chế biến tinh xảo ghép lại với nhau, trên đỉnh có một thập giá bằng vàng, được đặt trên một trụ ba chân ngắn, có trạm trổ. Mấy lần trước đến đây, tôi thấy nó được đặt trên chiếc bàn phía tay trái cửa trước.
Ở cuối phòng, hai người lính giữ chặt viên quản hầm đang vùng vẫy kêu oan. Khi thấy Tu viện trưởng, hắn hét tướng lên:
– Cha ơi! Tật đi đây đi đó đã hại con! Khi con bước vào, thì Severinus đã chết rồi, và họ bắt con con lúc con đang sững sờ nhìn cái chết thê thảm này!
Trưởng toán lính đến chỗ Bernard và được hắn cho phép báo cáo lại sự việc trước mặt mọi người. Các cung thủ được lệnh lùng bắt quản hầm và đã tìm hắn khắp tu viện trên hai giờ đồng hồ. Tôi nghĩ, hẳn Bernard đã ban lệnh này trước khi vào nhà nguyện, bọn lính vì còn lạ chỗ nên có lẽ đã tìm kiếm lung tung mà không biết quản hầm đang ở trong tiền sảnh của nhà nguyện cùng với các tu sĩ khác, chẳng hay biết gì về số phận của mình. Sương mù khiến việc tìm kiếm của họ càng khó khăn thêm. Suy từ lời nói của trưởng toán lính thì từ khi tôi không theo dõi Remigio nữa, hắn bèn đi về phía nhà bếp và có ai đó đã thấy và báo cho bọn lính. Lính đến Đại Dinh thì Remigio vừa mới đi được một lát. Jorge ở trong nhà bếp, khai rằng lão vừa nói chuyện với quản hầm xong. Toán lính liền lục xét khu vực phía vườn rau, và gặp già Alinardo, từ trong sương hiện ra như một bóng ma, có vẻ như lạc đường. Chính Alinardo bảo vừa mới thấy Remigio đi về hướng bệnh xá. Toán linh đến đấy, thấy cửa bệnh xá mở toang. Bước vào, họ thấy Severinus nằm chết còn quản hầm thì đang điên cuồng lục lạo khắp các kệ, quăng ném mọi thứ xuống đất như đang lùng kiếm một vật gì. Trưởng toán kết luận, sự việc đã rành rành: Remigio bước vào, tấn công rồi giết dược thảo sư, đoạn truy tìm vật đã khiến hắn giết người.
Một tên lính nhặt lồng cầu từ dưới đất lên, trình báo cho Bernard xem. Đó là một cấu trúc thanh nhã gồm nhiều vòng bằng thau và bạc, ghép lại với nhau nhờ một cái khung bằng những vòng đồng chắc chắn hơn, gắn trên một trụ ba chân. Vật này đã giáng xuống sọ nạn nhân, và khi va chạm, nhiều vòng mảnh, nhỏ, đã long ra, hay cong về một phía, chính là cái phía đã đập lên đầu Severinus, vì còn dính những vệt máu, và cả những chùm tóc và các mảng óc lầy nhầy đáng sợ.
Thầy William cúi xuống, xem Severinus có chết thực chưa. Đôi mắt đứng tròng của nạn nhân đã bị che phủ bởi dòng máu trên đầu chảy xuống. Tôi không biết còn có thể đọc được trong con người cứng đờ ấy hình ảnh của kẻ sát nhân, chứng tích cuối cùng về sự nhận thức của nạn nhân, như người ta đã có lần nói chăng? Tôi thấy thầy William giở đôi tay xác chết lên xem có vết tím đen trên ngón không, dầu lần này nguyên nhân gây ra cái chết rõ ràng khác hẳn: tuy nhiên, Severinus có mang một đôi găng tay bằng da mà Huynh ấy thường dùng để cầm những cây thuốc độc, rắn mối, hay các côn trùng lạ.
Trong khi đó, Bernard Gui nói với quản hầm:
– Này Remigio xứ Varagine, đó là tên ngươi phải không? Căn cứ trên những lời buộc tội và để khẳng định những mối nghi ngờ khác, ta đã lệnh cho người lùng bắt ngươi. Nay ta thấy mình đã hành động đúng, mặc dù đáng tiếc là quá chậm.
Bernard quay sang Tu viện trưởng:
– Thưa Cha bề trên, con hoàn toàn chịu trách nhiệm về vụ án mạng cuối cùng này, ngay từ sáng nay con đã biết nên tống giam người này, sau khi nghe những lời tiết lộ của tên khốn nạn bị bắt đêm qua. Nhưng như Cha đã biết, suốt buổi sáng nay con bận bịu với những trách nhiệm khác, và lính của con đã cố gắng hết sức…
Hắn nói lớn giọng cho mọi người có mặt đều nghe (phòng lúc ấy đông nghẹt, mọi người từ khắp nơi dồn vào, vừa nhìn các vật bị đập phá tung tóe, vừa chỉ vào xác chết, vừa xì xầm bàn tán về án mạng). Khi Bernard nói, tôi liếc thấy Malachi trong đám đông, đang lạnh lùng quan sát hiện trường. Quản hầm, khi sắp bị lôi đi, cũng liếc nhìn Malachi. Gã vùng vẫy thoát ra khỏi tay của tên lính và lao mình về phía người tu sĩ anh em, túm lấy áo và kề sát mặt quản thư viện, nói vội vã và tuyệt vọng, cho đến khi bọn lính xông vào túm lấy gã. Nhưng khi bị lôi xềnh xệch đi, một lần nữa gã lại quay về hướng Malachi và hét lớn: – Huynh thề, và tôi đã thề mà!
Malachi không trả lời ngay, dường như muốn lựa lời thích hợp nhất, và khi quản hầm bị lôi qua cửa, bèn nói:
– Tôi sẽ không làm gì để hại Huynh cả.
Thầy trò tôi nhìn nhau, không hiểu tấn tuồng này có ý nghĩa gì. Bernard cũng đã nhận thấy, nhưng không lộ vẻ bối rối, hắn còn mỉm cười với Malachi, như thể tán đồng lời lẽ của quản thư viện và thông đồng một âm mưu u ám. Rồi hắn tuyên bố: ngay sau bữa ăn, phiên tòa đầu tiên sẽ được nhóm tại đại sảnh, để công khai mở cuộc điều tra này. Hắn ra lệnh đem quản hầm xuống lò rèn, nhưng không cho phép nói chuyện với Salvatore.
Ngay lúc đó, chúng tôi nghe tiếng Benno thì thầm từ phía sau lưng vẳng lên:
– Tôi vào tiếp ngay sau Huynh, khi phòng này mới đóng phân nửa, và Malachi lúc đó không có mặt ở đây.
– Chắc hẳn Huynh ấy vào sau.
Benno khăng khăng:
– Không. Tôi đứng sát cửa, thấy rõ từng người vào. Tôi nói thật, Malachi đã ở bên trong… trước đó rồi.
– Trước cái gì?
– Trước khi quản hầm vào. Tôi không đoan chắc, nhưng tôi tin rằng Huynh ấy bước ra từ sau bức màn kia, khi có một số chúng ta ở đây rồi. – Benno hất hàm chỉ về phía tấm màn lớn che khuất chiếc giường, nơi Severinus thường bảo những ai đang chữa trị vào nằm nghỉ. Thầy William hỏi:
– Huynh định ám chỉ Malachi đã giết Severinus và nấp ở đấy khi quản hầm bước vào ư?
– Hay là từ sau bức màn đó, Huynh ấy đã chứng kiến việc xảy ra ở đây. Nếu không, thì tại sao quản hầm lại van xin Huynh ấy đừng làm hại mình và Malachi đáp lại cũng hứa hẹn không làm hại Huynh ấy.
– Có thể lắm. Dẫu sao, đã có quyển sách ở đây, và nó hẳn vẫn nằm ở đây, vì cả Malachi lẫn quản hầm đều đi ra tay không.
Nhờ tôi báo cáo, thầy William hiểu Benno biết sự việc, và lúc đó thầy cần sự giúp đỡ. Thầy đến chỗ Tu Viện Trưởng đang rầu rĩ quan sát xác Severinus. Thầy yêu cầu Cha bảo mọi người lui ra, vì thầy muốn xem xét hiện trường kỹ hơn nữa. Tu Viện Trưởng chấp nhận và đi ra, còn ném cho thầy William một cái nhìn ngờ vực, như thể trách móc thầy lúc nào cũng đến quá trễ. Malachi cố nán lại, viện lý do này lý do kia, nhưng cả thảy đều rất mơ hồ. Thầy William nhấn mạnh rằng đây không phải là Thư viện, nơi này Malachi không có quyền hành gì. Thầy nhã nhặn nhưng rất cứng cỏi, trả đũa được lần Malachi không cho phép thầy xem xét bàn giấy của Venantius.

o0o

Chỉ còn ba chúng tôi ở lại. Thầy William dọn sạch các mảnh vụn và giấy tờ trên một chiếc bàn, rồi bảo tôi lần lượt đưa cho thầy xem các cuốn sách trong bộ sưu tập của Severinus. So sánh với kho sách mênh mông trong Mê Cung thì đây chỉ là một bộ sưu tập nhỏ, thế nhưng nó cũng có đến hàng mấy chục quyển, đủ mọi kích cỡ, trước đây được xếp gọn ghẽ trên các kệ, còn bây giờ thì nằm vương vãi trên mặt đất lẫn với các thứ khác, chúng đã bị đôi tay hoảng loạn của quản hầm xáo tung lên, vài quyển còn bị xé rách, dường như hắn không phải tìm một quyển sách mà tìm một cái gì đó có thể kẹp giữa những trang sách. Vài trang bị giứt đứt tung ra khỏi bìa. Không dễ gì thu nhặt chúng nhanh chóng, phân loại theo chủ đề và xếp lên bàn. Mọi việc phải làm khẩn trương, vì Tu Viện Trưởng cho chúng tôi quá ít thời giờ. Các tu sĩ sẽ vào tẩm liệm cái xác tan nát của Severinus để chuẩn bị chôn cất. Chúng tôi cũng phải đảo quanh tìm kiếm dưới bàn, sau kệ, trong tủ, xem có gì lạ mà lần khám xét đầu tiên chưa phát hiện ra. Thầy William không cho Benno giúp tôi mà chỉ để Huynh ấy đứng giữ cửa. Bất chấp lệnh của Tu Viện trưởng, nhiều người cứ nhất định lấn vào phòng: các tôi tớ nghe tin, hoảng sợ, các tu sĩ thương tiếc người anh em của mình, các tu sinh mang chậu nước để rửa và vải sạch để phủ lên xác chết…
Vì thế chúng tôi phải hành động thật nhanh. Tôi quơ những quyển sách ấy trao cho thầy William xem xét và đặt lên bàn. Khi thấy công việc này kéo dài, chúng tôi bèn đồng tiến hành cùng một lúc. Tôi nhặt sách lên, vuốt nó ra nếu bị nhàu, đọc tựa, và đặt xuống. Vài quyển chỉ còn lại những trang tơi tả.
– “Ba quyển sách về thảo mộc”. (1)
– Quỷ thật, không phải quyển này. – Thầy William nói và đập mạnh quyển sách lên bàn.
– “Kho tàng dược thảo” (2) – Tôi đọc, và thầy William quát: – Bỏ nó xuống. Chúng ta đang tìm một quyển sách tiếng Hy lạp!
– Quyển này chăng? – Tôi hỏi, và đưa thầy một tác phẩm có những trang đầy chữ trừu tượng. Thầy William bảo:
– Không. Đồ ngu! Đó là tiếng Ả Rập. Thầy Bacon có lý: bổn phận đầu tiên của một học giả là phải học ngoại ngữ!
– Nhưng thầy có biết tiếng Ả rập đâu! – Tôi bực bội cãi lại, và thầy đáp:
– Ít ra thầy cũng hiểu đó là tiếng Ả rập.
Tôi đỏ mặt lên vì tiếng Benno cười khúc khích sau lưng.
Sách đã nhiều mà còn có nhiều ghi chú, bản cuộn nhiều hình vẽ, vòm thiên đàng, thư mục các kỳ hoa dị thảo được chép lên những trang giấy rời, có lẽ là bút tích của người quá cố! Chúng tôi lục xét mọi ngõ ngách trong phòng thí nghiệm một lúc lâu. Thầy William mặt lạnh như tiền, còn nhích cả xác chết để xem bên dưới có gì không, rồi lục lạo bên trong chiếc áo dòng. Chẳng có gì hết. Thầy William giải thích:
– Phải làm thế thôi. Severinus giam mình trong phòng với quyển sách, còn quản hầm thì cũng không giữ nó…
Tôi hỏi: – Liệu quản hầm có giấu nó trong áo dòng không?
– Không. Quyển sách thầy thấy hôm nọ dưới bàn Venantius rất to, nếu quản hầm dấu nó dưới áo thì ta phải thấy ngay.
– Bìa nó như thế nào?
– Thầy không biết. Nó mở ngỏ và thầy chỉ thoáng thấy có vài giây, đủ để biết nó bằng tiếng Hy Lạp, ngoài ra thầy không nhớ gì hơn. Chúng ta hãy tiếp tục, quản hầm không mang theo nó và thầy nghĩ Malachi cũng không.
Benno xác nhận: – Chắc chắn là không. Khi quản hầm túm lấy ngực Huynh ấy, rõ ràng là Huynh không thể dấu gì ở dưới áo được.
– Tốt. Hay cũng có thể là xấu. Nếu quyển sách không có trong phòng này, hiển nhiên đã có ai khác ngoài Malachi và quản hầm vào đây trước.
– Thế thì có một người thứ ba đã giết Severinus ư?
– Có quá nhiều người – thầy nói.
Tôi hỏi: – Nhưng mà, ai có thể biết được quyển sách nằm ở đây?
– Jorge chẳng hạn, nếu Huynh ấy nghe lén chúng ta.
– Đúng, nhưng Jorge không thể giết một người khỏe mạnh như Severinus, với một vũ lực như thế.
– Dĩ nhiên là không. Ngoài ra, con đã thấy Jorge đi về phía Đại Dinh, và toán lính đã thấy Huynh trong nhà bếp, ngay trước khi họ gặp quản hầm. Thế nên Huynh không có đủ thời giờ để đến đây rồi đi về bếp.
– Hãy để con suy nghĩ – Tôi nói, cố tình bắt chước thầy – Alinardo cũng quanh quẩn trong khu vực gần đây, nhưng lão đứng còn không vững, nên không thể áp đảo được Severinus. Quản hầm có ở đây, nhưng thời gian từ lúc hắn rời bếp đến khi toán lính ập vào quá ngắn ngủi, con nghĩ, thật khó có thể kịp gọi Severinus mở cửa, tấn công và giết người, rồi lục lạo lung tung. Malachi có thể đến trước tiên, vì Jorge nghe chúng ta nói chuyện ở tiền sảnh, bèn vào phòng thư tịch kể cho Malachi có một quyển sách của Thư viện đang ở trong phòng thí nghiệm của Severinus. Malachi đến đây, thuyết phục Severinus mở cửa và giết Huynh ấy, chỉ có Trời mới biết tại sao. Nhưng nếu Huynh tìm được sách thì nhận ra nó ngay, đâu cần lục lọi làm gì, vì Huynh là quản thư viện mà! Thế còn ai nữa?
– Benno, – thầy William nói.
Benno lắc đầu quầy quậy. – Không, thưa sư Huynh William, Huynh biết tính tôi tò mò ghê lắm. Nếu tôi đã vào đây và có khả năng đi ra cùng với quyển sách, thì tôi còn đứng đây với Huynh làm gì. Lúc này tôi sẽ chiêm ngưỡng báu vật của mình ở nơi nào khác…
Thầy William mỉm cười nói: – Lý luận khá vững vàng đấy. Tuy nhiên, Huynh cũng không biết quyển sách ấy như thế nào. Có lẽ Huynh đã giết người và bây giờ nấn ná ở đây để nhận diện quyển sách.
Mặt Benno đỏ bừng, hắn lên tiếng phản đối: – Tôi đâu phải là kẻ sát nhân!
Thầy William triết lý nói: – Mãi đến khi phạm tội giết người thì mình mới thành kẻ sát nhân. Dẫu sao, quyển sách đã mất, và điều này cũng chứng minh Huynh đã không để nó ở đây.
Nói xong, thầy quay lại ngắm nghía xác chết. Đến lúc đó, thầy mới thấm thía cái chết của người bạn mình rồi nói: – Tội nghiệp Severinus! Tôi đã nghi ngờ cả Huynh và các thuốc độc của Huynh nữa. Huynh biết trước sẽ bị bẫy thuốc độc nên đã đeo găng tay vào. Huynh sợ tai họa ở trần gian, nào ngờ nó đến từ thiên đàng…
Thấy lại nhặt chiếc lồng cầu lên và chăm chú quan sát nó: – không hiểu tại sao họ lại dùng vũ khí kỳ lạ này…
– Vì nó ngay tầm tay…
– Có lẽ. Nhưng còn có những vật khác như chai lọ, dụng cụ làm vườn… Đây là một kiểu mẫu tiêu biểu cho kỹ xảo kim loại và thiên văn học. Nó bị hỏng rồi… Lạy chúa tôi! – Thầy la lên.
– Phần thứ ba của mặt trời bị đập nát, phần thứ ba của mặt trăng và phần thứ ba của tinh tú… – Thầy trích dẫn.
Tôi thừa biết đó là từ sách Mặc khải của thánh Tông đồ John, bèn thốt lên: – Hồi kèn thứ tư.
– Đúng rồi. Trước tiên là mưa đá, rồi máu, rồi nước và bây giờ là tinh tú… Nếu đúng như vậy thì phải xem xét lại mọi việc… Kẻ sát nhân không ngẫu nhiên tấn công, mà đang theo một phương án… Nhưng có thể tưởng tượng được chăng, có một đầu óc quỉ quyệt đến nỗi chỉ ra tay giết người khi có dịp theo lời dạy trong sách Mặc khải?
– Việc gì sẽ xảy ra với hồi kèn thứ năm – Tôi kinh hoàng hỏi, óc cố nhớ lại: “Ta trông thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống, và người đó được ban cho chìa khóa của hố sâu không đáy…”. Ai đó sẽ chết đuối trong một giếng nước à?
– Hồi kèn thứ năm còn tuyên hứa nhiều điều khác nữa. “Từ hố sâu bốc khói từ một lò nung lớn, từ đó lũ cào cào sẽ nhảy ra chích đốt loài người, nọc của chúng cũng độc như nọc bọ cạp. Bọn cào cào hình dáng trông như ngựa, đầu đội vương miện vàng, miệng mọc răng sư tử…” Kẻ sát nhân của chúng ta có thể có sẵn nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện các lời dạy trong sách… Nhưng chúng ta không nên theo đuổi những điều hão huyền, mà nên thử nhớ lại điều Severinus nói, khi Huynh ấy báo cho chúng ta đã tìm được quyển sách…
– Thầy bảo Huynh ấy đem quyển sách đến cho thầy, Huynh nói không được…
– Huynh có nói thế và liền đó cuộc nói chuyện của chúng ta bị gián đoạn. Tại sao Huynh ấy không thể mang nhỉ? Một quyển sách mang đi đâu mà chẳng được. Và sao Huynh ấy lại đeo găng tay? Trên bìa sách có chất gì liên hệ đến thuốc độc đã giết Berengar và Venantius chăng? Một cái bẫy bí ẩn, một đầu ngón tẩm thuốc độc…
– Một con rắn!
– Sao không phải là cá voi chứ? Không, chúng ta lại theo đuổi những điều hão huyền rồi. Như chúng ta thấy, thuốc độc phải ngấm vào bằng đường miệng. Ngoài ra, Severinus không nói chính xác rằng không thể mang sách đó đến được, mà chỉ nói muốn cho thầy xem nó ở đây. Sau đó, Huynh mang găng tay vào… Như thế, chúng ta biết phải mang găng tay mới cầm sách được. Benno, nếu Huynh tìm được quyển sách như vẫn hằng hy vọng, thì Huynh cũng làm như thế. Vì Huynh rất sốt sắng, nên hãy giúp tôi thêm điều này. Trở lại phòng thư tịch và theo dõi Malachi. Chớ để Huynh ấy lọt khỏi mắt Huynh.
– Xin vâng! – Benno đáp và đi ra, trông có vẻ vui sướng vì nhiệm vụ mới.
Chúng tôi không thể cầm chân các tu sĩ khác lâu hơn nữa, nên họ tràn vào phòng. Đã qua giờ ăn, có lẽ Bernard đang nhóm phiên tòa trong phòng nguyện. Thầy William nói: – Chúng ta chẳng làm gì được hơn.
Ra khỏi bệnh xá, hai thầy trò vất bỏ cái giả thuyết nghèo nàn của tôi. Khi băng qua vườn rau, tôi hỏi thầy có thực tin Benno không. Thầy đáp:
– Không hẳn, nhưng điều mà chúng ta bảo thì Huynh ấy đã biết rồi, và chúng ta đã làm Huynh ấy sợ quyển sách. Rốt cuộc, bảo Huynh ấy rình Malachi, chúng ta cũng khiến Malachi theo dõi Huynh ấy, hiển nhiên chính Malachi cũng đang tự tay tìm quyển sách.
– Vậy thì quản hầm muốn gì?
– Rồi chúng ta sẽ biết. Dĩ nhiên hắn cần một vật gì đó và cần nó ngay để thoát khỏi mối nguy hiểm đang đe dọa. Vật này chắc Malachi phải biết, nếu không, làm sao giải thích được sự van xin khẩn khoản của Remigio…
– Dẫu sao, quyển sách đã biến mất…
– Đây là một việc kỳ cục nhất. – Thầy William nói, khi chúng tôi đến nhà nguyện. – Nếu quyển sách ở đó, như Severinus đã nói, thì hoặc giả nó đã bị lấy đi hay vẫn còn ở đó.
Tôi kết luận: – Vì nó không có ở đấy, vậy có người đã lấy nó đi.
– Cũng có thể suy luận trên một bình diện nhỏ hơn. Vì mọi bằng chứng đều khẳng định rằng không ai có thể lấy nó đi…
– Vậy thì nó vẫn ở đó. Nhưng nó lại không có đó.
– Khoan đã. Chúng ta nói nó không có đó vì chúng ta đã không tìm thấy nó. Nhưng có lẽ chúng ta không tìm ra vì không thấy nó nằm ở chỗ nào.
– Nhưng chúng ta đã tìm khắp nơi mà!
– Chúng ta tìm, nhưng không thấy. Hay là thấy, mà không nhận ra… Adso, Severinus tả quyển sách như thế nào? Huynh ấy nói câu gì?
– Huynh ấy bảo đã tìm thấy một quyển sách không phải của mình, bằng tiếng Hy Lạp.
– Không! Thầy nhớ ra rồi. Huynh ấy bảo một quyển sách lạ. Đối với người học thức như Severinus thì một quyển sách bằng tiếng Hy Lạp chẳng có gì lạ, cho dù Huynh ấy không biết tiếng Hy Lạp thì vẫn có thể nhận ra mặt chữ. Và một học giả cũng không gọi một quyển sách Ả Rập là lạ lùng, dù người ấy không biết tiếng Ả Rập chăng nữa…
Thầy ngưng nói – Sao lại có quyển sách Ả Rập trong phòng thí nghiệm của Severinus?
– Nhưng sao Huynh ấy gọi quyển sách Ả Rập là lạ?
– Đó mới là vấn đề. Nếu Huynh ấy gọi nó là lạ lùng thì do vì nó trông lạ lùng, ít ra là đối với Huynh ấy, một dược thảo sư, chớ không phải quản thư viện… Trong thư viện có thể có nhiều quyển sách xưa, đóng lại thành một tập, gồm những bài lạ lùng khác nhau, bài thì tiếng Hy Lạp, bài thì tiếng Xy-ri…!
– …Và bài thì tiếng Ả Rập! – Tôi hét lên, choáng váng vì sự sáng ý này.
Thầy William lôi tôi xềnh xệch ra khỏi tiền sảnh và đẩy tôi chạy về phía bệnh xá.
– Đồ quỉ Đức! Đồ ngỗng đực! Đồ ngu! Mi chỉ nhìn những trang đầu mà không xem hết.
Tôi há hốc mồm cãi lại: – Nhưng thưa thầy, chính thầy là người xem những trang con đưa và bảo nó là tiếng Ả Rập chớ không phải Hy Lạp.
– Đúng thế, Adso, thầy mới chính là đồ quỉ. Nào lẹ lên! Chạy!
Chúng tôi trở lại phòng thí nghiệm, nhưng vất vả lắm mới vào được, vì các tu sinh đang khiêng xác ra. Những người hiếu kỳ khác đang đi lung tung trong phòng. Thầy William chạy xổ đến chiếc bàn và nhặt các quyển sách lên để tìm quyển sách giết người. Thầy quăng đi hết quyển này đến quyển kia trước đôi mắt kinh ngạc của những người có mặt, rồi lại mở chúng ra đóng chúng lại. Than ôi, quyển sách Ả Rập không còn ở đó nữa. Tôi chỉ lờ mờ nhớ quyển sách bìa cũ, không cứng cáp, mòn nhiều, bọc những nẹp kim khí mỏng.
– Ai đã vào đây sau khi tôi đi? – Thầy William hỏi một tu sĩ. Người này nhún vai: rõ ràng ai muốn vào thì vào, sao biết đấy là ai.
Chúng tôi cố suy nghĩ các khả năng có thể xảy ra. Malachi ư? Có thể. Quản thư viện biết vật mình cần, có lẽ đã rình thấy chúng tôi đi ra tay không, bèn quay lại, đầy tự tin. Còn Benno? Tôi nhớ khi thầy trò tôi chế giễu nhau về quyển sách tiếng Ả Rập, Huynh ấy đã cười khúc khích. Lúc ấy tôi tưởng Huynh cười sự dốt nát của tôi, nhưng có lẽ Huynh cười vì sự ngờ nghệch của thầy: Huynh đã biết rõ những lớp vỏ khác nhau ngụy trang các bản viết xưa, và có lẽ đã nắm được cái điều mà khi ấy chúng tôi chưa kịp nghĩ ra – đó là, Severinus không biết tiếng Ả Rập và do đó sẽ thật kỳ quặc nếu Huynh ấy giữ trong đám sách của mình một quyển sách không đọc được. Hay có một người thứ ba chăng.
Thầy William ngượng chín người. Tôi cố an ủi thầy, bảo suốt ba ngày nay thầy đã tìm kiếm một quyển sách Hy Lạp thì đương nhiên là khi xem xét, thầy phải loại đi tất cả các sách không phải tiếng Hy Lạp. Thầy đáp rằng con người tất phải sai lầm, nhưng có những kẻ sai lầm hơn người khác bị gọi là ngốc, trong đó có thầy. Thầy tự hỏi, không biết một người không có khả năng nghĩ ra rằng các bản văn cũng được đóng thành bộ, điều mà ngay cả tu sinh cũng biết, trừ những thằng ngu như tôi, người ấy có xứng đáng theo học ở Paris và Oxford không? Hai tên hề như thầy trò tôi sẽ thành công vẻ vang tại các chợ phiên, và chúng tôi nên theo nghề đó thay vì đi gỡ rối các bí ẩn, nhất là chúng tôi còn phải đấu trí với những kẻ khôn ngoan hơn mình nhiều. Thầy kết luận:
– Than vãn cũng chẳng ích chi. Nếu Malachi lấy sách thì Huynh ấy đã trả nó cho Thư viện. Và chúng ta chỉ tìm ra nó nếu biết cách xâm nhập “finis Africae”. Nếu Benno lấy sách, Huynh ấy phải suy đoán rằng trước sau gì thầy cũng nghi ngờ và sẽ trở lại phòng thí nghiệm và như thế Huynh ấy phải vội vã hành động ngay. Vậy Huynh ấy phải đang cất giấu nó, và ắt hẳn không giấu nó trong phòng mình, là nơi mà chúng ta sẽ đến thẳng để tìm gặp. Thôi, hãy trở lại nhà nguyện, xem thử trong cuộc hỏi cung, quản hầm có khai điều gì hữu ích không. Dẫu sao, thầy vẫn chưa rõ kế hoạch của Bernard, hắn lùng bắt nạn nhân của mình trước khi Severinus chết, hẳn vì những lý do khác.
Chúng tôi trở về nhà nguyện. Lẽ ra chúng tôi nên đến phòng Benno, vì sau này chúng tôi mới biết, anh bạn trẻ này không đánh giá cao thầy William và không ngờ thầy quay lại phòng thí nghiệm nhanh như thế. Nghĩ rằng mình không bị lùng kiếm trong khu vực đó, Benno đi thẳng về phòng để giấu quyển sách.
Nhưng tôi sẽ kể việc này sau. Trong lúc này, nhiều biến cố rối ren và quan trọng đang diễn ra, khiến mọi người tạm quên đi quyển sách bí ẩn. Dầu không quên nó, chúng tôi đã bị lôi cuốn vào những trách nhiệm khẩn cấp khác liên quan đến sứ mệnh mà thầy William chung qui hoàn thành.

Chú thích:

(1) “De plantis libri tres
(2) “Thesaurus herbarum

KINH XẾ TRƯA

Công lý được thi hành,
nhưng mọi người ngượng nghịu
nghĩ rằng mình lầm.

Bernard Gui ngồi ngay chính giữa bàn gỗ gụ trong phòng nguyện. Bên cạnh là một tu sĩ dòng Dominic giữ nhiệm vụ lục sự ghi chép, và hai giám mục trong phái đoàn giáo hoàng ngồi hai bên, giữ vai thẩm phán. Quản hầm đứng trước bàn, giữa hai tên lính.
Tu viện trưởng quay sang thầy William thầm thì: – Cha không biết thủ tục tòa này có hợp pháp chăng. Hội đồng Lateran năm 1215 trong Giáo điều thứ 37 đã qui định không ai có thể bị gọi trình tòa trước những thẩm phán mở pháp đình cách xa nhà phạm nhân hơn hai ngày đường. Ở đây hoàn cảnh có lẽ khác, chính thẩm phán từ xa đến, nhưng…
Thầy William nói: – Phán quan được miễn trừ mọi thủ tục pháp lý thông thường, và không theo các tiền lệ của thường luật. Người ấy được hưởng đặc quyền và thậm chí không bị buộc phải nghe các luật sư biện hộ.
Tôi nhìn Quản hầm. Remigio trông tiều tụy. Hắn nhìn quanh như một con thú hoảng hốt đang nhận ra các hoạt động của một nghi thức hiến tế làm hắn sợ hãi. Bây giờ, tôi biết hắn sợ vì hai lý do đều khủng khiếp như nhau, thứ nhất, mọi người đều thấy hắn bị bắt quả tang phạm tội, thứ hai, hôm trước khi Bernard khởi sự điều tra, góp nhặt các lời đồn đại và bóng gió, Remigio đã e ngại quá khứ của hắn sẽ bị phơi bày, hắn càng hoảng hốt hơn khi thấy Salvatore bị bắt.
Nếu Remigio bị dày vò sợ hãi, thì phần Bernard Gui, hắn biết cách biến nỗi sợ hãi của nạn nhân thành cơn kinh hoàng. Hắn im lặng khi ai cũng tưởng hắn sắp bắt đầu cuộc thẩm vấn. Hắn đặt tay lên những tờ giấy trước mặt, giả vờ như sắp xếp chúng, nhưng một cách lơ đãng. Hắn nhìn bị can chằm chặp, cái nhìn có lẫn vẻ bao dung đạo đức giả, sự châm biếm lạ lùng và vẻ khắc nghiệt không thương tiếc. Tất cả những điều này quản hầm đều đã biết, nhưng vẻ im lặng và trì hoãn của phán quan khiến hắn càng hiểu chúng thấm thía hơn. Càng cảm thấy nhục nhã thì nỗi bồn chồn sẽ biến thành tuyệt vọng, và hắn sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào quan tòa như thỏi sáp mềm trong tay người.
Cuối cùng Bernard phá tan bầu không khí im lặng. Hắn thốt lên vài câu nói theo thủ tục xử án, thưa cùng các thẩm phán rằng, nay họ có thể tiến hành cuộc hỏi cung bị can liên quan đến hai tội ác cùng gớm ghiếc như nhau, một tội thì ai cũng thấy rành rành, nhưng không ghê tởm bằng tội kia, bị can bị bắt trong khi giết người, và trong lúc thật sự bị truy tầm về tội phản giáo.
Lời đã phán. Quản hầm lấy tay che mặt, và khó khăn lắm mới nhấc tay được vì đã bị xiềng. Bernard bắt đầu hỏi:
– Ngươi là ai?
– Remigio xứ Varagine. Con năm mươi hai tuổi, nhập chủng viện dòng Khất thực ở Varagine khi còn bé.
– Thế sao ngày nay ngươi lại ở trong dòng Benedict?
– Cách đây nhiều năm, khi giáo hoàng ban hành “Sắc lệnh La Mã” (1) con sợ bị nhiễm nọc dị giáo của các Anh em Nghèo khó… mặc dù con chưa hề cùng quan điểm với họ… Con nghĩ, tâm hồn tội lỗi của mình nên lánh xa cái không khí đầy cám dỗ ấy, nên xin vào đây và được đón nhận vào tập thể các tu sĩ trong tu viện này, nơi con đã phục vụ hơn tám năm trời với chức quản hầm.
Bernard chế nhạo: – Ngươi thoát khỏi các cám dỗ của bọn dị giáo, hay nói đúng ra, ngươi đã thoát được cuộc điều tra quyết tâm phát hiện bọn dị giáo và nhổ tận gốc chúng. Các tu sĩ dòng Cluniac tốt bụng đã mở lòng nhân hậu nhận ngươi và những người như ngươi vào. Nhưng đổi lớp áo dòng không đủ để xóa đi con quỉ dị giáo sa đọa trong tâm hồn, do đó, nay chúng tôi nhóm toà tại đây để tìm hiểu những gì đang rình rập ẩn nấp trong các ngõ ngách sâu kín của tâm hồn xấc láo của ngươi, và người đã làm gì trước khi đến chốn linh thiêng này.
Quản hầm thận trọng nói: – Linh hồn con vô tội và con không hiểu Ngài nói sự sa đọa dị giáo là có ý gì?
– Thấy chưa? – Bernard hét lên, quay sang nói với các thẩm phán. – Chúng đều một phường với nhau mà. Khi bị bắt, chúng đối mặt với công lý như thể lương tâm mình thanh thản, chẳng có gì ân hận cả. Chúng đâu có biết rằng, đó là dấu hiệu hiển nhiên tố cáo tội ác của bọn chúng, vì một người lương thiện khi hầu tòa đều phải bồn chồn bối rối! Hỏi hắn xem có biết tại sao ta ra lệnh bắt hắn không. Ngươi có biết không, Remigio?
Quản hầm đáp: – Thưa ngài, con rất sung sướng nếu Ngài cho con hay.
Tôi ngạc nhiên, vì quản hầm đối đáp lại những câu hỏi nghi thức bằng những lời lẽ cũng lễ nghi không kém, cứ như hắn rất thạo các thủ tục hỏi cung và các mẹo đánh bẫy của nó, và đã được đào tạo một thời gian dài để đương đầu với bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra như thế này.
Bernard hét lên:
– Kìa, đó là lối trả lời đặc trưng của bọn dị giáo hỗn láo! Chúng quỉ quyệt như cáo xóa xấu chân và rất khó bắt nọn chúng, vì đức tin của chúng cho phép chúng được quyền nằm ẩn tránh né sự trừng phạt. Chúng lập lại những câu trả lời vòng vo, cố đánh bẫy phán quan, người phải chịu đựng cảnh quan hệ với những kẻ đáng tởm như vậy. Này Remigio, ngươi chẳng bao giờ liên hệ với những người gọi là Anh em Nghèo khó hay các thày dòng khổ hạnh, hay các tu sĩ Beghard phải không?
– Con đã trải qua những nỗi thăng trầm của dòng Khất thực khi xảy ra cuộc tranh cãi triền miên về sự cơ nghèo, nhưng con chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả!
– Thấy chưa, hắn chối chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả, vì giáo phái này, tuy cũng mang tính chất dị giáo như giáo phái Anh em Nghèo khó, lại xem dòng Anh em nghèo khó là một nhánh chết của dòng Francisco, nên tự nhận mình thanh khiết và hoàn thiện hơn. Nhưng nhiều hoạt động của giáo phái Beghard cũng giống như của giáo phái kia thôi! Remigio, ngươi có chối rằng người ta đã từng thấy ngươi khi cầu nguyện trong nhà thờ thì ngồi sụp xuống, ép mặt vào tường, hay nằm dài ra mũ che kín đầu, chớ không quỳ gối khoanh tay lại như những tu sĩ khác chăng?
– Trong dòng thánh Benedict, các tu sĩ cũng nằm dài cầu nguyện, vào những lúc thích hợp…
– Ta không hỏi ngươi làm gì vào những lúc thích hợp, mà vào lúc không thích hợp kia! Do đó, đừng chối rằng ngươi đã giữ một dáng bộ này nọ đặc trưng của giáo phái Beghard… Này, hãy khai đi: ngươi tin gì?
– Thưa ngài, con tin mọi điều mà một con chiên ngoan đạo tin.
– Nghe thành kính gớm nhỉ! Thế con chiên ngoan đạo tin gì?
– Điều mà Giáo hội răn dạy.
– Giáo hội nào? Giáo hội của bọn tín đồ tự nhận mình là hoàn thiện, bọn Tông đồ giả danh, bọn Anh em Nghèo khó dị giáo, hay Giáo hội mà bọn chúng đã so sánh với con điếm thành Babylon, Giáo hội mà tất cả chúng ta đều thành tâm tin tưởng?
Quản hầm hoang mang nói: – Thưa ngài, xin bảo cho con biết Ngài tin Giáo hội nào là chân chính.
– Ta tin đó là Giáo hội La Mã, giáo hội thánh thiện duy nhất của các Tông đồ, được Giáo hoàng và các Giám mục của Người lãnh đạo.
– Con cũng tin như thế.
Phán quan hét lên: – Khôn lanh khiếp nhỉ! Xảo quyệt khiếp nhỉ! Các Huynh thảy đều nghe hắn chứ! Hắn muốn nói hắn tin điều tôi tin tưởng ở giáo hội này, để tránh né khỏi phải khai ra hắn tin gì! Nhưng, chúng tôi đã rành những trò cáo già này rồi! Thôi, hãy đi vào trọng tâm. Ngươi có tin rằng Giáo hoàng đã ban hành rằng muốn thực lòng ăn năn, ngươi phải xưng tội với các tôi tớ của Chúa, và giáo hội La Mã có quyền lực thắt buộc trên trần gian này những gì sẽ được thắt buộc trên thiên đàng?
– Chẳng lẽ con không phải tin những điều đó sao?
– Ta không hỏi ngươi “phải’ tin điều gì, mà hỏi ngươi tin gì!
Quản hầm hoảng sợ nói:
– Con tin mọi điều Ngài và các học giả tài ba khác bảo con tin.
– À! Nhưng những học giả tài ba ngươi nhắc đến đó có phải là những người lãnh đạo giáo phái của ngươi không? Khi nói đến các học giả tài ba, có phải ý ngươi muốn ám chỉ thế không? Có phải những tên láo toét sa đọa đó là những kẻ ngươi đã đi theo để tìm ra đức tin của mình? Ngươi muốn ám chỉ rằng, nếu ta tin những điều chúng tin thì ngươi sẽ tin ta, nếu không, ngươi sẽ tin mình chúng thôi!
Quản hầm lắp bắp: – Thưa Ngài, con không nói thế. Ngài khiến con nói thế. Con sẽ tin Ngài, nếu Ngài dạy con điều tốt lành.
– Quân xấc xược! – Bernard thét lên, giộng nắm tay lên bàn, – Ngươi ngoan cố nhắc lại từ trong ký ức những công thức mà chúng đã dạy ngươi trong giáo phái. Ngươi nói, ngươi sẽ chỉ tin ta nếu ta giảng dạy những gì mà giáo phái ngươi cho là tốt lành. Bọn Tông đồ giả danh đã trả lời như thế, và bây giờ ngươi cũng đối đáp hệt như thế, có lẽ một cách vô ý thức, vì từ miệng ngươi lại trào lên những lời lẽ mà ngày xưa ngươi đã được dạy để đánh lừa các phán quan. Thế nên chính miệng ngươi đã buộc tội ngươi, và nếu ta không dùng kinh nghiệm phán xử thì đã lọt bẫy ngươi rồi… Nhưng, này tên sa đọa kia, hãy đi vào vấn đề chính! Ngươi có bao giờ nghe nói đến Gherrardo Segarelli xứ Parma không?
– Con có nghe nói đến người ấy, – Quản hầm đáp, mặt xanh lè, nếu người ta vẫn còn nhận được cái vẻ tái nhợt trên gương mặt tan nát ấy.
– Ngươi có bao giờ nghe nói đến Fra Dolcino xứ Novara?
– Con có nghe người ta nói đến.
– Ngươi có bao giờ gặp mặt và nói chuyện với gã chưa?
Quản hầm lặng đi vài giây, như thể đo thử hắn nên tiến bao xa khi khai ra một phần sự thật. Rồi hắn quyết định và yếu ớt cất tiếng: – Con đã gặp và nói chuyện với người ấy.
Bernard hét: – Nói lớn lên! Hãy để một lời thực cuối cùng sẽ thoát khỏi miệng ngươi! Ngươi nói chuyện với gã khi nào?
– Thưa Ngài, con lúc ấy là tu sĩ trong một tu viện gần Novara, bọn Dolcino tụ tập trong khu vực đó, và đi ngang tu viện của con, ban đầu không ai biết rõ chúng là ai…
– Nói láo! Làm thế nào mà một tu sĩ Francisco xứ Varagine lại ở trong tu viện vùng Novara được chứ? Ngươi không ở trong tu viện, lúc ấy ngươi đã là một tên trong nhóm Anh em nghèo khó lang thang, sống nhờ của bố thí khắp vùng đó, và ngươi đã gia nhập bọn Dolcino!
Quản hầm run rẩy nói: – Sao ngài lại khẳng định như thế chứ?
– Ta sẽ cho ngươi thấy ta có thể, không, ta khẳng định điều đó như thế nào. – Đoạn Bernard ra lệnh đem Salvatore vào.
Hình ảnh của kẻ bất hạnh ấy – kẻ đã bị Bernard đích thân hỏi cung suốt đêm, tuy không công khai, nhưng lại ác nghiệt hơn cuộc hỏi cung này – khiến tôi động lòng thương cảm. Như tôi đã tả, bộ mặt Salvatore bình thường trông đã dễ sợ, nhưng buổi sáng nay, nó càng giống loài thú hơn bao giờ hết. Mặc dù thân thể xiềng xích của gã lê đi không muốn nổi, chân tay lòng khòng loẻo khẻo, chẳng lộ vẻ gã đã chịu đựng bạo lực nào, nhưng cách bọn lính lôi gã đi xềnh xệch như lôi một con khỉ bị trói bằng thừng, cho thấy rất rõ cuộc hỏi cung kinh hoàng được tiến hành ra sao.
Tôi thì thầm với thầy William.
– Bernard đã tra tấn hắn…
– Đâu có. Phán quan không bao giờ tra tấn, việc giam cầm, hành hình bị cáo luôn luôn được giao cho thế quyền.
– Thì cũng thế thôi!
– Không phải thế. Nó khác, vì tay của phán quan vẫn trong sạch, vì khi phán quan đến thì bị cáo đột nhiên tìm được nơi nương tựa làm dịu đi những vết đau, thế nên sẽ thổ lộ lòng mình.
Tôi nhìn thầy, hoảng sợ nói: – Thầy chỉ đùa.
– Đây là chuyện đùa sao?
Bernard đang hỏi cung Salvatore, và ngòi bút của tôi không thể ghi lại những lời nói vụn vỡ của gã. Lời lẽ của gã rối loạn, hỗn độn như tiếng kêu của một con khỉ đầu chó, mọi người vất vả lắm mới hiểu nổi. Bernard dẫn dắt những câu hỏi, khiến Salvatore chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, và do đó không thể nói dối được tí gì. Và, điều Salvatore nói thì quí độc giả cũng có thể hình dung dễ dàng. Gã kể, hay gã khẳng định những gì gã đã kể đêm nọ, một phần của câu chuyện tôi đã kết lại: những ngày lang thang của một tu sĩ Anh em nghèo khó, Chăn chiên, và Tông đồ giả danh, làm thế nào trong thời Fra Dolcino, gã đã gặp được Remigio trong nhóm này, rồi trốn theo hắn, tham gia trong trận chiến trên núi Rebello, và sau nhiều nỗi thăng trầm, đã trú ẩn trong tu viện Casale. Gã còn nói thêm rằng thủ lĩnh dị giáo Dolcino, khi gần thua trận bị bắt, đã ủy thác cho Remigio một số lá thơ để hắn mang đi đâu, đưa ai gã không biết. Remigio lúc nào cũng mang kè kè những lá thơ này bên mình, chẳng dám đưa cho ai, khi đến tu viện này, hắn sợ không dám giữ trong người nhưng cũng không muốn hủy chúng đi, nên đã ủy thác lại cho quản thư viện, vâng, cho Malachi, và người này phải giấu chúng nơi nào đó sâu kín trong Đại Dinh.
Khi Salvatore nói, quản hầm căm ghét nhìn gã, và đôi khi không kìm lại được đã hét lên: – Đồ rắn rít, đồ quỉ dâm dục; ta là cha của ngươi, là bạn, là người che chở cho ngươi, mà nay ngươi đền ơn cho ta như thế đó!
Salvatore nhìn người đã bảo vệ cho mình, giờ đang cần được bảo vệ, cố gắng nói:
– Cha Remigio, khi có thể, con là người của cha… Nhưng cha biết, bọn đàn em của tên trưởng toán lính mà;…
Remigio lại thét vào mặt gã:
– Đồ điên! Ngươi tưởng tự cứu được mình hả? Ngươi có biết rồi ngươi cũng sẽ chết như một kẻ dị giáo không? Hãy nói những điều ngươi khai khi bị tra tấn chỉ toàn là bịa đặt đi!
– Con không phải người có chữ nghĩa… Con phạm tội không có tà tâm, và Ngài Bernard cao quí biết mà, nhân danh Cha và con và các thánh thần, con mong Ngài bao dung…
Phán quan đáp: – Chúng tôi sẽ bao dung trong giới hạn tòa cho phép, và sẽ khoan hồng xem xét thiện chí khai thật lòng của ngươi. Giờ hãy về phòng suy nghĩ thêm và tin vào ơn huệ của Chúa. Còn bây giờ, chúng ta hãy bàn đến một vấn đề có tầm quan trọng hoàn toàn khác. Này Remigio, thế là ngươi có mang theo mình vài lá thơ của Dolcino, và đã trao chúng cho tu sĩ anh em quản thư viện…
– Không đúng. Không đúng! – Quản hầm la lên, tưởng như cách tự vệ vẫn còn hiệu quả. Nhưng Bernard đã cắt ngang: – Ngươi không phải là người phải khẳng định điều này đâu, người ấy sẽ là Malachi xứ Hildesheim.
Bernard sai lính gọi Malachi đến, nhưng quản thư viện không có trong số những người đang hiện diện. Tôi biết Malachi hoặc đang ở trong phòng thư tịch, hoặc lảng vảng gần bệnh xá để lùng kiếm Benno và quyển sách. Khi lính đưa Huynh ấy đến, mặt Huynh phờ phạc và cố tránh nhìn mọi người. Thầy William buồn rầu lẩm bẩm:
– Thế là bây giờ Benno tự do làm gì tùy thích.
Nhưng thầy đã lầm. Tôi thấy Benno đang nghểnh cổ nhìn qua vai các tu sĩ đang chen chúc nhau quanh cánh cửa tiền sảnh để theo dõi cuộc hỏi cung. Tôi chỉ cho thầy William thấy. Chúng tôi nghĩ Benno còn tò mò muốn tìm hiểu các diễn biến đang xảy ra còn hơn cả quyển sách nữa. Về sau, chúng tôi mới biết, đến khi đó, Benno đã ngã giá xong một vụ trao đổi tồi bại.
Malachi xuất hiện trước tòa, mắt không bao giờ chạm mắt quản hầm. Bernard nói:
– Này Malachi, sáng hôm nay, sau khi nghe Salvatore thú tội đêm qua, ta đã hỏi xem Huynh có nhận được từ bị cáo hiện đang có mặt đây những thơ từ gì không…
Quản hầm la lên: – Malachi! Huynh đã thề sẽ không làm gì hại tôi mà!
Malachi xoay nhẹ về phía bị cáo, lúc ấy đang ở sau lưng, và nói, giọng trầm đến độ tôi vất vả lắm mới nghe ra: – Nếu tôi có thể làm gì đó để hại Huynh, thì việc đó đã được làm rồi. Các lá thơ đã được trao cho Ngài Bernard sáng nay, trước khi Huynh giết Severinus…
– Nhưng Huynh biết, Huynh phải biết là tôi không giết Severinus! Huynh biết vì Huynh ở đó trước tôi mà!
– Tôi ư? Tôi đến đó sau khi họ đã phát hiện Huynh.
Bernard cắt ngang: – Cứ cho là như vậy đi Remigio, thế ngươi đang tìm gì trong phòng thí nghiệm của Severinus?
Quản hầm hoang mang xoay nhìn thầy William rồi Malachi, rồi lại Bernard:
– Nhưng, sáng hôm nay con… tôi nghe sư huynh William có mặt ở đây bảo Severinus canh giữ một số giấy tờ gì đó… và từ tối qua, khi Salvatore bị bắt, con e ngại những bức thư đó…
Bernard đắc thắng reo lên:- Thế thì ngươi có biết về những lá thơ đó!
Đến đây, quản hầm rơi vào bẫy. Hắn bị kẹt giữa hai sự lựa chọn: một là, minh oan cho tội dị giáo, hai là, xóa tan sự nghi ngờ đã giết người. Theo bản năng, hắn chắc hẳn đã quyết định chống chế tội thứ hai, thế nên hắn đang tìm cách tự bào chữa:
– Con sẽ nói về những lá thơ đó sau… Con sẽ giải thích… Con sẽ kể làm sao tôi có được chúng… Nhưng hãy nghe con nói chuyện xảy ra sáng nay. Khi thấy Salvatore rơi vào tay Ngài Bernard, con nghĩ người ta sẽ bàn về những lá thơ đó, bao nhiêu năm nay rồi, mỗi khi nghĩ đến chúng, tâm can con lại bị dày vò… Rồi, khi nghe sư huynh William và Severinus nói về giấy tờ gì đó… biết nói sao… con kinh hoảng quá, nghĩ rằng Malachi muốn tống khứ chúng nên đã giao cho Severinus… Con muốn thủ tiêu chúng, nên đến chỗ Severinus… Cửa mở ngỏ và Severinus đã chết rồi, con liên tục lục lạo khắp đồ đạc để tìm các lá thơ… Con chỉ sợ rằng…
Thầy William rỉ tai tôi : – Rõ ngốc, sợ tai họa này thì lao đầu vào tai họa kia…
Bernard xen lời: – Cứ cho rằng ngươi đã khai gần hết sự thật, ta bảo gần hết thôi nhé. Ngươi tưởng Severinus đang giữ những lá thơ đó và lục tìm chúng trong phòng thí nghiệm. Tại sao ngươi nghĩ Huynh ấy giữ thơ? Tại sao ngươi lại giết các tu sĩ khác? Có lẽ ngươi nghĩ các lá thơ đó đã có lần chuyển qua tay những người này chăng? Có lẽ tu viện này có thói thu nhập tàn tích của bọn dị giáo bị hỏa thiêu chăng?
Tôi thấy Tu viện trưởng giật bắn người. Không có gì tồi tệ bằng lời buộc tội đã gom góp các tàn tích của bọn dị giáo, và Bernard đã quỉ quyệt gán ghép các án mạng với tội dị giáo, và mọi chuyện khác với đời sống trong tu viện. Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt đứt, vì quản hầm la lên rằng hắn không có liên quan gì đến các án mạng kia cả. Bernard nhẹ nhàng trấn an hắn: tạm thời, việc này không phải là điều họ đang bàn đến, họ đang hỏi cung Remigio về tội dị giáo, do đó hắn chớ nên đánh lạc hướng để người ta khỏi chú ý đến quá khứ dị giáo của mình bằng cách kể chuyện Severinus hay gieo ngờ vực cho Malachi. Thế nên hắn phải quay lại chuyện các lá thơ.
Bernard nói với nhân chứng:
– Malachi, ở đây Huynh không phải là bị cáo. Sáng nay, Huynh đã trả lời các câu hỏi của tôi theo yêu cầu, và không hề giấu diếm điều gì. Bây giờ, tại đây, Huynh hãy lập lại những điều đã nói ban sáng và chớ sợ hãi chi.
Malachi nói: – Tôi xin lặp lại những điều đã nói sáng nay. Một thời gian ngắn sau khi Remigio đến đây, Huynh ấy lo quản nhà bếp, và chúng tôi thường gặp nhau vì nhiệm vụ – là một quản thư viện, tôi được giao trách nhiệm ban đêm đóng cửa Đại Dinh, và do đó cả nhà bếp nữa. Tôi không có lý do gì để phủ nhận tình bạn thân thiết giữa chúng tôi, và cũng không có lý do gì để ngờ vực người này, Huynh ấy bảo hiện đang giữ vài tài liệu bí mật, được người ta xưng tội ủy thác lại, những tài liệu này không được rơi vào bàn tay phàm tục và Huynh không dám giữ trong người. Vì tôi hiện đang quản nơi duy nhất trong tu viện cấm mọi người đến, Huynh nhờ tôi giữ các giấy tờ đó sao cho khỏi ai nhòm ngó. Tôi đồng ý, không hề nghi ngờ đó là các tài liệu dị giáo, khi cất chúng đi, tôi cũng chẳng hề đọc… Tôi cất chúng vào nơi sâu kín nhất trong các phòng bí mật của Thư viện, và sau đó quên bẵng đi cho đến sáng nay, khi Ngài phán quan đề cập với tôi các giấy tờ đó, thế là tôi đem chúng ra, trao lại cho Ngài…
Tu viện trưởng nhíu mày, ngỏ lời: – Tại sao Huynh không báo cho Cha biết sự thỏa thuận giữa con và quản hầm? Thư viện đâu phải là nơi để tàng trữ những vật riêng của tu sĩ! – Tu viện trưởng làm sáng tỏ rằng việc này không liên quan đến tu viện.
Malachi bối rối đáp: – Thưa Cha, con nghĩ việc ấy không quan trọng lắm. Con vô tình phạm tội.
Bernard thân thiện nói: – Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi. Chúng ta thảy đều tin rằng quản thư viện đã hành động vì thiện ý, và sự thành thật hợp tác với phiên tòa này là bằng chứng cụ thể. Tôi thành tâm van xin Cha Bề trên chớ trừng phạt Huynh ấy vì một hành động thiếu cẩn trọng trong quá khứ. Chúng tôi tin Malachi, và yêu cầu Huynh ấy tuyên thệ xác nhận rằng, những giấy tờ tôi sắp trình ra đây là những giấy tờ Huynh ấy trao cho tôi sáng nay, do Remigio ủy thác cho Huynh ấy nhiều năm trước đây, sau khi hắn đến tu viện này. – Bernard trương lên hai mảnh da trong số giấy tờ nằm trên bàn. Malachi nhìn và xác nhận: – Tôi xin thề với Chúa Toàn Năng và Đức Mẹ Đồng Trinh và tất cả Thánh thần rằng, đó chính là các giấy tờ tài liệu, xưa nay đều y vậy.
– Thế đủ rồi. Malachi, Huynh được phép lui.
Ngay trước khi Malachi đi đến cửa, đầu cúi gầm, thì từ đám đông hiếu kỳ chen chúc phía dưới tiền sảnh, vang lên một giọng nói:
– Đi giấu giùm thư cho người ta, rồi người ta dẫn xuống bếp cho xem đít tu sinh.
Đây đó có người cười lên, Malachi vội vã đi ra, lấn người này, đẩy người kia. Tôi dám chắc đó là giọng Aymaro, nhưng Huynh ấy đã hét lên giọng the thé. Tu viện trưởng mặt đỏ nhừ, la lên ra lệnh yên lặng, đe dọa sẽ nghiêm khắc trừng trị mọi người, và đuổi họ ra khỏi tiền sảnh. Bernard cười ranh mãnh. Hồng Y Bertrand, ngồi ở một phía, cúi xuống thì thầm vào tai Jean d’Anneaux điều gì đó, Jean lấy tay che miệng và cúi đầu như thể đang ho. Thầy William bảo tôi: – Quản hầm không chỉ phạm tội dâm dục cho riêng mình, mà còn làm ma cô dắt mối nữa. Nhưng Bernard không cần đếm xỉa đến điều đó trừ phi nó khiến Tu viện trưởng, người trung gian của triều đình, phải ngượng ngùng…
Thầy chưa nói dứt lời, Bernard đã hỏi thẳng: – Thưa Sư huynh William, tôi cũng rất quan tâm muốn biết Huynh và Severinus đang nói đến loại giấy tờ gì sáng nay thì Quản hầm nghe trộm và hiểu lầm.
Thầy William nhìn trừng trừng lại: – Quả thực Huynh ấy hiểu lầm tôi. Chúng tôi đang nói đến một bản sao luận thuyết về Chó dại của Ayyub al–Ruhawi, một quyển sách vô cùng uyên bác mà hẳn Ngài đã biết tiếng và hẳn rất hữu ích cho Ngài. Ayyub nói bệnh chó dại có thể nhận ra nhờ hai mươi lăm triệu chứng hiển nhiên…
Bernard, người theo dòng Dominic, tiếng la tinh là “Domini Canes” nghĩa là bầy chó của Chúa, nhận thấy đây không phải là lúc thích hợp để dấy lên một cuộc đấu khẩu khác, bèn nói ngay: – Như thế, việc này không liên hệ với nội vụ đang bàn cãi. – Và phiên xử tiếp tục:
– Hãy quay lại với Sư huynh Remigio, này tu sĩ dòng Khất thực kia, ngươi còn nguy hiểm hơn một con chó dại. Nếu Sư huynh William mấy ngày vừa qua đã chú ý đến nước dãi của bọn phản giáo hơn nước dãi chó thì có lẽ Huynh ấy cũng đã phát hiện được con rắn độc nào đang làm ổ trong tu viện. Chúng ta hãy quay trở lại những lá thơ này. Bây giờ, chúng tôi biết chắc rằng những lá thơ ấy, trước đây, đã ở trong tay ngươi và ngươi cố tình giấu nhẹm chúng như một thứ độc hại nhất, và ngươi đã giết người – Bernard khoát tay, chận không cho Remigio phản đối. – Chúng ta sẽ nói chuyện giết người sau… ngươi đã giết người để chúng khỏi lọt vào tay ta. Ngươi nhận ra những tờ giấy này là sở hữu của ngươi chứ?
Quản hầm không đáp, nhưng sự im lặng của hắn cũng đã đủ thừa nhận. Bernard nhấn mạnh:
– Và những tờ giấy này là gì? Đây là hai trang viết tay, bút tích của thủ lãnh dị giáo Dolcino, vài ngày trước khi gã bị bắt. Gã ủy nhiệm chúng cho một đệ tử để đưa đến cho những kẻ khác trong giáo phái vẫn còn rải rác khắp nước Ý. Tôi có thể đọc cho quí vị nghe toàn bộ nội dung hai lá thơ, làm thế nào Dolcino, sợ ngày tàn của mình sắp đến, đã giao bức thông điệp hy vọng cho Quỉ sứ – theo lời gã nói với đồng bọn! Gã an ủi chúng, và mặc dầu những ngày tháng gã tuyên bố trong thơ này không trùng hợp với ngày tháng trong các thơ trước, như gã đã hứa năm 1305 rằng Hoàng đế Frederick sẽ tiêu diệt hoàn toàn các linh mục, thế nhưng gã vẫn khẳng định cuộc tiêu diệt này không còn bao xa. Một lần nữa, thủ lãnh dị giáo lại nói láo, vì từ ngày đó đến nay đã hơn hai mươi năm và sự tiên đoán ác đức này đâu thành sự thật. Nhưng chúng ta không cần bàn cãi đến những lời tiên tri lố bịch này, mà chỉ nói đến sự kiện Remigio là người lưu giữ chúng. Này tên tu sĩ dị giáo không chịu hối cải, ngươi vẫn còn chối không nhận đã giao lưu và chung sống với giáo phái của bọn Tông đồ giả danh chứ?
Đến đây, quản hầm không phủ nhận được nữa, bèn nói: – Thưa Ngài, thời trai trẻ của con đầy rẫy những lỗi lầm ghê tởm nhất. Khi con học được những lời thuyết giảng của Dolcino, vì con đã từng bị các thầy dòng khổ hạnh quyến rũ, nên liền tin lời gã và gia nhập bè lũ của gã. Vâng, thực thế, con đã ở với chúng trong những vùng Brescia, Bergamo, Como và Valsesia, con cùng chúng trú ẩn trên đồi Núi Trọc, trong thung lũng Rassa, và cuối cùng trên núi Rebello. Nhưng con không bao giờ tham gia vào những hành vi đê hèn, và khi chúng bắt đầu vơ vét, khủng bố, thì con vẫn duy trì tinh thần ôn nhu, phẩm hạnh của bầy con Thánh Francisco. Chính trên núi Rebello, con đã bảo Dolcino rằng con cảm thấy không còn khả năng tham gia những trận đánh nữa, gã cho phép con về, và gã bảo không muốn có những tên hèn nhát theo gã, chỉ yêu cầu con mang hai lá thơ đến Bologna…
– Trao cho ai? – Hồng y Bertrand hỏi.
– Vài người cùng giáo phái với gã. Con nghĩ mình còn nhớ tên họ, và khi con nhớ con sẽ thưa Ngài hay. – Remigio vội vã xác nhận. Rồi hắn nêu lên vài tên mà Hồng Y dường như biết, vì Cha mỉm cười hài lòng và gật gù tán đồng với Bernard.
– Tốt lắm, – Bernard nói và ghi lại những tên này, đoạn hỏi Remigio. – Thế sao giờ đây ngươi lại giao nộp tên các bạn bè của ngươi?
– Thưa ngài, họ không phải bạn bè của con, và bằng chứng là con không trao thư cho họ. Thực tình là con đi xa hơn, và nay con xin khai thật điều mà con đã cố quên đi bao nhiêu năm nay: nhằm mục đích ra khỏi nơi đó mà không bị quân của Giám mục xứ Vercelli bắt, lúc ấy họ đang phục kích trên cánh đồng, con bèn xoay sở liên lạc với vài người của giám mục, và để đổi lấy một tờ giấy đi lại an toàn, con đã chỉ cho họ những lối tốt để tấn công thành lũy của Dolcino. Do đó một phần chiến công của binh đội của giáo hội là do con đóng góp…
– Hay lắm. Điều đó cho thấy rằng ngươi không chỉ là một tên dị giáo mà còn là một thằng hèn nhát và phản bội. Nó không thay đổi được hoàn cảnh của ngươi đâu. Như mới đây, ngươi đã cố cứu mình bằng cách đổ tội cho Malachi, người đã giúp đỡ ngươi, rồi sau đó, để nhẹ tội, ngươi lại khai ra các đồng bọn của mình cho pháp luật. Nhưng ngươi chỉ phản bội lại thân xác, chớ không phản lời răn dạy của chúng. Ngươi giữ những lá thư này làm tàn tích, hy vọng một ngày nào đó sẽ có can đảm và cơ hội mà không phải liều mạng, để trao chúng đi, lấy lòng bọn Tông đồ giả danh.
– Không, thưa Ngài, không, – quản hầm đầm đìa mồ hôi, tay run lẩy bẩy nói: – Không, con thề rằng…
– Thề thốt! Lại thêm một bằng chứng khác về thủ đoạn lừa đảo của ngươi! Ngươi muốn thề vì hiểu rằng ta biết những tên dị giáo dòng Waldenses sẵn sàng giở trò hai mặt, thậm chí chịu chết nữa, chớ nhất định không chịu thề! Còn nếu hoảng sợ quá, chúng sẽ giả vờ thề thốt! Nhưng ta thừa hiểu người không thuộc giáo phái Kẻ Nghèo xứ Lyon, đồ cáo già độc ác! Và ngươi cố đánh lạc hướng, để ta không nhận chân được bản chất của ngươi! Ngươi thề phải không? Ngươi thề với hy vọng được giải tội, nhưng ta bảo cho biết: một lời thề không đủ đâu! Ta có thể đòi một, hai, ba, hàng trăm lời thề tùy thích. Ta thừa hiểu rằng bọn Tông đồ giả danh các ngươi tha tội cho những kẻ thà chịu thề giả chớ không phản bội giáo phái. Như thế, mỗi lời thề sẽ thêm bằng chứng cho tội của ngươi!
– Thế thì con phải làm gì đây? – Quản hầm thét lên, quì sụp xuống.
– Chớ có nằm mọp ra như một tên Beghard! Ngươi không phải làm gì hết. Lúc này, chỉ có mình ta biết việc phải làm – Bernard mỉm một nụ cười đáng sợ, nói. – Ngươi chỉ phải xưng tội. Xưng tội hay không xưng tội thì ngươi cũng sẽ bị đọa đày và lên án, vì ngươi sẽ bị trừng trị như một kẻ khai man. Thế thì ngươi hãy xưng tội đi, chỉ để rút ngắn cuộc hỏi cung đau đớn nhất này, nó đã làm tổn thương lương tri và lòng thương cảm của chúng ta!
– Nhưng con phải xưng tội gì đây?
– Hai tội: Thứ nhất, ngươi thuộc giáo phái của Dolcino, ngươi có chung những quan điểm dị giáo và có tham gia các hành vi nguy hại đến các giám mục và các thị trưởng, ngươi không hối cải mà còn tiếp tục duy trì những điều láo toét và hoang tưởng này, mặc dù tên thủ lĩnh dị giáo đã chết và giáo phái đã giải tán, tuy chưa hoàn toàn bị diệt tận gốc. Thứ hai, tâm can ngươi đã bị sa đọa vì những lối hành đạo trong giáo phái tanh hôi ấy, ngươi có tội đã gây ra những vụ rối loạn chống lại Chúa và con người trong tu viện này, vì những nguyên do ta chưa nắm được, nhưng cũng không cần nêu rõ ra đây làm gì, một khi chúng ta đã khẳng định rằng, tư tưởng dị giáo của những kẻ đã và đang thuyết giảng về sự cơ nghèo chống lại giáo huấn của Giáo hoàng và các sắc lệnh của Ngài, chỉ có thể dẫn đến các hành vi tội ác. Đó là điều một người sùng đạo phải nhớ, và thế là đủ. Xưng tội đi.
Điều Bernard muốn thật quá rõ ràng. Không thèm lưu tâm tìm hiểu ai là thủ phạm giết các tu sĩ kia, hắn chỉ muốn vạch ra rằng Remigio bằng một cách nào đó, đã có chung các tư tưởng do các nhà thần học của Hoàng đế đưa ra. Và một khi hắn chỉ ra được mối liên hệ giữa các tư tưởng này – mà cũng là tư tưởng của Đại hội Perugia – với các tư tưởng của dòng Anh em nghèo khó và Dolcino, chỉ ra được một tu sĩ trong tu viện này đã theo đuổi tất cả những loại tư tưởng dị giáo đó và là thủ phạm của nhiều vụ sát nhân, thì hắn quả sẽ giáng một đòn trí mạng xuống đối phương. Tôi nhìn thầy William và biết thầy đã hiểu, nhưng không làm được gì, dù thầy đã tiên liệu tất cả. Tôi nhìn Tu Viện trưởng và thấy gương mặt Cha u ám: Cha đang nhận ra, dù muộn màng, rằng mình cũng bị lôi vào bẫy, và quyền lực của Cha trong vai trò trung gian đang thu hẹp dần, vì Cha sẽ xuất hiện như một vị Chúa đất, nơi tất cả tội lỗi của thế kỷ rủ nhau về. Còn quản hầm, hắn không biết mình còn có thể kêu oan về tội nào. Nhưng có lẽ lúc đó, hắn chẳng thể tính toán được nữa, tiếng khóc bật ra từ cổ họng hắn là tiếng khóc từ tâm hồn, trong đó trào tuôn bao năm trường lặng lẽ ăn năn. Hay là, sau một cuộc đời vô định, nhiệt tình và vỡ mộng, hèn nhát và phản bội, nay đối mặt với một ngày tàn không tránh khỏi, hắn quyết định sẽ bộc lộ đức tin hồi thanh xuân của mình, chẳng cần thắc mắc xem nó đúng hay sai nữa, mà chỉ tự chứng minh rằng hắn còn đức tin. Hắn hét lên:
– Phải rồi. Con cùng ở với Dolcino, cùng tham gia các tội ác và sự phóng đãng của gã, có lẽ con điên rồ, con lẫn lộn lòng yêu Chúa Ki-tô với khao khát tự do và sự thù ghét các giám mục. Đúng là con đã phạm tội, nhưng con không biết về mọi việc xảy ra trong tu viện. Con thề!
– Tạm thời chúng ta đã đạt được vài kết quả, vì ngươi công nhận đã theo bọn dị giáo Dolcino, mụ phù thủy Margaret và đồng bọn của ả. Ngươi có nhận đã ở với chúng gần Trivero, khi chúng treo cổ nhiều tín hữu Thiên chúa giáo trung thành, kể cả một đứa trẻ mười tuổi vô tội hay không? Khi chúng treo cổ nhiều người khác trước mặt cha mẹ, vợ con họ, vì họ không tuân theo ý muốn của lũ chó đó không? Lúc đó, vì ngươi bị cơn cuồng nộ và lòng kiêu hãnh mù quáng nên nghĩ ai không thuộc cộng đồng của bọn ngươi sẽ không được cứu rỗi, có phải không? Nói đi!
– Phải, con tin như vậy và đã làm như vậy!
– Và ngươi có mặt khi chúng bắt các môn đệ của giám mục và bỏ họ chết đói trong ngục, khi chúng chặt bàn tay, cánh tay một phụ nữ đang có bầu, bỏ mặc bà ta sinh ra một đứa trẻ không được rửa tội, chết liền sau đó? Ngươi cùng với chúng phóng hỏa và san bằng các làng ở Mosso, Trivero, Cossila, Clecchia và nhiều địa phương khác trong khu vực Crepacorio, nhiều nhà ở Mortiliano và Quorino, chúng đốt nhà thờ ở Trivero, sau khi đã làm ô uế các hình thiêng liêng, đập phá mộ bia trên bàn thờ, bẻ gãy cánh tay của tượng Đức mẹ Đồng trinh, cướp đi lọ, chén thánh, sách vở, phá hủy tháp chuông nhà thờ và đoạt mọi của cải của các linh mục?
– Phải phải, con có ở đó và bọn con lúc đó chẳng ai biết mình đang làm gì, chúng con muốn báo trước giờ phút trừng phạt, chúng con là những người tiên phong của Hoàng đế, được trời phái xuống để thúc đẩy sự hạ giới của thiên thần yêu thương, khi đó hết thảy sẽ hưởng được ơn huệ của Thánh linh và Giáo hội sẽ được canh tân, sau khi tiêu diệt mọi kẻ sa đọa, thì chỉ còn những người hoàn thiện cai trị!
Quản hầm dường như vừa bị hớp hồn vừa được soi sáng, vẻ im lặng, giả vờ như đã tan vỡ, quá khứ của hắn quay về, không chỉ qua lời nói mà còn bằng hình ảnh nữa, hắn đang sống lại những cảm xúc xưa kia đã khiến hắn hưng phấn.
– Và ngươi đã đốt phá cướp bóc của cải của các người Thiên chúa giáo lương thiện!
– Chúng con đốt phá cướp của vì đã tuyên bố cái nghèo vì chân lý chung, và có quyền chiếm đoạt của bất chính của kẻ khác. Chúng con muốn đánh vào tận trung tâm của mạng lưới tham lam phát triển từ giáo phận này sang giáo phận kia. Nhưng chúng con không bao giờ cướp của để sở hữu, hay giết người để cướp của, chúng con chỉ giết để trừng phạt, để lấy máu tẩy sạch những gì không thanh khiết. Chúng con cũng phải giết những người vô tội để giết được hết lẹ hơn. Chúng con muốn một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình, ngọt ngào, hạnh phúc cho tất cả mọi người, chúng con muốn thủ tiêu cuộc chiến mà lòng tham của các người đã mang đến, vì các người đã nhiếc mắng chúng con gây đổ máu… để thiếp lập công lý và giành hạnh phúc… Thực sự cũng không tốn bao nhiêu, vội vã quá và cũng đáng để nhuộm đỏ nước Carnasco ở Stavello ngày ấy, chúng tôi cũng đổ máu nữa chứ, chúng tôi có tiếc gì thân mình đâu, máu các người, máu chúng tôi, cần thật nhiều, cần ngay, thời tiên tri của Dolcino đã kề rồi, chúng tôi phải thúc đẩy chuỗi sự kiện tiến nhanh.
Toàn thân hắn run lẩy bẩy, hắn chà xát đôi tay vào áo dòng như muốn chùi sạch máu đang nhớ lại. Thầy William bảo tôi:
– Tên háu ăn đã trở nên trong sạch.
Tôi hoảng hốt hỏi:
– Thế này là sự trong sạch à?
– Cũng có những loại khác nữa, nhưng dù loại nào đi nữa, nó luôn làm thầy sợ.
– Trong sự trong sạch điều gì làm thầy sợ nhất?
– Sự vội vã.
Tiếng Bernard vang lên: – Đủ rồi, đủ rồi. Chúng tôi muốn nghe ngươi xưng tội, chớ không phải nghe hô hào tàn sát. Quả thực, không chỉ xưa kia ngươi theo dị giáo: nay ngươi vẫn là tên dị giáo. Không chỉ trước đây ngươi giết người: giờ ngươi lại là tên sát nhân. Nào, hãy khai ngươi đã giết các tu sĩ anh em trong tu viện này như thế nào, và tại sao?
Quản hầm thôi run rẩy, hắn dáo dác nhìn xung quanh như vừa sực tỉnh con mơ:
– Không. Con chẳng liên quan gì đến các án mạng trong tu viện. Con đã khai hết những gì con làm: chớ ép con khai những gì con không làm…
– Nhưng còn việc gì mà ngươi chẳng thể làm được? Ngươi định nói mình vô tội ư? Ôi con cừu non, ôi biểu tượng của hiền dịu! Quí vị nghe hắn chứ: Kẻ ngày xưa tay nhúng trong vũng máu bây giờ lại vô tội! Có lẽ chúng ta đã nhầm, Remigio là một mẫu mực về đạo đức, một người con trung thành của Giáo hội, một kẻ thù của Kẻ thù của Chúa, Huynh ấy luôn tôn kính trật tự mà bàn tay của Giáo hội đã vất vả dựng lên trên các làng mạc, thị thành, nền an cư lạc nghiệp, tiểu thủ công nghệ và các kho tàng của nhà thờ. Huynh ấy vô tội, và chẳng hề phạm một tội ác nào. Này Sư Huynh Remigio, hãy đến đây cho ta ôm vào lòng, để ta an ủi Huynh đã bị lũ ác buộc tội!
Khi Remigio sững sờ nhìn Bernard như thể đột nhiên tin vào lời giải tội cuối cùng, Bernard đanh mặt như cũ và cao giọng ra lệnh cho trưởng toán lính:
– Ta ghê tởm những biện pháp mà Giáo hội luôn lên án khi thế quyền sử dụng chúng. Nhưng có một luật pháp thống trị và chi phối ngay cả các cảm xúc riêng tư của ta nữa. Hãy xin Tu viện trưởng dành cho một chỗ để đặt các dụng cụ khảo hình. Đừng có tiến hành ngay. Giam hắn trong phòng ba ngày, xiềng tay chân lại. Rồi cho hắn xem các dụng cụ ấy. Chỉ cho xem thôi. Đến ngày thứ tư hãy tiến hành. Công lý không được thực hiện vội vã, như bọn tông đồ giả danh vẫn tin, mà công lý của Chúa có hàng nhiều thế kỷ để ung dung thi hành. Hãy tiến hành chậm rãi, từng chút một. Và hơn hết, hãy nhớ đến lời ta vẫn dặn đi dặn lại: Tránh gây tàn tật hay tử vong. Một trong những lợi ích mà phương pháp này ban cho phạm nhân chính là người ấy mong được chết, nhưng cái chết sẽ không đến trước khi người ấy tự nguyện khai hết, khai sạch mọi tội lỗi.
Lính cúi xuống nhấc quản hầm lên, nhưng hắn trụ chân trên đất và quơ quào phản kháng, ra hiệu muốn nói. Khi được phép, hắn cất tiếng, nhưng tiếng nói cứ lúng búng trong họng như một gã say lầu bầu và nghe như có cái gì tục tĩu trong đó. Dần dần hắn mới lấy lại vẻ hăng tiết của lúc xưng tội ban nãy.
– Không, thưa ngài. Không, xin chớ tra tấn. Con là một thằng hèn nhát. Mười một năm trong tu viện này con đã phản bội, đã phủ nhận đức tin ngày xưa. Con lo thu thuế của nông dân và người trồng tỉa, chăm nom chuồng ngựa, chuồng heo để đàn gia súc tăng lên làm giàu cho Tu viện trưởng, con sẵn sàng tham gia việc điều hành cái cơ ngơi của tên phản giáo này. Con đã làm giàu lên và quên đi những ngày nổi loạn cũ, con đắm mình trong thú ăn uống và những thú vui khác nữa. Con là một thằng hèn. Hôm nay con đã bán những người anh em cũ của mình ở Bologna, rồi lại bán Dolcino. Là một thằng hèn, giả dạng một thập tự quân, con đã chứng kiến cảnh Dolcino và Margaret bị bắt vào ngày chúa nhật và bị dẫn đến tháp Bugello. Con đã lang thang ở Vercelli ba tháng trời đến khi có thơ của Giáo hoàng Clement tuyên án tử hình. Con đã chứng kiến cảnh Margaret bị cắt thành từng mảnh ngay trước mắt Dolcino, khi bị mổ ruột, nàng thét rống lên, ôi thân thể tội nghiệp mà một đêm nọ con cũng đã chạm tay vào… Khi cái xác nát bấy của nàng bị thiêu đốt, thì chúng nhào vào Dolcino, dùng kẹp hun nóng rứt mũi, rứt hòn dái của ông. Về sau, người ta nói ông không rên la một tiếng là không đúng đâu. Dolcino to cao, có bộ râu rậm của quỉ, mái tóc đỏ chảy lọn xuống đến xương bả vai, khi lãnh đạo thì thật là hùng dũng, phương phi, đầu đội mũ rộng vành có gắn lông chim, lưng giắt gươm bên ngoài áo dòng. Dolcino khiến đàn ông khiếp hãi và đàn bà hét lên vì khoái lạc… Nhưng khi bị tra tấn thì ông cũng đau đớn rống lên như một mụ đàn bà, một con bò cái, khi chúng ném ông từ góc này sang góc kia thì các vết thương ông chảy máu ròng ròng và chúng cứ tiếp tục ray rứt ông, cho ông thấy một phái viên của Quỉ có thể sống được bao lâu. Ông muốn chết và bảo chúng kết liễu mạng mình cho rồi, nhưng ông chết muộn quá, mãi đến khi lên giàn hỏa rồi và chỉ còn lại một đống thịt bấy máu. Con đi theo và mừng là mình đã thoát nạn, tự hào mình khôn khéo, thằng côn đồ Salvatore cũng đi cùng, gã nói: Sư huynh Remigio, chúng mình sao khôn quá, chẳng có gì ghê tởm hơn tra tấn! Hàng bao nhiêu năm nay, con đã nhủ thầm sao mình tồi quá, và mừng sao mình đã tồi như vậy, thế nhưng con vẫn luôn hy vọng được chứng tỏ mình không đến nỗi hèn. Thưa Ngài Bernard, hôm nay ngài đã ban cho con sức mạnh, ban cho con sự can đảm để khai ra đức tin trong hồn con khi xác con lìa nó. Nhưng xin đừng bắt con can đảm hơn, con cũng chỉ là người trần mắt thịt. Xin đừng tra tấn con. Con sẽ khai bất cứ điều gì Ngài muốn. Cho con lên giàn hỏa ngay còn hơn vì con sẽ chết ngạt trước khi chết thiêu. Xin chớ tra tấn con như Dolcino. Xin đừng. Ngài muốn một xác chết, và như thế ngài cần con nhận tội cho những cái thây kia. Dầu sao, sớm muộn gì con cũng ra ma rồi. Vì vậy, con sẽ nói điều Ngài muốn. Con đã giết Adelmo vì thù ghét tuổi thanh xuân và cái giọng giễu cợt của hắn cứ chế giễu những con quái vật già nua béo mỡ, ngu dốt như con. Con giết Venantius vì hắn giỏi quá và cứ đọc những quyển sách mà con chẳng hiểu gì sất. Con giết Berengar vì ghét cái thư viện của hắn, con chỉ nghiên cứu thần học bằng cách đập dùi cui vào đầu những tên linh mục phì nộn. Con giết Severinus… tại sao nhỉ? À, tại vì hắn sưu tập cây thuốc hoài, một kẻ như con, hồi ở núi Rebello, cứ ăn cây thuốc, cỏ, lá, mà có thắc mắc gì về chất loại của chúng đâu. Nói thực, kể cả Tu viện trưởng: Cha thuộc về phe Giáo hoàng hay nhà vua đi nữa thì cũng vẫn là kẻ thù của con, con lúc nào cũng ghét lão, dù lão có nuôi con đi nữa thì cũng chính vì con đã nuôi lão. Như thế đã đủ cho Ngài chưa? À, chưa hả, Ngài còn muốn biết con giết hết thảy bọn đó như thế nào ư?… Ừ, con giết họ… để xem nào… bằng cách triệu tập các thế lực quỉ quái, với hàng ngàn đạo âm binh, tập hợp dưới quyền điều khiển của con nhờ tài nghệ mà Salvatore đã chỉ lại. Giết người đâu cần phải xuống tay. Quỉ sẽ làm việc đó, nếu mình biết cách ra lệnh cho chúng.
Hắn tinh quái liếc nhìn những người tham dự, vừa liếc vừa cười phá lên. Những tiếng cười của hắn bây giờ là tiếng cười của một kẻ điên, dù như thầy William sau này đã chỉ cho tôi thấy, gã điên này cũng đủ trí khôn để kéo luôn Salvatore vào tròng với gã để trả thù tội phản bội.
– Thế ngươi ra lệnh cho Quỉ như thế nào? – Bernard xem lối lảm nhảm này như một lời khai trước pháp luật, bèn hỏi riết theo.
– Chính Ngài phải biết chứ: chẳng lẽ Ngài đi với ma bao năm nay rồi mà không biết mặc áo giấy! Chính Ngài phải biết chứ, hỡi tên đồ tể của Tông đồ! Mày lấy một con mèo đen tuyền, phải không, cột bốn chân nó lại rồi nửa đêm đem nó đến ngã ba đường, gọi lớn lên: Hỡi ác quỉ Lucifer vĩ đại, hỡi Diêm vương, ta gọi mời ngươi về xâm nhập vào xác của kẻ thù ta như ta đang giữ chặt con mèo này đây, vì nếu ngươi giết chết được kẻ thù của ta thì nửa đêm ngày hôm sau, cũng tại chỗ này, ta sẽ tế ngươi con mèo này, và ngươi sẽ làm theo lệnh ta dưới quyền lực của những ma thuật mà ta đang áp dụng theo sách mật của Thánh Cyprian, nhân danh tất cả các ma vương thống lĩnh âm binh, Adramelch, Alastor, và Azazel; những ma vương ta đang cầu đây, cùng với bầy quỉ đầu trâu mặt ngựa của chúng…
Môi Remigio run bần bật, mắt như muốn lọt khỏi tròng, và dường như đang cầu nguyện, nhưng hắn gởi lời van cầu của mình đến toàn thể lũ ma vương thống lãnh âm binh.
– Tôi bị xua đuổi, hãy chịu tội cho chúng tôi: – Amen, xin thương xót chúng tôi… Samael, xin hãy cứu chúng tôi khỏi điều thiện… Belial, hãy xót thương… Focalor, hãy nhằm vào sự sa đọa của tôi… Haborym, Mẹ kiếp Chúa… Zaebos, banh đít ta ra… Leonard, hãy vảy tinh trùng lên người ta để ta trở thành ô uế… (2)
– Thôi đi! Thôi đi! – Mọi người trong phòng thét, đưa tay làm dấu thánh giá. – Ôi chúa, xin thương xót tất cả chúng con!
Quản hầm im lặng, sau khi thốt lên tên của bọn ác quỉ đó, hắn ngã sấp mặt xuống, răng nghiến chặt, môi giật giật, miệng sùi dãi trắng xóa. Đôi tay hắn, dù đã bị xiềng đau đớn, cứ co giật mở ra nắm vào, còn chân thì cứ đá lung tung vào khoảng không. Thấy tôi run rẩy bấn loạn vì sợ hãi, thầy William đặt tay lên đầu tôi và gần như túm lấy gáy tôi, nhấn xuống, bắt trấn tĩnh lại. Thầy nói: – Con thấy chưa? Khi bị tra tấn hoặc bị đe dọa sẽ chịu tra tấn, người ta không chỉ khai ra những tội đã làm, mà cả những việc người ấy có thể làm, mặc dù chẳng hề biết đến chúng. Bây giờ Remigio thực tâm chỉ muốn chết.
Bọn lính lôi quản hầm đi, người hắn vẫn còn co giật. Bernard thu nhặt giấy tờ. Rồi hắn ngồi nhìn trừng trừng vào những người có mặt, tuy bất động nhưng lòng rất bồn chồn bất an.
– Cuộc hỏi cung đã chấm dứt. Bị cáo đã tự buộc tội mình và sẽ bị giao về Avignon để đưa ra xử lần cuối cùng, nhằm thận trọng thực hiện sự bảo vệ công lý và sự thật. Chỉ sau khi kết thúc phiên tòa theo nghi thức này, hắn mới bị hỏa thiêu. Thưa Tu viện trưởng, hắn chẳng còn thuộc quyền Cha nữa cũng chẳng còn thuộc về con, một công cụ hèn mọn của sự thật. Việc thi hành công lý sẽ xảy ra ở nơi khác, các người chăn chiên đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nay chó canh sẽ tách con cừu ghẻ ra khỏi bầy và dùng lửa tẩy sạch nó. Thời kỳ đau thương chứng kiến gã này phạm những tội ác tày đình đã chấm dứt. Xin cầu mong tu viện được sống yên lành. Nhưng trần gian – đến đây Bernard cao giọng quay sang nói với các sứ giả, – vẫn chưa có hòa bình. Trần gian bị bọn dị giáo dày xéo, chúng trú ẩn ngay trong Cung vua! Xin các Sư Huynh nhớ điều này: Cái đai ác quỉ (3) đã buộc các giáo hữu sa đọa của Dolcino vào những vị thầy danh dự của Đại hội Perugia. Chúng ta chớ quên: dưới mắt Thượng đế, những lời điên loạn lảm nhảm của kẻ khốn nạn mà ta vừa trao lại cho công lý cũng chẳng khác gì lời của những vị thầy ngồi ăn tiệc tại bàn của gã người Đức xứ Bavaria đã bị tước phép thông công. Nguồn cội phát sinh bọn dị giáo độc ác nảy nở từ nhiều lối thuyết giảng, dù được kính trọng nhưng vẫn chưa bị trừng phạt. Chúng ta biết rằng kẻ công khai theo dị giáo không phải là loại dị giáo duy nhất – Có thể phân biệt những kẻ ủng hộ dị giáo nhờ năm biểu hiện. Thứ nhất, những kẻ bí mật thăm nom bọn dị giáo bị giam cầm. Thứ hai, những kẻ thương tiếc khi chúng bị bắt và đã từng là bạn thân của chúng. Thứ ba, những kẻ tuyên bố bọn dị giáo đã bị kết án không công bằng, mặc dầu tội chúng đã rành rành. Thứ tư, những kẻ ngờ vực và chỉ trích người xử bọn dị giáo, và đã thành công khi thuyết giảng chống lại người ấy, điều này có thể phát hiện từ ánh mắt, cái nheo mũi, và những cử chỉ chúng cố giấu. Cuối cùng, biểu hiện thứ năm là chúng thu nhặt xương tàn của bọn dị giáo bị hỏa thiêu và tôn kính nắm xương này… Nhưng, tôi cũng xem biểu hiện thứ sáu là vô cùng quan trọng: tác giả của những quyển sách, trong đó bọn phản giáo tìm ra những tiêu đề để áp dụng tam đoạn luận theo kiểu sa đọa của chúng cũng ra mặt là bạn của bọn phản giáo.
Khi nói lời này, Bernard nhìn Ubertino trân trân. Tất cả phái đoàn Pháp đều hiểu rõ Bernard muốn ám chỉ gì. Giờ đây, cuộc họp đã thắt lại, chẳng ai dám tiếp tục cuộc tranh luận ban sáng, vì thừa hiểu mỗi một lời nói ra sẽ bị cân đong dưới ánh sáng của những biến cố khủng khiếp vừa qua. Nếu Giáo hoàng đã phái Bernard đến đây để ngăn chặn sự hòa giải giữa hai nhóm, thì hắn đã thành công.

Chú thích:
(1) Sancta Romana
(2) Abigor, pecca Pro nobis… Amon, miserere nobis… Samael, libera nos a bono… Belial eleison… Focalor, in corruptionem meam intende… Hyborym, damnabus dominam… Zaebos, anum menum aperies… Leonard, asperge me spermate tue et inquinabor…

(3) Cingulum diaboli

KINH CHIỀU

Ubertino bôn tẩu,
Benno tuân hành luật,
và William nghĩ ngợi
về nhiều loại dục vọng khác nhau
được chứng kiến trong ngày đó
.

Khi các tu sĩ chậm chạp ra khỏi nhà nguyện, Cha Michael đến chỗ thầy William, rồi cha Ubertino cũng đến nhập bọn. Tất cả chúng tôi đi ra ngoài, và vào bàn bạc trong nhà dòng, dưới lớp sương mù bao phủ mà chẳng có dấu hiệu gì tan đi cả. Thực ra, bóng tối khiến trời càng mù hơn. Thầy William nói:
– Con nghĩ không cần bàn bạc về những gì đã xảy ra nữa. Bernard đã đánh bại chúng ta. Đừng hỏi con tên tu sĩ dòng Dolcino khờ dại đó có thực sự gây ra những vụ án đó không. Theo con biết, hắn hoàn toàn vô tội. Thực tế là chúng ta bị lùi về khởi điểm. Cha Michael, John muốn Cha một mình đến Avignon, và cuộc họp này đã không cho chúng ta những sự bảo đảm hằng mong chờ. Ngược lại, nó đã cho Cha thấy mỗi lời nói của Cha ở đó có thể bị bóp méo như thế nào. Do đó theo con nghĩ, chúng ta phải suy luận là Cha chớ nên đi.
Cha Michael lắc đầu:
– Ngược lại, Cha sẽ đi. Cha không muốn thúc đẩy sự ly giáo. Sư Huynh William, hôm nay Huynh đã nói rất rõ điều mình muốn. Thế nhưng, đó không phải là điều Cha muốn, và Cha nhận thức được các quyết nghị của Đại hội Perugia đã bị các nhà thần học triều đình sử dụng ngoài ý muốn. Cha muốn Giáo hoàng chấp nhận dòng Francisco với lý tưởng cơ nghèo của nó. Và Giáo hoàng phải hiểu rằng, nếu dòng không khẳng định lý tưởng này, thì nó sẽ không thể chấn chỉnh được những mầm nhánh dị giáo. Cha sẽ đi Avignon, và nếu cần thiết sẽ nhân nhượng John. Cha sẽ chịu hòa hoãn mọi điều, trừ nguyên lý về sự cơ nghèo.
Cha Ubertino cất tiếng: – Cha có biết mình đang liều mạng không?
Cha Michael đáp: – Đành thế. Còn tốt hơn liều mất linh hồn.
Cha Michael đã quyết và chẳng có cách nào khiến Cha đổi ý. Nhưng lại nổi lên một vấn đề khác, và thầy William nói ngay chẳng cần úp mở. Chính Cha Ubertino cũng chẳng còn an toàn nữa. Những lời Bernard đã ám chỉ đến Cha và sự căm ghét của Giáo hoàng; trong khi Cha Michael vẫn còn một uy lực để thương thuyết, thì lúc này đây, Cha Ubertino đã đứng riêng thành một phe…
– John muốn Cha Michael đến triều, và Cha Ubertino xuống địa ngục. Nếu con hiểu đúng con người Bernard, thì từ đây đến mai, với sự đồng lõa của trời mù sương như thế này, Cha Ubertino sẽ bị giết. Và nếu có ai thắc mắc hỏi, thì tu viện sẽ dễ dàng chịu thêm một tội nữa, và họ sẽ nói án mạng gây ra bởi lũ quỉ được Remigio và bầy mèo đen của hắn triệu về, hay bởi một tên tu sĩ dòng Dolcino nào đó còn sống sót, đang rình rập trong những bức tường này…
Ubertino lo lắng hỏi: – Thế thì…?
Thầy William đáp: – Thế thì Cha hãy thưa chuyện với Tu viện trưởng đi. Xin Cha bề trên cấp cho một con ngựa, ít lương thực, và một thơ giới thiệu đến một tu viện thật xa, bên kia núi Alps. Hãy lợi dụng sương mù khi đêm xuống mà ra đi ngay.
– Nhưng bọn lính vẫn đang gác cổng mà?
– Tu viện có những lối ra khác mà Tu viện trưởng biết, chỉ cần một tôi tớ dắt ngựa xuống đợi Cha ở một khúc rẽ phía dưới, sau khi lách qua vài lối đi trong tường, Cha chỉ việc băng qua một khoảng rừng. Cha phải hành động ngay, trước khi Bernard bừng tỉnh cơn say chiến thắng. Con còn phải bận tâm đến một điều khác. Con có hai nhiệm vụ: một đã thất bại, thì ít ra nhiệm vụ thứ hai phải thành công. Con muốn đặt tay lên một quyển sách, và một người. Nếu mọi chuyện êm đẹp, Cha sẽ thoát khỏi đây trước khi con đi tìm Cha lần nữa. Thôi xin tạm biệt.
Thầy William giang tay ra. Ubertino xúc động ôm ghì lấy thầy: – Tạm biệt William. Huynh là một người Anh kiêu hãnh và điên rồ, nhưng Huynh có một tâm hồn vĩ đại. Chúng ta sẽ gặp lại nhau chứ?
Thầy William động viên: – Chúng ta sẽ gặp lại. Chúa mong như vậy.
Tuy nhiên, Chúa lại không mong như vậy. Như tôi đã nói, Ubertino bị giết một cách bí ẩn hai năm sau đó. Một đời gian nan phiêu bạt, ông lão đã sống thật dũng cảm và nhiệt thành. Có lẽ Cha không phải là Thánh, nhưng tôi hy vọng Chúa sẽ phong Thánh để tưởng thưởng cho đức tin sắt đá của Cha. Càng già, càng hiến mình cho Chúa, tôi lại càng xem thường cái chí muốn biết và cái chí muốn làm. Phương tiện cứu rỗi duy nhất mà tôi nhận ra chính là đức tin, có thể nhẫn nại chờ mà không thắc mắc hỏi han. Chắc chắn Cha Ubertino có một đức tin vĩ đại đối với nỗi đau và máu đã đổ của Chúa trên thập giá.
Có lẽ ngay lúc đó tôi cũng suy nghĩ như vậy, và nhân vật già nua huyền hoặc này đã nhận ra, hay đoán được một ngày nào đó tôi sẽ nghĩ thế. Cha ngọt ngào cười với tôi và ôm tôi vào lòng, không xiết tôi như mấy ngày trước. Cha ôm tôi như ông ôm cháu, và tôi cũng âu yếm ôm Cha như vậy. Rồi Cha cùng Cha Michael đi tìm Tu viện trưởng. Tôi hỏi thầy Willam:
–         Còn bây giờ?
–         Bây giờ, hãy quay lại các vụ án của chúng ta.
–         Thưa thầy, hôm nay đã xảy ra nhiều việc nghiêm trọng cho Thiên chúa giáo, và sứ mệnh của chúng ta đã thất bại. Thế nhưng dường như thầy chú ý đến việc tìm ra điều bí ẩn hơn là mâu thuẫn giữa Giáo hoàng và Nhà vua.
–         Adso, trẻ con và thằng điên luôn luôn nói sự thật. Trên cương vị cố vấn triều đình thì có lẽ bạn thầy là Marsilius giỏi hơn, nhưng trong vai trò phán quan thì thầy giỏi hơn. Và xin Chúa tha thứ, thầy còn giỏi hơn cả Bernard Gui nữa, vì Bernard không chú ý tìm ra kẻ thực có tội, mà chỉ lăm lăm muốn hoả thiêu kẻ bị buộc có tội. Ngược lại, thầy vô cùng thích thú khi gỡ được một nút thắt phức tạp bí hiểm. Có lẽ cũng vì trong thời kỳ thầy còn là triết gia, thầy đã hoài nghi không biết trần thế có trật tự hay không, nên nay thầy ưng bụng khi phát hiện được trong những sự việc trần gian, nếu không có một trật tự, thì ít ra cũng có một loạt các liên hệ trong những phạm trù nhỏ. Cuối cùng, có lẽ còn một lý do khác nữa: trong câu chuyện này, những điều còn vĩ đại và quan trọng hơn trận chiến giữa Giáo hoàng John và Vua Louis có thể đang bị đe doạ…
Tôi hoài nghi thốt lên: – Nhưng nó chỉ là một vụ ăn cắp và trả thù giữa các tu sĩ kém đạo đức thôi mà.
–         Chính vì một quyển sách cấm, Adso ạ. Một quyển sách cấm!

o0o

Bây giờ các tu sĩ đang đi ăn tối. Chúng tôi ăn được nửa bữa thì Cha Michael đến, ngồi xuống bên cạnh và báo tin Ubertino đã ra đi. Thầy William thở phào nhẹ nhõm.
Xong bữa, chúng tôi tránh mặt Tu viện trưởng, lúc ấy đang nói chuyện với Bernard, và lưu ý đi theo Benno. Huynh cười nửa miệng và cố lẩn ra cửa trước. Thầy William vượt tới trước và buộc Benno đi theo chúng tôi đến một góc nhà bếp. Thầy William hỏi:
–         Benno, quyển sách đâu?
–         Quyển sách nào?
–         Benno, chúng ta không ai ngốc cả. Tôi đang nói đến quyển sách mà hôm nay chúng tôi đã lùng kiếm trong phòng thí nghiệm của Severinus nhưng không nhận ra. Huynh đã nhận ra nó và trở lại lấy…
–         Sao Huynh biết tôi trở lại lấy?
–         Tôi nghĩ thế, và Huynh cũng nghĩ thế. Nó đâu?
–         Tôi không thể nói được.
–         Benno, nếu Huynh không chịu nói, tôi sẽ thưa với Tu viện trưởng.
Benno nói, giọng đạo đức:
–         Tu viện trưởng có ra lệnh tôi cũng không thể nói. Hôm nay, sau khi chúng ta gặp nhau, đã xảy ra một việc mà Huynh cần biết. Khi Berengar chết đi thì chẳng có phụ tá quản thư viện nào cả. Trưa nay, Malachi đã đề nghị tôi giữ chức đó. Mới cách đây một giờ đồng hồ, Tu viện Trưởng đã đồng ý. Và sáng ngày mai, tôi hy vọng sẽ có điều kiện biết được các bí mật của thư viện. – Phải, sáng hôm nay tôi đã lấy quyển sách, và giấu nó dưới nệm rơm trong phòng của tôi. Cuối cùng, Malachi đưa ra đề nghị tôi vừa nói với Huynh, và tôi đã hành động như một phụ tá quản thư viện phải làm: trao quyển sách lại cho Huynh ấy.
Tôi không ngăn được bèn buột miệng giận dữ nói:
–         Benno, hôm qua, hôm kia, chính Huynh… chính Huynh bảo lòng Huynh thôi thúc, cháy bỏng muốn biết, Huynh nói Huynh không muốn Thư viện che giấu các bí ẩn của nó nữa. Huynh nói rằng một học giả phải biết…
Benno im lặng, đỏ mặt, nhưng thầy William ngăn tôi lại. – Adso này, cách đây vài giờ đồng hồ, Benno ở phía bên kia. Bây giờ Huynh ấy là người canh giữ những bí mật mà Huynh ấy muốn biết, và trong thời gian canh giữ đó, Huynh ấy sẽ có thời giờ thong thả học chúng.
–         Nhưng còn những người khác nữa? Trước đây, Benno cũng nhân danh tất cả các người có học thức để nói kia mà.
–         Trước kia thôi. – Thầy nói, đoạn kéo tôi đi, bỏ mặc Benno hoang mang đứng đó.
Sau đó thầy nói với tôi: – Benno là nạn nhân của một dục vọng lớn, không giống dục vọng của Berengar hay của quản hầm. Cũng như nhiều học giả khác, Huynh ấy mang dục vọng thèm khát kiến thức. Kiến thức vì kiến thức thôi. Trước đây, bị cách ngăn không được tiếp cận với kiến thức, Huynh ấy khao khát muốn chiếm đoạt nó. Bây giờ, Huynh đã có nó rồi. Malachi biết người: Huynh ấy đã dùng phương tiện tốt nhất để thu lại quyển sách và khoá miệng Benno. Con sẽ hỏi thầy rằng quản lý một kho tri thức như thế thì có ích gì, nếu người ta đã thoả thuận không để mọi người khác tự do sử dụng nó. Nhưng chính vì thế mà thầy nói đến dục vọng. Sự khao khát của Roger Bacon muốn thu thập kiến thức không phải là dục vọng. Người muốn ứng dụng tài học của mình để làm thần dân của Chúa hạnh phúc hơn, nên không tìm kiếm kiến thức chỉ vì kiến thức. Dục vọng của Benno thuần tuý chỉ là lòng hiếu kỳ không thoả mãn được, niềm kiêu hãnh của kẻ trí thức, một phương cách khác để một tu sĩ chuyển hoá và làm dịu đi những đòi hỏi của xác thịt, dịu đi sự cuồng nhiệt có thể biến kẻ khác thành một chiến binh vì đức tin hoặc vì dị giáo. Không chỉ có dục vọng vì xác thịt. Bernard cũng đầy dục vọng, dục vọng của hắn là một dục vọng vì công lý đã bị bóp méo, và đồng dạng với dục vọng vì quyền lực. Giáo hoàng La Mã của chúng ta thì thèm khát của cải. Quản hầm thời trai trẻ mang dục vọng chứng thực, cải hoá và ăn năn, và dục vọng được chết. Còn dục vọng của Benno là vì sách. Cũng như mọi dục vọng khác, kể cả dục vọng của Onan – người đổ tràn hạt giống trên mặt đất, nó cằn cỗi và không giống như tình yêu, khác cả tình yêu xác thịt…
–         Con biết… – tôi nói một cách vô thức. Thầy William giả vờ không nghe. Tiếp tục các nhận định của mình, thầy nói: – Tình yêu chân chính muốn đối tượng mình yêu hưởng điều tốt đẹp.
–         Có thể Benno muốn các quyển sách của Huynh được tốt đẹp, và nghĩ rằng điều tốt đẹp của chúng là nhờ được cất giữ xa những bàn tay tham lam chăng?
–         Cuốn sách tốt đẹp là nhờ nó được đọc. Một quyển sách được tạo ra từ những dấu hiệu, nói lên các dấu hiệu khác, và các dấu hiệu này, đến lượt chúng sẽ nói lên sự vật. Không có ai đọc một quyển sách chỉ còn chứa đựng những dấu hiệu chẳng sản sinh được một khái niệm nào, đó là quyển sách câm. Thư viện này có lẽ được sinh ra để cứu những quyển sách nó cất giữ, nhưng bây giờ nó sống để chôn vùi chúng. Do đó, nó trở thành tội lỗi. Quản hầm nói: hắn đã phản bội. Benno cũng vậy. Huynh ấy đã phản bội. Ôi quả là một ngày đáng ghét, Adso ơi! Đầy những máu và sự hủy diệt. Thầy mệt rồi. Chúng ta hãy dự Kinh Chiều, rồi về nghỉ nhé!
Ra khỏi nhà bếp, chúng tôi chạm mặt Aymaro. Huynh hỏi, không biết tin đồn Malachi đã đề nghị Benno làm phụ tá cho mình có đúng không. Chúng tôi đành phải xác nhận, Aymaro vẫn nói giọng khinh khỉnh, chế giễu, như mọi lần:
–         Hôm nay, Malachi của chúng ta đã làm nhiều màn thật đẹp. Nếu công lý tồn tại, thì chính đêm nay, Quỉ sẽ đến rước hắn đi

KINH TỐI

Nghe một bài giảng
về sự xuất hiện của tên Phản Chúa, và Adso khám phá
sức mạnh của các tên riêng.

Trong khi tiến hành cuộc hỏi cung Quản hầm thì Kinh chiều diễn ra rất lộn xộn, các tu sinh tò mò không có thầy giám sát bèn lẻn đi, ghé mắt nhìn qua cửa sổ và các khe hở, để xem diễn tiến phiên toà trong nhà nguyện. Bây giờ cả cộng đồng mới tụ lại để cầu nguyện cho linh hồn tốt lành của Severinus. Mọi người đợi Tu viện trưởng lên tiếng và tự hỏi không biết Cha sẽ nói gì. Tuy nhiên, sau bài thuyết pháp theo nghi thức của Thánh Gregory, bài ca đôi, và ba khúc ca vịnh thường lệ, Tu viện trưởng quả có bước lên bục thật, nhưng chỉ để tuyên bố tối nay Cha sẽ yên lặng. Cha bảo đã có quá nhiều tai hoạ giáng xuống Tu viện, nên ngay cả một vị Cha tinh thần cũng không được phép lên nói với giọng trách móc, răn đe nữa. Bây giờ, mọi người, không trừ một ai, phải tự chất vấn lương tâm mình. Nhưng vì cần có người lên tiếng, nên Tu viện trưởng đề nghị người ban giáo huấn sẽ là vị tu sĩ cao niên nhất, gần kề nước Chúa nhất, người ít dính líu nhất vào các đam mê trần tục vốn đã sản sinh quá nhiều tội lỗi. Tính theo niên kỷ thì đáng lẽ già Alinardo phải lên tiếng, nhưng mọi người đều biết rõ tình trạng sức khoẻ suy yếu của tu sĩ đáng kính này. Kém tuổi sát sau Alinardo là Jorge. Thế nên Tu viện trưởng xin mời Huynh.
Chúng tôi nghe từ hướng Aymaro và các tu sĩ khác ngồi vẳng lại tiếng thì thầm. Tôi ngờ rằng Tu viện trưởng đã uỷ thác bài giảng cho Jorge mà không bàn bạc với Alinardo. Thầy William thầm thì giải thích rằng Tu viện trưởng quyết định không lên tiếng là rất khôn ngoan, vì bất kỳ lời nói nào của Cha sẽ bị Bernard và các tu sĩ khác từ Avignon đánh giá. Ngược lại già Jorge sẽ giới hạn bài giảng của mình trong các lời tiên tri huyền bí của Huynh như lệ thường, và họ sẽ không chú trọng chúng lắm. Thầy William tiếp:
–         Nhưng thầy sẽ rất chú ý, vì thầy không tin Jorge chịu lên tiếng mà không có một mục đích đã xác định chắc chắn.
Jorge được đỡ lên bục. Gương mặt Huynh rạng rỡ nhờ ngọn đèn ba chân soi sáng cả nhà thờ. Ánh lửa tô đậm bóng đen trùm đôi mắt Huynh, trông như hố sâu. Huynh cất tiếng:
–         Thưa các Huynh thân yêu, và tất cả các vị khách thương mến. Nếu quí vị chịu nghe lời nói của già  này… Như quí vị biết đấy, bốn cái chết đã giáng xuống tu viện chúng ta – không kể những tội lỗi xa xưa cũng như mới đây của sinh vật hèn kém nhất trong sinh linh – nhưng chúng không phải do thiên nhiên khắc nghiệt với nhịp điệu tàn nhẫn của nó đã an bài cuộc đời phàm tục của chúng ta từ thuở trong nôi đến ngày về với cát bụi. Mặc dù quí vị tràn ngập đau buồn, nhưng hẳn hết thảy đều tin rằng các biến cố tang tóc này, không liên quan gì đến linh hồn quí vị, vì ngoại trừ một người, tất cả quí vị đều vô tội. Và khi người này bị trừng trị, thì quí vị sẽ tiếp tục thương tiếc những người đã mất đi, và chắc chắn sẽ chẳng phải tống khứ lời buộc tội nào trước phiên toà của Chúa. Quí vị tin thế mà. Đồ điên! – Jorge thét lên rất khủng khiếp – Quí vị là những người điên, những thằng ngốc kênh kiệu! Kẻ giết người sẽ chịu tội trước Chúa, nhưng chỉ vì hắn đã nhận làm phương tiện chuyên chở các sắc lệnh của Chúa. Cũng như cần có kẻ phản bội Chúa để hoàn thành sự cứu rỗi huyền bí, thế nhưng Chúa lại cho phép nguyền rủa và thoá mạ kẻ đã phản bội Ngài. Như thế, trong những ngày này, có kẻ đã phạm tội, đã mang đến chết chóc và sự huỷ diệt, nhưng tôi nói cho quí vị biết, sự huỷ diệt này nếu Chúa không mong, thì ít ra cũng cho phép, để làm nhục lòng kiêu hãnh của chúng ta!
Jorge yên lặng, đưa đôi mắt trống hốc nhìn đám người dự lễ tựa như Huynh có thể nhìn thấy xúc cảm của họ, tựa như Huynh đã dùng tai nghe được sự thinh lặng và khiếp hãi khắp cùng. Huynh tiếp:
–         Trong cộng đồng này, đã có lúc con rắn kiêu hãnh nằm cuộn mình. Nhưng kiêu hãnh gì? Kiêu hãnh vì quyền lực ư, trong một tu viện tách biệt hẳn khỏi thế giới như thế này? Không, chắc chắn không. Kiêu hãnh vì giàu có ư? Thưa quí vị, trước khi thế giới vang lên những cuộc tranh luận về giàu, nghèo, từ cái thời của các bậc tiền bối chúng ta, chúng ta chưa bao giờ có gì cả, sự giàu có chân thực duy nhất của chúng ta là tuân theo Giáo luật, cầu nguyện và làm việc. Nhưng công việc của dòng chúng ta, đặc biệt là công việc trong tu viện này, cốt yếu là nghiên cứu học tập, và gìn giữ kiến thức. Tôi nói, gìn giữ chứ không tìm kiếm, vì đặc tính của kiến thức – như một điều thiêng liêng – là toàn vẹn, và nó đã được định nghĩa ngay từ đầu, bằng sự hoàn thiện của Chúa Lời mà tự nó diễn tả cho chính nó. Chúng ta chỉ việc tiếp tục trầm tư mặc tưởng, làm nó sáng đẹp và gìn giữ nó. Đó đã là và phải là nhiệm vụ của tu viện và Thư viện đẹp đẽ của chúng ta – không có nhiệm vụ nào khác. Người ta kể rằng, ngày nọ có một vua Hồi Phương Đông nổi lửa đốt Thư viện của một thành phố nổi tiếng, vinh quang và kiêu hãnh. Khi hàng ngàn quyển sách cháy rụi, Vua nói chúng nên biến mất đi; hoặc là chúng vô ích vì lặp lại những điều kinh Koran đã viết, hoặc là chúng độc hại vì phủ nhận quyển kinh mà bọn vô thần xem là thiêng liêng. Các học giả của giáo hội, cả chúng ta nữa, không suy luận theo lối đó. Tất cả những sách liên quan đến việc minh chứng và bình giảng Thánh kinh phải được gìn giữ, nhưng những sách phủ nhận Thánh kinh cũng không được tiêu huỷ. Như thế nhiệm vụ của dòng tu chúng ta qua bao thế kỷ và trọng trách của tu viện ta ngày nay là: tự hào về những chân lý chúng ta đã tuyên bố, cẩn trọng và khiêm tốn gìn giữ những lời thù nghịch với sự thật mà không được phép để chúng làm ô uế. Thưa quí vị, thế cái tội kiêu hãnh có thể cám dỗ một tu sĩ – học giả là gì? Đó là cái tội nghĩ rằng công việc của mình không phải là gìn giữ mà là tìm kiếm những kiến thức Chúa ban cho nhân loại. Đó là sự kiêu hãnh đã và đang rình rập nấp trong những bức tường này, và tôi muốn nói với kẻ đã và đang cố phá cái khằng niêm những quyển sách mà hắn không được phép đọc là, Chúa đã và sẽ tiếp tục trừng phạt sự kiêu hãnh đó, nếu nó không chịu hạ mình tuân phục, vì Chúa luôn luôn có ngay công cụ để trả thù.
Thầy William thầm thì: – Nghe không Adso? Già này biết nhiều hơn lão nói. Dù lão có nhúng tay vào việc này hay chăng, lão cũng biết và đang cảnh báo rằng, nếu một tu sĩ hiếu kỳ nào đó xâm phạm Thư viện, thì tu viện sẽ chẳng thể an lành.
Jorge, sau khi ngưng một lúc lâu, lại tiếp tục nói:
–         Nhưng chung qui, ai chính là biểu tượng của lòng kiêu hãnh này, trong đó những kẻ cao ngạo là hình ảnh minh hoạ, là sứ giả, là tòng phạm và là người cầm cờ của nó? Sự thật, ai đã và có lẽ đang hành động trong những bức tường này để cảnh cáo chúng ta thời điểm đã kề, và cũng để an ủi chúng ta, vì nếu thời điểm đã kề thì nỗi đớn đau hẳn sẽ không chịu đựng nổi, nhưng nó không phải là khôn cùng, vì chu kỳ vĩ đại của vũ trụ này sắp được hoàn tất? Ôi quí vị thừa biết rồi, nhưng sợ chẳng dám thốt nên lời, vì nó cũng chính là quí vị và quí vị e dè nó, nhưng dù quí vị có sợ thì tôi chẳng sợ gì cả, và tôi sẽ gọi lớn tên này ra để ruột gan quí vị kinh hoàng, quặn thắt lại, răng đánh lập cập và lưỡi đứt lìa, máu sẽ lạnh giá phủ chụp lên đôi mắt một mạng đen… Hắn chính là con thú hôi tanh, hắn chính là tên Phản Chúa!
Jorge ngừng một lúc lâu. Người nghe như chết lặng. Trong toàn giáo đường, vật duy nhất còn sống là ngọn lửa trên cái giá ba chân, nhưng ngay cả cái bóng của nó dường như cũng cóng lại. Tiếng động yếu ớt duy nhất nghe được là tiếng Jorge thở hổn hển khi già vuốt mồ hôi đọng trên trán. Rồi Huynh tiếp:
–         Có lẽ quí vị sẽ muốn nói với tôi: Không, hắn chưa đến đâu, dấu hiệu nào chỉ rằng hắn đang đến? Kẻ nào nói thế là thằng ngốc! Ồ, những dấu hiệu đó hiện trước mắt chúng ta ngày này qua ngày khác, trong đại giảng đường của thế giới và trong hình ảnh thu nhỏ hơn của tu viện, các thảm hoạ đã được báo trước. Tôi biết rõ quí vị nghe tôi nói đang tính toán xem người tôi nói đó có giống Giáo hoàng hay Vua Ý, Vua Pháp hay bất kỳ ai mà quí vị muốn, để quí vị có thể tuyên bố rằng hắn là kẻ thù của ta và ta thuộc về chính nghĩa. Nhưng tôi không ngây thơ thế đâu, tôi sẽ không chỉ ra cho quí vị một cá nhân nào cả. Khi tên Phản Chúa đến, hắn đến với mọi nơi, mọi người, và ai nấy đều là một bộ phận của hắn. Hắn sẽ có mặt trong những băng thảo khấu cướp phá nông thôn, thành thị. Người ta đã nói rằng, những người vợ trẻ mới cưới sẽ đẻ ra những đứa trẻ đã biết nói thành thạo, chúng sẽ bảo rằng thời điểm đã kề và xin hãy giết chúng đi. Nhưng chớ nên lùng kiếm trong những làng mạc bên dưới kia làm gì, những đứa-trẻ-quá-khôn-ngoan đã bị giết trong chính những bức tường này rồi! Và giống như những hài đồng tiên tri, chúng trông giống như những ông lão, có bốn chân, chúng là những hồn ma, và là những thai nhi còn trong bụng mẹ đã tiên tri và ban phép lạ. Tất cả đã được viết sẵn, quí vị có biết không? Người ta đã biết rằng trong số những người có chức quyền, trong nhân dân và giáo hội, sẽ xảy ra nhiều biến động, những tên chăn chiên xấu xa sẽ trỗi dậy, trở nên sa đoạ, đáng tởm, tham lam, ham vui, tham lợi, khoái nói nhảm, khoe khoang, kiêu hãnh, kiêu ngạo, lao vào hố dục vọng, tìm hư danh, chúng là kẻ thù của Phúc âm, sẵn sàng từ bỏ con đường chính trực và khinh bỉ những lời thành thật, thù ghét mọi lời thành kính, không bao giờ ăn năn hối lỗi, do đó, chúng sẽ gieo rắc trong mọi người sự ngờ vực, huynh đệ tương tàn, sự tàn ác, tàn nhẫn, đố kỵ, lãnh đạm, cướp bóc, chè chén, vô độ, đê hèn, nhục dục, lang chạ, và tất cả các thói hư tật xấu khác. Sự trìu mến, khiêm tốn, yêu chuộng hoà bình, cơ nghèo, tính thương cảm, dễ mủi lòng sẽ biến đi… Đấy, tất cả những người đang hiện diện, các tu sĩ trong tu viện này và những vị khách uy quyền từ bên ngoài đến, quí vị không nhận ra chính mình ư?
Khi Jorge ngưng nói thì người ta nghe có tiếng sột soạt. Đó là tiếng Hồng Y Bertrand trở mình trên ghế. Tôi nghĩ, dẫu sao Jorge cũng tỏ ra là một nhà thuyết giảng đại tài, khi lão đập những người anh em thì cũng chẳng tha gì mấy vị khách. Ước gì tôi biết trong đầu Bernard hay những tên phì nộn từ Avignon đang nghĩ gì lúc ấy.
Jorge hét ầm ầm lên:
–         Đến lúc đó, khắp nơi sẽ hiện ra cảnh xấu xa và tuyệt vọng. Tên Phản Chúa sẽ hạ phương Tây và tiêu diệt những đường mua bán. Tay nó cầm gươm và ngọn lửa tàn phá, ngọn lửa này sẽ bùng lên giận dữ: sức mạnh của hắn là sự báng bổ, tay hắn là sự lừa lọc, bàn tay mặt sẽ tàn phá, bàn tay trái mang bóng đen. Người ta nhận ra hắn nhờ những nét sau đây: đầu hắn bốc lửa, con mắt đỏ như máu, mắt trái có hai con ngươi xanh như mắt thú, đôi mày trắng bạc, môi dưới sưng phù, mắt cá lỏng lẻo, đôi chân to, ngón cái nát nhừ và kéo dài ra!
–         Dường như là chân dung của chính lão ấy… – Thầy William vừa cười gằn vừa thì thầm. Đó là một lời nhận xét độc, nhưng tôi thầm cảm ơn thầy đã lên tiếng, vì tóc tai tôi bắt đầu dựng đứng. Tôi không nhịn cười được, má căng ra và đôi môi mím chặt bật ra một tiếng. Trong sự yên lặng tiếp theo lời nói của lão, tiếng ấy nghe rất rõ, nhưng may thay mọi người tưởng ai đó đang ho, khóc, hay rùng mình, và mọi người đều nghĩ đúng cả. Jorge tiếp:
–         Đến lúc đó trần gian sẽ biến thành khối hỗn mang, con cái sẽ nổi lên chống lại cha mẹ, vợ mưu hại chồng, chồng kiện cáo vợ, chủ bất nhân với tớ, tớ bất tuân lệnh thày, chẳng ai kính trọng người già, bọn trẻ đòi cai trị, lao động là việc vô bổ cho mọi người, khắp nơi người ta ca ngợi sự xấu xa đồi truỵ, tự do hành động. Và sau đó cưỡng dâm, ngoại tình, chứng gian, tội lỗi trái luân thường đạo lý sẽ tiếp nối dâng lên, rồi bệnh tật, nịnh hót, bùa chú, xác bay sẽ hiện trên bầu trời, trong đám những con chiên ngoan đạo sẽ nổi lên những tiên tri giả hiệu, Tông đồ giả danh, kẻ phóng đãng, lừa đảo, xảo quyệt, tà dâm, bọn lợi dụng, nói láo, giả mạo. Những tên chăn chiên sẽ thành chó sói, linh mục nói láo, tu sĩ khoái trần tục, bần nông không cần địa chủ, kẻ có quyền thì không có lòng khoan dung, kẻ chính trực sẽ làm chứng cho bất công. Động đất sẽ làm rung chuyển mọi đô thị, bệnh dịch hoành hành khắp nơi, giông bão sẽ nhổ bật mặt đất, đồng ruộng sẽ bị ô nhiễm, biển tiết ra dung dịch đen, những kỳ quan mới lạ sẽ hiện ra trên mặt trăng, tinh tú bỏ quĩ đạo, các tinh tú vô danh khác sẽ mọc tua tủa trên bầu trời, tuyết sẽ rơi vào mùa hè, và mùa đông trời sẽ oi nồng. Và tận thế sẽ đến, tận thế sẽ đến… Vào giờ thứ ba của ngày thứ nhất, trên bầu trời vang lên một giọng nói mãnh liệt và vĩ đại, một đám mây tím từ phương bắc bay đến, theo sau là sấm chớp, trên mặt đất mưa máu sẽ rơi. Ngày thứ hai quả đất sẽ bị giật phăng ra khỏi vị trí của nó, khói của một ngọn lửa vĩ đại sẽ dâng lên qua khỏi cổng thiên đàng. Ngày thứ ba, những hố thẳm của đất sẽ rung động khắp bốn phương trời, đỉnh vòm trời sẽ mở rộng, không trung dày đặc cột khói, và mùi hôi tanh của lưu huỳnh bốc lên đến giờ thứ mười. Sáng sớm ngày thứ tư, hố thẳm sẽ hoá lỏng và nổ bùng, nhà cửa sẽ sụp đổ. Vào giờ thứ sáu của ngày thứ năm, ánh sáng và mặt trời sẽ bị tiêu diệt, khắp mặt đất sẽ tối đen cho đến chiều, và trăng sao thôi ló dạng. Vào giờ thứ tư của ngày thứ sáu, vòm trời sẽ nứt ra từ đông sang tây, và các thiên thần từ trên trời có thể nhìn xuyên qua kẽ nứt xuống đất, và người trên mặt đất có thể nhìn thấy thiên thần trên trời nhòm xuống. Rồi mọi người sẽ ẩn nấp vào núi non để tránh cái nhìn của những thiên thần chính trực. Vào ngày thứ bảy, Chúa sẽ đến bằng ánh sáng của Cha Ngài, và lúc ấy sẽ có sự phán xét cho những người chính trực và hậu duệ của họ, họ được ban ơn phước vĩnh cửu cho cả xác lẫn hồn. Nhưng đây không phải là điều chúng ta suy ngẫm chiều nay, hỡi các Sư Huynh kiêu hãnh! Những kẻ phạm tội sẽ không nhìn thấy ánh bình minh của ngày thứ tám, khi giọng nói dịu dàng và ngọt ngào vang lên từ Phương Đông, chính giữa thiên đàng, và người ta thấy vị thiên thần chỉ huy tất cả các thiên thần khác cùng tiến đến với Ngài, ngồi trên cỗ xe bằng mây trời, lòng tràn đầy niềm vui, bay qua không gian để giải phóng những người được ân phước có đức tin, và mọi người sẽ hoan hỉ vì sự huỷ diệt thế giới này sẽ được thực hiện! Nhưng tối nay, điều này không làm chúng ta thích thú một cách kiêu hãnh. Ngược lại, chúng ta sẽ suy ngẫm về lời mà Chúa sẽ phán để xua đuổi những kẻ không được ơn cứu rỗi. Ngươi, kẻ có tội, hãy tránh xa ta để đi vào ngọn lửa vĩnh cửu đã được Quỉ sứ và bầy tôi của nó chuẩn bị cho ngươi. Chính người đã tạo ra nó thì bây giờ hãy hưởng nó đi. Tránh xa ta ra, đi vào bóng đêm vĩnh cửu, và vào ngọn lửa không bao giờ tắt! Ta tạo ra ngươi, nhưng ngươi lại hoá thành đồ đệ của kẻ khác! Ngươi thành tôi tớ của một Chúa khác, cút đi và ở với nó trong bóng tối, hắn là con rắn luôn ngọ nguậy, miệng lúc nào cũng rít lên. Ta đã ban cho ngươi đôi tai để nghe Thánh thư, nhưng ngươi lại lắng nghe lời lẽ của bọn đa thần, ta cho ngươi cái miệng để vinh danh Thượng đế, nhưng ngươi lại sử dụng nó để nói những lời láo toét của thi sĩ và hỏi những câu đố của những thằng hề! Ta ban cho ngươi đôi mắt để nhìn ánh sáng, nhưng ngươi lại nhìn trộm vào bóng đêm. Ta là một người phán xét nhân ái, nhưng chính trực. Ai xứng đáng thì ta sẽ ban ân, ta có thể khoan hồng cho ngươi, nhưng ta thấy trong lọ của ngươi không có một giọt dầu. Ta có thể bị buộc phải động lòng từ tâm, nhưng đèn của ngươi không sạch. Tránh xa ta ra… Chúa đã nói như thế đấy. Và họ… và có thể là chúng ta đây… sẽ đắm chìm vào sự dày vò vĩnh cửu. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh thần.
–         Amen, – mọi người đồng thanh đáp.

o0o

Không một tiếng rầm rì, các tu sĩ nối theo nhau về phòng của mình. Chẳng còn muốn nói chuyện với nhau nữa. Các tu sĩ dòng Khất thực và sứ giả của Giáo hoàng biến đi tìm chỗ yên tịnh nghỉ ngơi. Lòng tôi nặng nề.
Thầy William vừa leo cầu thang khu hành hương, vừa nói: – Adso, đi ngủ đi. Đêm nay không đi thăm thú được đâu. Bernard Gui có thể muốn báo hiệu tận thế bằng xác của chúng ta đấy. Sáng mai chúng ta phải cố dự Kinh Sớm, vì ngay sau đó Cha Michael và các tu sĩ dòng Khất thực sẽ ra đi.
Tôi yếu ớt hỏi: – Còn Bernard và các tù nhân cũng ra đi luôn chứ?
–         Hắn chắc chẳng còn việc gì để làm ở đây đâu. Hắn mong sẽ đến Avignon trước Cha Michael, làm thế nào để sự xuất hiện của Cha trùng với phiên toà xử quản hầm, một tu sĩ Khất thực dị giáo và sát nhân. Giàn hoả thiêu quản hầm sẽ soi sáng buổi gặp gỡ đầu tiên của Cha Michael với Giáo Hoàng như một ngọn đuốc làm lành.
–         Còn Salvatore và… cô gái sẽ ra sao?
–         Salvatore sẽ đi với quản hầm, vì gã sẽ phải làm chứng tại toà. Có lẽ Bernard sẽ tha mạng gã để trả công. Có thể hắn sẽ để gã trốn thoát, rồi ra lệnh giết sau, hoặc cũng có thể hắn sẽ tha cho gã đi thực vì Bernard đâu có chú ý gì đến một con người như Salvatore. Ai mà biết được? Có lẽ rồi Salvatore sẽ trở thành một tên cướp khát máu trong một cánh rừng ở Languedoc…
–         Còn cô gái?
–         Thầy đã bảo rồi: Cô ta sẽ bị thiêu sống. Nhưng cô ta sẽ bị thiêu trước, hay dọc trên đường đi, để khai sáng cho một ngôi làng nào đó bên bờ biển. Thầy nghe nói rằng Bernard sẽ gặp bạn đồng nghiệp của hắn là Jacques Fournier, và việc ném một ả phù thuỷ xinh đẹp lên giàn hoả sẽ tăng uy tín và danh tiếng của cả hai lên…
Tôi thốt lên: – Thế không làm gì được để cứu họ à? Tu viện trưởng không can thiệp được hay sao?
–         Can thiệp cho ai? Cho quản hầm, kẻ đã nhận tội à? Cho tên khốn kiếp Salvatore? Hay con đang nghĩ đến cô gái?
Tôi mạnh dạn nói: – Nếu con nghĩ thế thì đã sao? Dẫu sao, trong ba người, chỉ mình cô ấy là thực sự vô tội, thầy biết cô ấy không phải là phù thuỷ…
– Con nghĩ rằng Tu viện trưởng sẽ đánh đổi chút ít uy tín còn lại để can thiệp cho một con phù thuỷ, sau những biến cố đã xảy ra như vừa rồi sao?
–         Nhưng Cha nhận trách nhiệm về việc Ubertino trốn thoát mà!
–         Ubertino là một trong các tu sĩ của Cha và không bị tố vì tội gì cả. Hơn nữa con nói cái gì bá láp vậy? Ubertino là một người quan trọng, Bernard chỉ có thể đâm sau lưng Cha ấy mà thôi.
–         Thế thì quản hầm có lý. Những người phàm tục luôn luôn phải trả giá cho tất cả mọi người, thậm chí cho cả những người lên tiếng bênh vực họ, như Ubertino và Michael, những người đã dùng những lời kêu gọi sám hối để xúi họ nổi dậy!
Tôi tuyệt vọng đến nỗi nghĩ rằng chính cô gái cũng thuộc dòng Anh em nghèo khó, bị hấp dẫn bởi hình ảnh huyền diệu của Ubertino mà quên rằng cô chỉ là một gái quê, trả giá cho một thứ chẳng liên quan gì đến mình.
Thầy William buồn bã đáp:
–         Như thế đấy. Còn nếu con thực sự muốn đi tìm một tia sáng công lý thì thầy bảo cho con biết: một ngày kia, những con chó lớn là Giáo hoàng và Nhà vua, để giải hoà với nhau, sẽ bước qua xác của những con chó nhỏ cứ mãi cắn xé nhau khi thừa hành nhiệm vụ. Và Michael và Ubertino sẽ bị đối xử như cách cô gái của con hôm nay vậy.
Bây giờ tôi biết ngày đó thầy William đang tiên tri, hay đúng hơn, đang suy diễn theo tam đoạn luận, trên cơ sở nguyên lý của triết học tự nhiên. Nhưng lúc đó, lời tiên tri và lối suy luận của thầy chẳng an ủi tôi được chút nào. Điều chắc chắn là cô gái sẽ bị thiêu sống. Tôi thấy mình có trách nhiệm, vì dường như cô gái cũng sẽ lên giàn hoả để chuộc cái tội mà tôi đã phạm với nàng.
Tôi xấu hổ khóc oà và chạy về phòng, suốt đêm tôi nhai rơm và nức nở mãi, vì tôi chẳng được phép thương tiếc và gọi tên người yêu của mình như trong những tiểu thuyết lãng mạn hào hoa mà tôi và các bạn đồng môn đã đọc ở Melk.
Đó là tình yêu trần gian duy nhất trong đời tôi, mà lúc đó và mãi mãi về sau tôi chẳng thể gọi tên được.

KINH TỐI

Nghe một bài giảng
về sự xuất hiện của tên Phản Chúa, và Adso khám phá
sức mạnh của các tên riêng.

Trong khi tiến hành cuộc hỏi cung Quản hầm thì Kinh chiều diễn ra rất lộn xộn, các tu sinh tò mò không có thầy giám sát bèn lẻn đi, ghé mắt nhìn qua cửa sổ và các khe hở, để xem diễn tiến phiên toà trong nhà nguyện. Bây giờ cả cộng đồng mới tụ lại để cầu nguyện cho linh hồn tốt lành của Severinus. Mọi người đợi Tu viện trưởng lên tiếng và tự hỏi không biết Cha sẽ nói gì. Tuy nhiên, sau bài thuyết pháp theo nghi thức của Thánh Gregory, bài ca đôi, và ba khúc ca vịnh thường lệ, Tu viện trưởng quả có bước lên bục thật, nhưng chỉ để tuyên bố tối nay Cha sẽ yên lặng. Cha bảo đã có quá nhiều tai hoạ giáng xuống Tu viện, nên ngay cả một vị Cha tinh thần cũng không được phép lên nói với giọng trách móc, răn đe nữa. Bây giờ, mọi người, không trừ một ai, phải tự chất vấn lương tâm mình. Nhưng vì cần có người lên tiếng, nên Tu viện trưởng đề nghị người ban giáo huấn sẽ là vị tu sĩ cao niên nhất, gần kề nước Chúa nhất, người ít dính líu nhất vào các đam mê trần tục vốn đã sản sinh quá nhiều tội lỗi. Tính theo niên kỷ thì đáng lẽ già Alinardo phải lên tiếng, nhưng mọi người đều biết rõ tình trạng sức khoẻ suy yếu của tu sĩ đáng kính này. Kém tuổi sát sau Alinardo là Jorge. Thế nên Tu viện trưởng xin mời Huynh.
Chúng tôi nghe từ hướng Aymaro và các tu sĩ khác ngồi vẳng lại tiếng thì thầm. Tôi ngờ rằng Tu viện trưởng đã uỷ thác bài giảng cho Jorge mà không bàn bạc với Alinardo. Thầy William thầm thì giải thích rằng Tu viện trưởng quyết định không lên tiếng là rất khôn ngoan, vì bất kỳ lời nói nào của Cha sẽ bị Bernard và các tu sĩ khác từ Avignon đánh giá. Ngược lại già Jorge sẽ giới hạn bài giảng của mình trong các lời tiên tri huyền bí của Huynh như lệ thường, và họ sẽ không chú trọng chúng lắm. Thầy William tiếp:
–         Nhưng thầy sẽ rất chú ý, vì thầy không tin Jorge chịu lên tiếng mà không có một mục đích đã xác định chắc chắn.
Jorge được đỡ lên bục. Gương mặt Huynh rạng rỡ nhờ ngọn đèn ba chân soi sáng cả nhà thờ. Ánh lửa tô đậm bóng đen trùm đôi mắt Huynh, trông như hố sâu. Huynh cất tiếng:
–         Thưa các Huynh thân yêu, và tất cả các vị khách thương mến. Nếu quí vị chịu nghe lời nói của già  này… Như quí vị biết đấy, bốn cái chết đã giáng xuống tu viện chúng ta – không kể những tội lỗi xa xưa cũng như mới đây của sinh vật hèn kém nhất trong sinh linh – nhưng chúng không phải do thiên nhiên khắc nghiệt với nhịp điệu tàn nhẫn của nó đã an bài cuộc đời phàm tục của chúng ta từ thuở trong nôi đến ngày về với cát bụi. Mặc dù quí vị tràn ngập đau buồn, nhưng hẳn hết thảy đều tin rằng các biến cố tang tóc này, không liên quan gì đến linh hồn quí vị, vì ngoại trừ một người, tất cả quí vị đều vô tội. Và khi người này bị trừng trị, thì quí vị sẽ tiếp tục thương tiếc những người đã mất đi, và chắc chắn sẽ chẳng phải tống khứ lời buộc tội nào trước phiên toà của Chúa. Quí vị tin thế mà. Đồ điên! – Jorge thét lên rất khủng khiếp – Quí vị là những người điên, những thằng ngốc kênh kiệu! Kẻ giết người sẽ chịu tội trước Chúa, nhưng chỉ vì hắn đã nhận làm phương tiện chuyên chở các sắc lệnh của Chúa. Cũng như cần có kẻ phản bội Chúa để hoàn thành sự cứu rỗi huyền bí, thế nhưng Chúa lại cho phép nguyền rủa và thoá mạ kẻ đã phản bội Ngài. Như thế, trong những ngày này, có kẻ đã phạm tội, đã mang đến chết chóc và sự huỷ diệt, nhưng tôi nói cho quí vị biết, sự huỷ diệt này nếu Chúa không mong, thì ít ra cũng cho phép, để làm nhục lòng kiêu hãnh của chúng ta!
Jorge yên lặng, đưa đôi mắt trống hốc nhìn đám người dự lễ tựa như Huynh có thể nhìn thấy xúc cảm của họ, tựa như Huynh đã dùng tai nghe được sự thinh lặng và khiếp hãi khắp cùng. Huynh tiếp:
–         Trong cộng đồng này, đã có lúc con rắn kiêu hãnh nằm cuộn mình. Nhưng kiêu hãnh gì? Kiêu hãnh vì quyền lực ư, trong một tu viện tách biệt hẳn khỏi thế giới như thế này? Không, chắc chắn không. Kiêu hãnh vì giàu có ư? Thưa quí vị, trước khi thế giới vang lên những cuộc tranh luận về giàu, nghèo, từ cái thời của các bậc tiền bối chúng ta, chúng ta chưa bao giờ có gì cả, sự giàu có chân thực duy nhất của chúng ta là tuân theo Giáo luật, cầu nguyện và làm việc. Nhưng công việc của dòng chúng ta, đặc biệt là công việc trong tu viện này, cốt yếu là nghiên cứu học tập, và gìn giữ kiến thức. Tôi nói, gìn giữ chứ không tìm kiếm, vì đặc tính của kiến thức – như một điều thiêng liêng – là toàn vẹn, và nó đã được định nghĩa ngay từ đầu, bằng sự hoàn thiện của Chúa Lời mà tự nó diễn tả cho chính nó. Chúng ta chỉ việc tiếp tục trầm tư mặc tưởng, làm nó sáng đẹp và gìn giữ nó. Đó đã là và phải là nhiệm vụ của tu viện và Thư viện đẹp đẽ của chúng ta – không có nhiệm vụ nào khác. Người ta kể rằng, ngày nọ có một vua Hồi Phương Đông nổi lửa đốt Thư viện của một thành phố nổi tiếng, vinh quang và kiêu hãnh. Khi hàng ngàn quyển sách cháy rụi, Vua nói chúng nên biến mất đi; hoặc là chúng vô ích vì lặp lại những điều kinh Koran đã viết, hoặc là chúng độc hại vì phủ nhận quyển kinh mà bọn vô thần xem là thiêng liêng. Các học giả của giáo hội, cả chúng ta nữa, không suy luận theo lối đó. Tất cả những sách liên quan đến việc minh chứng và bình giảng Thánh kinh phải được gìn giữ, nhưng những sách phủ nhận Thánh kinh cũng không được tiêu huỷ. Như thế nhiệm vụ của dòng tu chúng ta qua bao thế kỷ và trọng trách của tu viện ta ngày nay là: tự hào về những chân lý chúng ta đã tuyên bố, cẩn trọng và khiêm tốn gìn giữ những lời thù nghịch với sự thật mà không được phép để chúng làm ô uế. Thưa quí vị, thế cái tội kiêu hãnh có thể cám dỗ một tu sĩ – học giả là gì? Đó là cái tội nghĩ rằng công việc của mình không phải là gìn giữ mà là tìm kiếm những kiến thức Chúa ban cho nhân loại. Đó là sự kiêu hãnh đã và đang rình rập nấp trong những bức tường này, và tôi muốn nói với kẻ đã và đang cố phá cái khằng niêm những quyển sách mà hắn không được phép đọc là, Chúa đã và sẽ tiếp tục trừng phạt sự kiêu hãnh đó, nếu nó không chịu hạ mình tuân phục, vì Chúa luôn luôn có ngay công cụ để trả thù.
Thầy William thầm thì: – Nghe không Adso? Già này biết nhiều hơn lão nói. Dù lão có nhúng tay vào việc này hay chăng, lão cũng biết và đang cảnh báo rằng, nếu một tu sĩ hiếu kỳ nào đó xâm phạm Thư viện, thì tu viện sẽ chẳng thể an lành.
Jorge, sau khi ngưng một lúc lâu, lại tiếp tục nói:
–         Nhưng chung qui, ai chính là biểu tượng của lòng kiêu hãnh này, trong đó những kẻ cao ngạo là hình ảnh minh hoạ, là sứ giả, là tòng phạm và là người cầm cờ của nó? Sự thật, ai đã và có lẽ đang hành động trong những bức tường này để cảnh cáo chúng ta thời điểm đã kề, và cũng để an ủi chúng ta, vì nếu thời điểm đã kề thì nỗi đớn đau hẳn sẽ không chịu đựng nổi, nhưng nó không phải là khôn cùng, vì chu kỳ vĩ đại của vũ trụ này sắp được hoàn tất? Ôi quí vị thừa biết rồi, nhưng sợ chẳng dám thốt nên lời, vì nó cũng chính là quí vị và quí vị e dè nó, nhưng dù quí vị có sợ thì tôi chẳng sợ gì cả, và tôi sẽ gọi lớn tên này ra để ruột gan quí vị kinh hoàng, quặn thắt lại, răng đánh lập cập và lưỡi đứt lìa, máu sẽ lạnh giá phủ chụp lên đôi mắt một mạng đen… Hắn chính là con thú hôi tanh, hắn chính là tên Phản Chúa!
Jorge ngừng một lúc lâu. Người nghe như chết lặng. Trong toàn giáo đường, vật duy nhất còn sống là ngọn lửa trên cái giá ba chân, nhưng ngay cả cái bóng của nó dường như cũng cóng lại. Tiếng động yếu ớt duy nhất nghe được là tiếng Jorge thở hổn hển khi già vuốt mồ hôi đọng trên trán. Rồi Huynh tiếp:
–         Có lẽ quí vị sẽ muốn nói với tôi: Không, hắn chưa đến đâu, dấu hiệu nào chỉ rằng hắn đang đến? Kẻ nào nói thế là thằng ngốc! Ồ, những dấu hiệu đó hiện trước mắt chúng ta ngày này qua ngày khác, trong đại giảng đường của thế giới và trong hình ảnh thu nhỏ hơn của tu viện, các thảm hoạ đã được báo trước. Tôi biết rõ quí vị nghe tôi nói đang tính toán xem người tôi nói đó có giống Giáo hoàng hay Vua Ý, Vua Pháp hay bất kỳ ai mà quí vị muốn, để quí vị có thể tuyên bố rằng hắn là kẻ thù của ta và ta thuộc về chính nghĩa. Nhưng tôi không ngây thơ thế đâu, tôi sẽ không chỉ ra cho quí vị một cá nhân nào cả. Khi tên Phản Chúa đến, hắn đến với mọi nơi, mọi người, và ai nấy đều là một bộ phận của hắn. Hắn sẽ có mặt trong những băng thảo khấu cướp phá nông thôn, thành thị. Người ta đã nói rằng, những người vợ trẻ mới cưới sẽ đẻ ra những đứa trẻ đã biết nói thành thạo, chúng sẽ bảo rằng thời điểm đã kề và xin hãy giết chúng đi. Nhưng chớ nên lùng kiếm trong những làng mạc bên dưới kia làm gì, những đứa-trẻ-quá-khôn-ngoan đã bị giết trong chính những bức tường này rồi! Và giống như những hài đồng tiên tri, chúng trông giống như những ông lão, có bốn chân, chúng là những hồn ma, và là những thai nhi còn trong bụng mẹ đã tiên tri và ban phép lạ. Tất cả đã được viết sẵn, quí vị có biết không? Người ta đã biết rằng trong số những người có chức quyền, trong nhân dân và giáo hội, sẽ xảy ra nhiều biến động, những tên chăn chiên xấu xa sẽ trỗi dậy, trở nên sa đoạ, đáng tởm, tham lam, ham vui, tham lợi, khoái nói nhảm, khoe khoang, kiêu hãnh, kiêu ngạo, lao vào hố dục vọng, tìm hư danh, chúng là kẻ thù của Phúc âm, sẵn sàng từ bỏ con đường chính trực và khinh bỉ những lời thành thật, thù ghét mọi lời thành kính, không bao giờ ăn năn hối lỗi, do đó, chúng sẽ gieo rắc trong mọi người sự ngờ vực, huynh đệ tương tàn, sự tàn ác, tàn nhẫn, đố kỵ, lãnh đạm, cướp bóc, chè chén, vô độ, đê hèn, nhục dục, lang chạ, và tất cả các thói hư tật xấu khác. Sự trìu mến, khiêm tốn, yêu chuộng hoà bình, cơ nghèo, tính thương cảm, dễ mủi lòng sẽ biến đi… Đấy, tất cả những người đang hiện diện, các tu sĩ trong tu viện này và những vị khách uy quyền từ bên ngoài đến, quí vị không nhận ra chính mình ư?
Khi Jorge ngưng nói thì người ta nghe có tiếng sột soạt. Đó là tiếng Hồng Y Bertrand trở mình trên ghế. Tôi nghĩ, dẫu sao Jorge cũng tỏ ra là một nhà thuyết giảng đại tài, khi lão đập những người anh em thì cũng chẳng tha gì mấy vị khách. Ước gì tôi biết trong đầu Bernard hay những tên phì nộn từ Avignon đang nghĩ gì lúc ấy.
Jorge hét ầm ầm lên:
–         Đến lúc đó, khắp nơi sẽ hiện ra cảnh xấu xa và tuyệt vọng. Tên Phản Chúa sẽ hạ phương Tây và tiêu diệt những đường mua bán. Tay nó cầm gươm và ngọn lửa tàn phá, ngọn lửa này sẽ bùng lên giận dữ: sức mạnh của hắn là sự báng bổ, tay hắn là sự lừa lọc, bàn tay mặt sẽ tàn phá, bàn tay trái mang bóng đen. Người ta nhận ra hắn nhờ những nét sau đây: đầu hắn bốc lửa, con mắt đỏ như máu, mắt trái có hai con ngươi xanh như mắt thú, đôi mày trắng bạc, môi dưới sưng phù, mắt cá lỏng lẻo, đôi chân to, ngón cái nát nhừ và kéo dài ra!
–         Dường như là chân dung của chính lão ấy… – Thầy William vừa cười gằn vừa thì thầm. Đó là một lời nhận xét độc, nhưng tôi thầm cảm ơn thầy đã lên tiếng, vì tóc tai tôi bắt đầu dựng đứng. Tôi không nhịn cười được, má căng ra và đôi môi mím chặt bật ra một tiếng. Trong sự yên lặng tiếp theo lời nói của lão, tiếng ấy nghe rất rõ, nhưng may thay mọi người tưởng ai đó đang ho, khóc, hay rùng mình, và mọi người đều nghĩ đúng cả. Jorge tiếp:
–         Đến lúc đó trần gian sẽ biến thành khối hỗn mang, con cái sẽ nổi lên chống lại cha mẹ, vợ mưu hại chồng, chồng kiện cáo vợ, chủ bất nhân với tớ, tớ bất tuân lệnh thày, chẳng ai kính trọng người già, bọn trẻ đòi cai trị, lao động là việc vô bổ cho mọi người, khắp nơi người ta ca ngợi sự xấu xa đồi truỵ, tự do hành động. Và sau đó cưỡng dâm, ngoại tình, chứng gian, tội lỗi trái luân thường đạo lý sẽ tiếp nối dâng lên, rồi bệnh tật, nịnh hót, bùa chú, xác bay sẽ hiện trên bầu trời, trong đám những con chiên ngoan đạo sẽ nổi lên những tiên tri giả hiệu, Tông đồ giả danh, kẻ phóng đãng, lừa đảo, xảo quyệt, tà dâm, bọn lợi dụng, nói láo, giả mạo. Những tên chăn chiên sẽ thành chó sói, linh mục nói láo, tu sĩ khoái trần tục, bần nông không cần địa chủ, kẻ có quyền thì không có lòng khoan dung, kẻ chính trực sẽ làm chứng cho bất công. Động đất sẽ làm rung chuyển mọi đô thị, bệnh dịch hoành hành khắp nơi, giông bão sẽ nhổ bật mặt đất, đồng ruộng sẽ bị ô nhiễm, biển tiết ra dung dịch đen, những kỳ quan mới lạ sẽ hiện ra trên mặt trăng, tinh tú bỏ quĩ đạo, các tinh tú vô danh khác sẽ mọc tua tủa trên bầu trời, tuyết sẽ rơi vào mùa hè, và mùa đông trời sẽ oi nồng. Và tận thế sẽ đến, tận thế sẽ đến… Vào giờ thứ ba của ngày thứ nhất, trên bầu trời vang lên một giọng nói mãnh liệt và vĩ đại, một đám mây tím từ phương bắc bay đến, theo sau là sấm chớp, trên mặt đất mưa máu sẽ rơi. Ngày thứ hai quả đất sẽ bị giật phăng ra khỏi vị trí của nó, khói của một ngọn lửa vĩ đại sẽ dâng lên qua khỏi cổng thiên đàng. Ngày thứ ba, những hố thẳm của đất sẽ rung động khắp bốn phương trời, đỉnh vòm trời sẽ mở rộng, không trung dày đặc cột khói, và mùi hôi tanh của lưu huỳnh bốc lên đến giờ thứ mười. Sáng sớm ngày thứ tư, hố thẳm sẽ hoá lỏng và nổ bùng, nhà cửa sẽ sụp đổ. Vào giờ thứ sáu của ngày thứ năm, ánh sáng và mặt trời sẽ bị tiêu diệt, khắp mặt đất sẽ tối đen cho đến chiều, và trăng sao thôi ló dạng. Vào giờ thứ tư của ngày thứ sáu, vòm trời sẽ nứt ra từ đông sang tây, và các thiên thần từ trên trời có thể nhìn xuyên qua kẽ nứt xuống đất, và người trên mặt đất có thể nhìn thấy thiên thần trên trời nhòm xuống. Rồi mọi người sẽ ẩn nấp vào núi non để tránh cái nhìn của những thiên thần chính trực. Vào ngày thứ bảy, Chúa sẽ đến bằng ánh sáng của Cha Ngài, và lúc ấy sẽ có sự phán xét cho những người chính trực và hậu duệ của họ, họ được ban ơn phước vĩnh cửu cho cả xác lẫn hồn. Nhưng đây không phải là điều chúng ta suy ngẫm chiều nay, hỡi các Sư Huynh kiêu hãnh! Những kẻ phạm tội sẽ không nhìn thấy ánh bình minh của ngày thứ tám, khi giọng nói dịu dàng và ngọt ngào vang lên từ Phương Đông, chính giữa thiên đàng, và người ta thấy vị thiên thần chỉ huy tất cả các thiên thần khác cùng tiến đến với Ngài, ngồi trên cỗ xe bằng mây trời, lòng tràn đầy niềm vui, bay qua không gian để giải phóng những người được ân phước có đức tin, và mọi người sẽ hoan hỉ vì sự huỷ diệt thế giới này sẽ được thực hiện! Nhưng tối nay, điều này không làm chúng ta thích thú một cách kiêu hãnh. Ngược lại, chúng ta sẽ suy ngẫm về lời mà Chúa sẽ phán để xua đuổi những kẻ không được ơn cứu rỗi. Ngươi, kẻ có tội, hãy tránh xa ta để đi vào ngọn lửa vĩnh cửu đã được Quỉ sứ và bầy tôi của nó chuẩn bị cho ngươi. Chính người đã tạo ra nó thì bây giờ hãy hưởng nó đi. Tránh xa ta ra, đi vào bóng đêm vĩnh cửu, và vào ngọn lửa không bao giờ tắt! Ta tạo ra ngươi, nhưng ngươi lại hoá thành đồ đệ của kẻ khác! Ngươi thành tôi tớ của một Chúa khác, cút đi và ở với nó trong bóng tối, hắn là con rắn luôn ngọ nguậy, miệng lúc nào cũng rít lên. Ta đã ban cho ngươi đôi tai để nghe Thánh thư, nhưng ngươi lại lắng nghe lời lẽ của bọn đa thần, ta cho ngươi cái miệng để vinh danh Thượng đế, nhưng ngươi lại sử dụng nó để nói những lời láo toét của thi sĩ và hỏi những câu đố của những thằng hề! Ta ban cho ngươi đôi mắt để nhìn ánh sáng, nhưng ngươi lại nhìn trộm vào bóng đêm. Ta là một người phán xét nhân ái, nhưng chính trực. Ai xứng đáng thì ta sẽ ban ân, ta có thể khoan hồng cho ngươi, nhưng ta thấy trong lọ của ngươi không có một giọt dầu. Ta có thể bị buộc phải động lòng từ tâm, nhưng đèn của ngươi không sạch. Tránh xa ta ra… Chúa đã nói như thế đấy. Và họ… và có thể là chúng ta đây… sẽ đắm chìm vào sự dày vò vĩnh cửu. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh thần.
–         Amen, – mọi người đồng thanh đáp.

o0o

Không một tiếng rầm rì, các tu sĩ nối theo nhau về phòng của mình. Chẳng còn muốn nói chuyện với nhau nữa. Các tu sĩ dòng Khất thực và sứ giả của Giáo hoàng biến đi tìm chỗ yên tịnh nghỉ ngơi. Lòng tôi nặng nề.
Thầy William vừa leo cầu thang khu hành hương, vừa nói: – Adso, đi ngủ đi. Đêm nay không đi thăm thú được đâu. Bernard Gui có thể muốn báo hiệu tận thế bằng xác của chúng ta đấy. Sáng mai chúng ta phải cố dự Kinh Sớm, vì ngay sau đó Cha Michael và các tu sĩ dòng Khất thực sẽ ra đi.
Tôi yếu ớt hỏi: – Còn Bernard và các tù nhân cũng ra đi luôn chứ?
–         Hắn chắc chẳng còn việc gì để làm ở đây đâu. Hắn mong sẽ đến Avignon trước Cha Michael, làm thế nào để sự xuất hiện của Cha trùng với phiên toà xử quản hầm, một tu sĩ Khất thực dị giáo và sát nhân. Giàn hoả thiêu quản hầm sẽ soi sáng buổi gặp gỡ đầu tiên của Cha Michael với Giáo Hoàng như một ngọn đuốc làm lành.
–         Còn Salvatore và… cô gái sẽ ra sao?
–         Salvatore sẽ đi với quản hầm, vì gã sẽ phải làm chứng tại toà. Có lẽ Bernard sẽ tha mạng gã để trả công. Có thể hắn sẽ để gã trốn thoát, rồi ra lệnh giết sau, hoặc cũng có thể hắn sẽ tha cho gã đi thực vì Bernard đâu có chú ý gì đến một con người như Salvatore. Ai mà biết được? Có lẽ rồi Salvatore sẽ trở thành một tên cướp khát máu trong một cánh rừng ở Languedoc…
–         Còn cô gái?
–         Thầy đã bảo rồi: Cô ta sẽ bị thiêu sống. Nhưng cô ta sẽ bị thiêu trước, hay dọc trên đường đi, để khai sáng cho một ngôi làng nào đó bên bờ biển. Thầy nghe nói rằng Bernard sẽ gặp bạn đồng nghiệp của hắn là Jacques Fournier, và việc ném một ả phù thuỷ xinh đẹp lên giàn hoả sẽ tăng uy tín và danh tiếng của cả hai lên…
Tôi thốt lên: – Thế không làm gì được để cứu họ à? Tu viện trưởng không can thiệp được hay sao?
–         Can thiệp cho ai? Cho quản hầm, kẻ đã nhận tội à? Cho tên khốn kiếp Salvatore? Hay con đang nghĩ đến cô gái?
Tôi mạnh dạn nói: – Nếu con nghĩ thế thì đã sao? Dẫu sao, trong ba người, chỉ mình cô ấy là thực sự vô tội, thầy biết cô ấy không phải là phù thuỷ…
– Con nghĩ rằng Tu viện trưởng sẽ đánh đổi chút ít uy tín còn lại để can thiệp cho một con phù thuỷ, sau những biến cố đã xảy ra như vừa rồi sao?
–         Nhưng Cha nhận trách nhiệm về việc Ubertino trốn thoát mà!
–         Ubertino là một trong các tu sĩ của Cha và không bị tố vì tội gì cả. Hơn nữa con nói cái gì bá láp vậy? Ubertino là một người quan trọng, Bernard chỉ có thể đâm sau lưng Cha ấy mà thôi.
–         Thế thì quản hầm có lý. Những người phàm tục luôn luôn phải trả giá cho tất cả mọi người, thậm chí cho cả những người lên tiếng bênh vực họ, như Ubertino và Michael, những người đã dùng những lời kêu gọi sám hối để xúi họ nổi dậy!
Tôi tuyệt vọng đến nỗi nghĩ rằng chính cô gái cũng thuộc dòng Anh em nghèo khó, bị hấp dẫn bởi hình ảnh huyền diệu của Ubertino mà quên rằng cô chỉ là một gái quê, trả giá cho một thứ chẳng liên quan gì đến mình.
Thầy William buồn bã đáp:
–         Như thế đấy. Còn nếu con thực sự muốn đi tìm một tia sáng công lý thì thầy bảo cho con biết: một ngày kia, những con chó lớn là Giáo hoàng và Nhà vua, để giải hoà với nhau, sẽ bước qua xác của những con chó nhỏ cứ mãi cắn xé nhau khi thừa hành nhiệm vụ. Và Michael và Ubertino sẽ bị đối xử như cách cô gái của con hôm nay vậy.
Bây giờ tôi biết ngày đó thầy William đang tiên tri, hay đúng hơn, đang suy diễn theo tam đoạn luận, trên cơ sở nguyên lý của triết học tự nhiên. Nhưng lúc đó, lời tiên tri và lối suy luận của thầy chẳng an ủi tôi được chút nào. Điều chắc chắn là cô gái sẽ bị thiêu sống. Tôi thấy mình có trách nhiệm, vì dường như cô gái cũng sẽ lên giàn hoả để chuộc cái tội mà tôi đã phạm với nàng.
Tôi xấu hổ khóc oà và chạy về phòng, suốt đêm tôi nhai rơm và nức nở mãi, vì tôi chẳng được phép thương tiếc và gọi tên người yêu của mình như trong những tiểu thuyết lãng mạn hào hoa mà tôi và các bạn đồng môn đã đọc ở Melk.
Đó là tình yêu trần gian duy nhất trong đời tôi, mà lúc đó và mãi mãi về sau tôi chẳng thể gọi tên được.

nguồn :vnthuquan.net

01/05/2010

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG ( ngày thứ tư ) – UMBERTO ECO

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 08:28
NGÀY THỨ TƯ

KINH NGỢI KHEN

William và Severinus
khám nghiệm từ thi Berengar,
phát hiện lưỡi bị đen,
đó là điều lạ
đối với một người chết đuối.
Rồi họ bàn luận về các loại
độc dược gây đau đớn nhất,
và một vụ trộm trong quá khứ.

Tôi sẽ không tả lại chúng tôi đã báo cho Tu viện trưởng như thế nào, toàn tu viện đã thức dậy trước giờ hành lễ ra sao, những tiếng thét kinh hoàng, nỗi sợ hãi và đau buồn hiện lên mọi khuôn mặt, tin dữ đã lan đến khắp mọi người trong khu ra sao, các tôi tớ làm dấu thánh giá và đọc chú trừ tà. Tôi không biết buổi Kinh Sớm có tiến hành như thường lệ hay không và có ai dự lễ. Tôi đi theo thầy William và dược thảo sư Severinus, hai người đã sai bọc xác Berengar lại và đem đặt lên bàn, trong bệnh xá.
Khi tu viện trưởng và các tu sĩ khác đã đi khỏi, dược thảo sư và thầy tôi khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng với vẻ điềm tĩnh của những người làm nghề thầy thuốc. Severinus nói:
– Chắc chắn Huynh ấy đã chết đuối. Mặt sưng, bụng căng…
– Nhưng Huynh ấy không bị người khác trấn nước. Vì, nếu thế thì Huynh ấy phải chống lại kẻ sát nhân, thế nhưng mọi thứ đều gọn gàng, sạch sẽ cứ như thể Berengar đã đun nước đổ vào bồn và tự nằm vào.
– Tôi chẳng lạ gì. Berengar mắc chứng co giật, và chính tôi thường khuyên Huynh ấy tắm nước ấm để xoa dịu tinh thần và thể xác. Nhiều lần Huynh ấy đã xin phép tôi đốt lò trong nhà tắm. Vì thế, đêm qua Huynh ấy đã…
– Đêm hôm kia, vì xác này, như Huynh thấy, đã ở trong nước ít nhất một ngày…
Thầy William kể cho dược thảo sư một số diễn biến đêm hôm đó, Thầy không kể việc chúng tôi lén lút vào phòng thư tịch, nhưng có kể đã theo dõi một bóng người bí ẩn, kẻ đã giật mất quyển sách của chúng tôi. Severinus hiểu thầy William chỉ kể một phần sự thật nhưng không hỏi thêm. Huynh nhận xét rằng, nếu Berengar chính là kẻ trộm bí ẩn đó thì có thể vì bồn chồn nên đã đi tắm cho tỉnh. Berengar là một người rất nhạy cảm. Đôi khi, vì bực bội hay xúc động, Huynh ấy thường run lên, toát mồ hôi lạnh, mắt trố ra, ngã xuống nền gạch và sùi bọt mép trắng xóa. Thầy William nói:
– Dẫu sao, trước khi đến nhà tắm, Huynh ấy đã đến một nơi nào khác, vì tôi không tìm thấy quyển sách bị mất trộm ở đấy. Như thế, Huynh ấy đã đến một nơi, sau đó, để xoa dịu sự căng thẳng, và có lẽ để tránh sự lùng kiếm của chúng tôi, Huynh ấy mới lẻn vào nhà tắm và trầm mình trong nước. Severinus ạ, Huynh có tin rằng bệnh tật của Berengar có thể khiến Huynh ấy ngất đi và chết đuối không?
– Có thể – Severinus nói, giọng ngờ vực. Nãy giờ, Huynh ấy vẫn xem xét đôi tay của tử thi. Huynh nói: – Một điều kỳ lạ…
– Điều gì?
– Hôm nọ, khi xem xét đôi tay của Venantius lúc đã lau sạch máu, tôi có để ý thấy một chi tiết mà tôi không chú tâm lắm. Đầu hai ngón của bàn tay mặt bị bầm tím, như thể bị dính một chất màu đen gì đó. Huynh thấy không, cũng giống hệt như hai đầu ngón tay của Berengar bây giờ. Nói chính xác thì ta cũng thấy có dấu vết như vậy trên ngón giữa. Lúc ấy, tôi nghĩ tay Venantius đã dính một loại mực gì đó trong phòng thư tịch…
– Lý thú nhỉ! – Thầy William trầm tư nói, nhìn sát đầu ngón tay của Berengar hơn nữa.
Bình minh đang ló dạng, ánh sáng trong phòng còn yếu ớt, và thầy tôi hẳn rất khó chịu vì mất kính. Thầy lặp lại: – Lý thú thật. Nhưng cũng có những vết mờ trên bàn tay trái, ít ra là trên ngón cái và ngón trỏ.
– Nếu chỉ bên tay mặt thì người đó có lẽ đã cầm một vật gì nhỏ, dài và mảnh…
– Như một cây bút chẳng hạn. Hay một thức ăn nào đó. Một côn trùng. Một con rắn. Một cái chân lọ. Hay một cây gậy. Quá nhiều thứ. Nhưng nếu tay bên kia cũng có dấu, thì nó cũng có thể là một cái cốc: tay phải giữ chặt và tay trái dùng ít sức hơn đỡ nó…
Severinus chà nhẹ lên các ngón tay của xác chết, nhưng vết tím đen không tan đi. Tôi để ý thấy Huynh có đeo một đôi găng tay thường sử dụng khi tiếp xúc với các độc chất! Huynh hít hít, nhưng không ngửi được mùi gì.
– Tôi có thể kể tên vài thảo chất, và cả khoáng chất nữa, thường để lại những dấu vết như thế này. Vài loại gây chết người, những loại khác thì không. Các tu sĩ minh họa đôi khi bị dính bụi vàng trên các ngón tay…
Thầy William nói: – Adelmo là một tu sĩ minh họa. Tôi thấy dù xác Adelmo bị tan nát như vậy, nhưng Huynh lại không nghĩ đến chuyện xem xét các ngón tay của tử thi. Nhưng ngón tay của những xác chết khác, có lẽ đã sờ vào một vật gì đó thuộc về Adelmo.
– Tôi thực không biết. Ngón tay của cả hai người chết đều tím đen. Huynh có thể suy diễn gì từ đó?
– Tôi không suy diễn gì cả: từ hai sự kiện giống hệt nhau, không thể suy diễn ra một trường hợp đặc biệt. Cả hai trường hợp đều ứng với một nguyên lý chung. Thí dụ: có một chất làm tím ngón tay mỗi khi ai chạm vào nó…
Tôi đắc chí thốt lên phần hợp đề của tam đoạn luận: – …Ngón tay của Venantius và Berengar đều tím đen, vậy họ đã chạm vào chất đó!
Thầy William nói: – Giỏi đấy, Adso, tiếc thay tam đoạn luận của con không đứng vững, vì tiền đề hai của nó không được tổng quát (1). Đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta chọn tiền đề một không hay lắm. Đáng lẽ, không nên nói rằng những ai chạm vào một chất nhất định nào đó sẽ bị tím các ngón tay, vì cũng có những người tay bị tím nhưng không chạm vào chất đó. Thầy nên nói rằng, tất cả những ai và chỉ những ai ngón tay bị tím đen thì mới chắc hẳn đã chạm vào chất nói trên, thí dụ như Venantius, Berengar, v.v…
Tôi hí hửng nói: – Vậy là chúng ta có giải đáp rồi.
– Than ôi, Adso, con quá tin tưởng vào tam đoạn luận. Cái mà ta có, chỉ đơn thuần là một câu hỏi. Đó là, chúng ta thử nêu lên một giả thuyết rằng Venantius và Berengar cùng chạm vào một chất, một giả thuyết hoàn toàn hữu lý. Nhưng, khi ta tưởng tượng ra một chất duy nhất có khả năng gây ra hậu quả này, chúng ta vẫn chưa biết chất đó là gì, tìm thấy ở đâu và sao lại chạm vào nó. Nhớ nhé, chúng ta cũng không biết cái chất họ chạm vào đó đã giết hại họ hay không? Giả sử một thằng điên muốn giết tất cả những ai chạm vào bụi vàng. Liệu chúng ta có thể nói bụi vàng giết người không?
Tôi nản lòng. Tôi luôn tin rằng luận lý là một vũ khí đa năng, còn bây giờ tôi nhận thức được giá trị của nó tùy thuộc vào cách sử dụng.
Severius chắc chắn không phải là nhà luận lý học, nên lúc đó ông dùng suy luận trên cơ sở kinh nghiệm của mình: – Thuốc độc thì nhiều và đa dạng như những điều nhiệm màu của thiên nhiên – Huynh nói, chỉ tay vào một loạt lọ và ống xếp gọn gàng trên những kệ dọc theo tường, cùng với nhiều bộ sách. – Như tôi đã thưa chuyện cùng Huynh trước đây. Những loại dược thảo này, khi được pha trộn và cho dùng đúng cách, có thể sử dụng như thức uống và dầu thoa chết người. Ở đằng kia, các loại cây độc cần, cây cà dược, có thể gây ra chứng ngái ngủ hay kích thích, hay cả hai: nếu dùng cẩn thận chúng là thần dược, nếu dùng quá độ sẽ gây chết người.
– Nhưng không có chất nào trong số này để dấu trên ngón tay chớ?
– Tôi nghĩ là không. Có những chất chỉ nguy hiểm khi ăn vào bụng, còn những chất khác lại tác động lên da… Có một lần người ta cho tôi xem một hợp chất, khi thoa vào đùi trong của con chó, gần sát bẹn, sẽ làm con vật quằn quại chết ngay, bốn chân dần dần cứng đờ lại…
– Huynh biết nhiều về độc chất quá, – thầy William nói, giọng thán phục.
Severinus nhìn đăm đăm vào mắt thầy một chốc – Tôi biết những gì một y sĩ, dược thảo sư, người nghiên cứu khoa học về sức khỏe con người phải biết.
Thầy William nghĩ ngợi một hồi, rồi nhờ Severinus cạy miệng xác chết để nhìn lưỡi. Severinus hiếu kỳ lấy ra một cái đè lưỡi mỏng, làm theo lời thầy. Huynh ấy kinh ngạc thốt lên: – Lưỡi đen thui!
Thầy William thầm thì: – Ra thế, Huynh ấy đã dùng ngón tay nắm một thứ gì đó rồi nuốt nó vào bụng… Điều này loại trừ những chất độc gây chết người bằng cách ngấm vào da, như Huynh vừa nói. Nhưng như thế không làm việc suy diễn của chúng ta dễ hơn. Vì từ nay, đối với Berengar và Venantius, chúng ta phải suy đoán họ có một hành động tự nguyện. Họ nắm một thứ gì đó và đút nó vào miệng và hiểu được điều họ đang làm…
– Một thứ để ăn? Để uống?
– Có thể. Hay cũng có thể… à, tại sao không nhỉ?… là một nhạc cụ giống như ống sáo chẳng hạn…
– Vô lý.
– Dĩ nhiên là vô lý. Nhưng chúng ta không được loại trừ một giả thuyết nào, dù nó có hoang đường mấy đi chăng nữa. Giờ, hãy quay lại đề tài độc chất. Nếu có một kẻ biết rõ về thuốc độc như Huynh, đột nhập vào đây và lấy các dược thảo của Huynh, liệu hắn có thể chế ra một loại dầu thoa gây chết người, có khả năng để lại những vết tím đen trên đầu ngón tay và lưỡi được không? Hay chất ấy có thể được trộn với đồ ăn, thức uống, bôi lên muỗng, hay một vật gì đó để đút vào miệng không?
Severinus công nhận: – Được, nhưng ai kia chứ? Hơn nữa, dẫu chúng ta chấp nhận giả thuyết này, làm sao kẻ ấy có thể đưa thuốc độc cho hai sư huynh xấu số?
Thành thực mà nói, tôi không thể hình dung Venantius hay Berengar lại để một kẻ nào đó đến gần, trao cho họ một chất bí ẩn nào đó và thuyết phục họ hãy ăn hay uống nó đi. Nhưng thầy William dường như không nao núng trước điều vô lý này, bèn nói: – Chúng ta sẽ nghĩ đến nó sau. Bây giờ tôi muốn Huynh cố nhớ lại một sự kiện gì đó mà có lẽ Huynh đã quên rồi. Thí dụ: như có ai đó đã hỏi Huynh về các loại dược thảo, có ai có thể lọt vào bệnh xá một cách dễ dàng…
Severinus cắt ngang: – Khoan đã. Cách đây nhiều năm, tôi có cất giữ một chất cực mạnh trên kệ đó. Chất này do một sư huynh từ phương xa đến cho tôi, Huynh ấy không thể kể các thành phần trong chất đó, dĩ nhiên bằng dược thảo thôi, nhưng có vài loại hơi lạ. Nhìn thì nó nhờn nhờn và có màu vàng vàng, nhưng Huynh ấy bảo tôi chớ có chạm vào nó, vì nếu để nó chạm vào môi thì sẽ chết ngay. Dù chỉ nuốt vào một lượng tí ti thôi thì trong vòng nửa giờ, người sẽ mệt mỏi rã rời, tứ chi từ từ tê liệt rồi chết. Huynh ấy không muốn mang theo chất này nên tặng cho tôi. Tôi giữ nó một thời gian dài, định tìm cách nghiên cứu nó. Rồi một hôm có một trận bão lớn. Một tu sinh phụ tá của tôi để cửa bệnh xá mở, và trận cuồng phong đã tàn phá căn phòng này đây. Chai lọ vỡ, thuốc chảy trên nền, cây thuốc và thuốc bột văng vãi tứ tung. Tôi phải vất vả suốt ngày để sắp xếp mọi vật lại, và chỉ cho quét dọn các chai lọ vỡ và những dược thảo không còn dùng được nữa. Cuối cùng, tôi khám phá rằng chính cái ống tôi vừa nói với Huynh đã bị mất tích. Thoạt tiên, tôi lo lắng, về sau tôi nghĩ nó đã bị vỡ và lẫn vào các loại vụn rác khác. Tôi đã cho quét nền bệnh xá rất cẩn thận, còn những kệ thì…
– Huynh có nhìn thấy ống thuốc đó vài giờ trước cơn bão không?
– Có… nhưng, à không, nay nghĩ kỹ lại, nó nằm đằng sau dãy lọ, được dấu rất kỹ, nên tôi không kiểm soát nó hàng ngày…
– Do đó, theo Huynh nghĩ, có lẽ nó đã bị mất trộm một thời gian dài, trước khi xảy ra cơn bão, mà Huynh không biết?
– Bây giờ, nghĩ kỹ lại thì hẳn nhiên là vậy.
– Và người tu sinh phụ tá của Huynh có thể đã trộm thuốc, và nhân có bão bèn cố tình mở cửa để xáo trộn đồ đạc của Huynh lên?
Severinus trở nên kích động: – Vâng, đương nhiên. Không chỉ thế thôi, nhưng nay nhớ lại điều đã xảy ra, tôi thật ngạc nhiên, vì dù cơn bão có dữ dội đến mấy đi nữa, nó đâu thể xáo tung quá nhiều thứ lên như vậy? Có thể ai đó đã lợi dụng nó để lục phá căn phòng và gây nhiều thiệt hại hơn cả cuồng phong nữa.
– Tu sinh ấy là ai?
– Tên chú ấy là Augustine. Nhưng đã chết năm ngoái, rớt từ giàn cao xuống, khi chú ấy và những Sư huynh khác cùng tôi tớ đang chùi những bức tượng ở phía chính diện của nhà thờ. Quả thật, tôi nhớ lại, chú ấy đã thề bán sống bán chết là không để cửa mở trước khi có bão. Chính tôi là người đã giận dữ đổ lỗi cho chú ấy về tai ương này. Có lẽ chú ấy không thực có lỗi.
– Thế là chúng ta có một nhân vật thứ ba, tinh thông hơn một tu sinh, biết Huynh có thứ thuốc độc hiếm ấy. Huynh có kể cho ai nghe về nó không?
– Tôi thực không nhớ. Dĩ nhiên, tôi có nói với Tu viện trưởng để xin phép giữ chất nguy hiểm này và nói với vài người khác, có lẽ trong thư viện, vì tôi đang tìm một quyển sách về dược thảo để thu thập thêm kiến thức.
– Nhưng chẳng phải Huynh đã nói rằng Huynh giữ tại đây những quyển sách hữu dụng nhất cho ngành của Huynh ư?
– Vâng, có giữ nhiều. – Severinus nói và chỉ vào một góc phòng có vài chiếc kệ đựng mấy chục quyển sách. – Nhưng khi đó tôi đang tìm một vài quyển sách mà tôi không được giữ ở đây. Malachi quả thật rất ngần ngại không muốn để tôi xem những quyển sách đó. Tôi phải xin phép Tu viện trưởng – Giọng Huynh nhỏ lại, hầu như thẹn thùng không muốn để tôi nghe lời mình nói – Huynh biết không, trong một khu bí mật của Thư viện, họ cất giữ những sách viết về phép phù thủy, tà thuật và các công thức chế bùa mê. Tôi được phép tham khảo vài cuốn sách này khi cần thiết, và hy vọng tìm được công thức và công dụng của chất đó, nhưng vô hiệu.
– Như thế, Huynh đã nói với Malachi về chất này?
– Đương nhiên rồi, và có lẽ cả với phó quản thư viện Berengar nữa. Nhưng đừng vội kết luận nhé: tôi không nhớ rõ, có lẽ các tu sĩ khác cũng có mặt khi tôi nói chuyện, đôi khi phòng thư tịch cũng khá đông, Huynh biết đấy…
– Tôi không nghi ai hết, và chỉ cố tìm hiểu việc gì có thể đã xảy ra. Dẫu sao, Huynh kể việc này đã xảy ra nhiều năm trước đây. Thật lạ lùng, có kẻ đã trộm thuốc độc, giữ nó thật lâu không dùng đến, mãi sau này…. Điều này cho thấy một đầu óc độc ác đã nuôi dưỡng âm mưu giết người suốt thời gian dài một cách bí mật.
Severinus làm dấu thánh giá, mặt lộ vẻ khiếp sợ:
– Lạy Chúa, xin tha tội cho chúng con.
Chẳng có gì đáng bàn thêm. Chúng tôi đậy điệm thi thể Berengar lại, để chuẩn bị tang lễ.

Chú thích:
(1) Aut semel aut iterum medium generaliter esto

KINH ĐẦU

William dụ Salvatore,
rồi đến viên quản hầm thú nhận quá khứ của mình,
Severinus tìm được cặp kính bị mất trộm,
Nicholas đem đến cặp kính mới,
Và William, với sáu con mắt,
giải mã bản viết của Venantius.

Khi chúng tôi đi ra thì Malachi bước vào. Huynh ấy dường như bực bội khi thấy chúng tôi ở đấy, nên ngoe nguẩy đi ngay. Severinus từ trong nhìn ra thấy Malachi, bèn hỏi:
– Có phải Huynh tìm tôi không? Có phải để…?
Huynh im bặt, liếc nhìn chúng tôi. Malachi khẽ ra hiệu cho Severinus, như muốn nói: “Chúng ta sẽ bàn chuyện đó sau….,”
Khi chúng tôi sắp bước ra thì Huynh ấy bước vào, nên cả ba đều đứng ở ngưỡng cửa.
Malachi nói một câu hơi thừa:
– Tôi đến tìm Sư huynh dược thảo sư… Tôi… tôi bị nhức đầu.
– Chắc hẳn do không khí ngột ngạt trong Thư viện – Thầy William nói giọng ái ngại – Huynh nên hít một chút thuốc gì đó.
Malachi mấp máy môi như thể muốn nói gì nữa, nhưng lại thôi, Huynh cúi đầu đi thẳng vào trong, còn chúng tôi thì dời gót. Tôi hỏi:
– Huynh ấy tìm Severinus làm gì?
Thầy tôi bực bội đáp: – Adso, con phải tập động não suy nghĩ. – Rồi thầy đổi đề tài – Giờ chúng ta phải đi hỏi chuyện một vài người – Thầy nói tiếp, mắt nhìn xuống đất chằm chặp – Ít ra là khi họ vẫn còn sống. Này nhé, từ rày về sau, chúng ta phải cẩn thận khi ăn uống. Chỉ nên dùng đồ ăn, thức uống nấu chung cho mọi người. Sau Berengar, chúng ta là những người biết nhiều nhất. Dĩ nhiên, ngoại trừ kẻ sát nhân.
– Nhưng thầy định thẩm vấn ai bây giờ?
– Adso, con đã nhận thấy ở đây những việc đáng lưu ý nhất đều xảy ra về ban đêm. Họ chết ban đêm, họ đi lang thang trong phòng thư tịch ban đêm, họ đưa phụ nữ vào tu viện ban đêm… Tu viện có hai bộ mặt: ngày và đêm; nhưng tiếc thay, tu viện về đêm lại có nhiều chuyện đáng chú ý hơn. Vì thế, chúng ta nên quan tâm đến những ai đi lang thang ban đêm, kể cả người con thấy đêm qua với cô gái, chẳng hạn. Chuyện cô gái có thể có hay không có liên quan đến việc đánh thuốc độc. Dẫu sao, thầy cũng có suy nghĩ về người đàn ông đêm qua, kẻ ấy ắt hẳn phải là người hiểu biết nhiều chuyện về đời sống ban đêm ở nơi thiêng liêng này. À mới nhắc đến là thấy ngay rồi.
Thầy chỉ về phía Salvatore, Huynh ấy đã trông thấy chúng tôi. Tôi nhận thấy Huynh bước hơi ngập ngừng như muốn lánh mặt, toan quay đi nhưng không kịp. Rõ ràng Salvatore biết không thể tránh được thầy trò tôi nên tiếp tục bước tới, toét miệng cười chào chúng tôi và nói ngọt xớt: “Xin Chúa ban phước lành”. Thầy tôi không để Huynh ấy dứt lời, hỏi ngay, giọng sắc lẻm:
– Huynh có biết Toà án dị giáo sẽ đến đây ngày mai không?
Salvatore có vẻ không vui, yếu ớt hỏi: – Còn tôi thì sao?
– Còn Huynh thì nên khôn ngoan nói sự thật cho tôi nghe, cho một người bạn và cũng là một thầy dòng Khất thực như Huynh ngày xưa, còn hơn là ngày mai phải kể lại cho những người mà Huynh đã biết quá rõ.
Bị tấn công quá đột ngột, Salvatore đành bỏ mọi ý định chống cự. Huynh ấy nhìn thầy William với vẻ ngoan ngoãn, ra chiều sẵn sàng kể bất cứ điều gì, thầy hỏi:
– Đêm qua, có một phụ nữ trong nhà bếp. Ai với cô ấy?
Salvatore ngần ngừ nói: – Ôi, một con bán mình như đứa làm thuê đâu có đạo đức, tiết hạnh gì.
– Tôi không cần biết cô gái có trong trắng hay không. Tôi muốn biết ai với cô ấy!
– Lạy Chúa tôi, những con quỉ cái này thật là tinh ranh! Chúng biết cách đánh bẫy đàn ông ban đêm…
Thầy William tóm lấy ngực áo Salvatore: – Ai đã ở với cô ta, Huynh hay quản hầm?
Salvatore biết không thể tiếp tục nói dối. Huynh bèn kể một câu chuyện lạ lùng mà vất vả lắm chúng tôi mới biết được rằng, để làm vui lòng quản hầm, ban đêm, Huynh ấy phải đưa gái quê vào tu viện theo những đường hầm bí mật. Huynh thề rằng mình làm thế chỉ vì tốt bụng, nhưng buồn cười thay vẫn lộ vẻ tiếc rẻ không biết làm cách nào để thoả mãn dục vọng của chính mình, hay bảo cô gái bố thí cho mình một chút gì sau khi đã ăn nằm với quản hầm. Huynh ấy vừa kể vừa nheo mắt, cười hềnh hệch, như thể kể với những người phàm tục rành chuyện nam nữ. Huynh ấy chốc chốc lại len lén liếc tôi, mà dù muốn tôi cũng chẳng thể ngăn được, vì cả hai chúng tôi đã bị ràng buộc với nhau bởi một điều bí mật chung, tôi đã hoá thành kẻ đồng loã và đồng phạm tội lỗi với Huynh ấy.
Đến đây, thầy William bèn đánh bạo đột ngột hỏi Salvatore:
– Huynh đã quen Remigio trước hay sau khi theo Dolcino?
Salvatore quỳ sụp xuống chân thầy William, nức nở cầu xin thầy chớ tiêu diệt Huynh mà hãy cứu vớt Huynh khỏi Toà án dị giáo. Thầy William trịnh trọng thề sẽ không kể cho ai nghe những điều mình biết được, thế là Salvatore chẳng ngại ngần gì giao quản hầm vào tay chúng tôi ngay. Hai người đã gặp nhau trên đồi Núi Trọc, cả hai đều cùng băng của Dolcino, Salvatore và quản hầm đã cùng thoát thân vào ẩn náu trong chủng viện xứ Casale, và lại cùng nhau nhập dòng Cluniac. Khi Salvatore lắp bắp khẩn cầu xin tha thứ, thì rõ ràng chẳng còn gì để khai thác thêm ở Huynh ấy nữa. Thầy William thấy đã đến lúc bất ngờ tấn công Remigio, nên rời Salvatore đi. Huynh ấy liền chạy trốn ngay vào nhà thờ.
Quản hầm lúc ấy đang ở phía bên kia tu viện, trước dãy kho thóc, mua bán mặc cả với các nông dân dưới thung lũng. Huynh sợ hãi nhìn chúng tôi và làm ra vẻ tất bật công việc, nhưng thầy William đã yêu cầu Huynh phải tiếp chuyện mình. Thầy nói:
– Tôi thiết nghĩ, vì những nguyên do liên quan đến nhiệm vụ của Huynh nên rõ ràng là Huynh buộc phải đi lại trong tu viện, ngay cả khi mọi người đều say ngủ.
Remigio đáp: – Cũng tuỳ. Đôi khi có một số việc vặt phải giải quyết, nên tôi phải hy sinh một vài giờ ngơi nghỉ.
– Có điều gì khiến Huynh nghĩ rằng, có một người nào khác, không có lý do chính đáng, cũng đi lang thang giữa khoảng nhà bếp và Thư viện không?
– Nếu có thấy gì, tôi đã thưa với Tu viện trưởng.
– Hẳn rồi. – Thầy William đồng ý và đột nhiên chuyển sang chuyện khác – Ngôi làng dưới kia không giàu lắm nhỉ?
– Cũng nghèo mà cũng giàu. Nhưng người canh tác đất đai của tu viện sống dưới đó lệ thuộc vào chúng tôi, và họ được hưởng bổng lộc trong những năm được mùa. Thí dụ: vào ngày lễ thánh Joan, họ nhận được mười hai đấu lúa mạch, một con ngựa, bảy con bò, một con bò tót, năm con dê, hai mươi con cừu, mười lăm con heo, năm mươi con gà và mười bảy tổ ong. Có cả hai mươi con heo quay, hai mươi bảy hũ mỡ, nửa cân mật, ba cân xà phòng, một lưới cá…
– Tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi – Thầy William cắt lời – Nhưng điều này không nói lên được tình hình ở dưới làng, có bao nhiêu người dân ở đó canh tác đất tu viện, và những người không canh tác đất tu viện thì được bao nhiêu đất để tự cày cấy…
– Ồ, về việc đó… thì một gia đình bình thường ở dưới đó có đến năm mươi sào đất.
– Tôi hiểu rõ rồi.
– Huynh còn muốn biết điều gì khác chăng? – Remigio hỏi bằng một giọng, tôi nghe như thách thức.
– Vâng, tôi hỏi Huynh về đời sống của dân dưới thung lũng, vì hôm nay, trong thư viện, tôi đang nghiền ngẫm những bài giảng của Humbert người La Mã, cho phụ nữ, đặc biệt là Chương “Về những người phụ nữ nghèo trong những căn nhà nhỏ miền quê” (1). Trong Chương này, Humbert viết rằng, các phụ nữ nghèo miền quê, hơn bất kỳ ai khác, thường phải bán thân nuôi miệng. Khi bán thân cho một người thường, họ đã phạm tội trọng rồi, nhưng nếu có một linh mục thì tội càng nặng hơn, và nếu cho một tu sĩ dòng kín thì đó là một tội nặng nhất. Huynh biết rõ hơn tôi là trong những nơi thiêng liêng như tu viện, vẫn luôn có sự cám dỗ của con Quỷ dâm dục. Tôi không biết Huynh qua những lần tiếp xúc với dân làng có nghe nói đến vài tu sĩ, lạy Chúa tha tội, đã dụ dỗ gái tơ phạm tội gian dâm không?
Mặc dầu thầy tôi nói những điều này bằng giọng rất thản nhiên, quý độc giả có thể hình dung những lời này đã làm viên quản hầm đáng thương bối rối biết bao. Tôi không dám nói rằng mặt của Huynh ấy trở nên trắng bệch, nhưng có thể nói là mặt của Huynh ấy tái hẳn đi. Huynh nhẫn nhịn đáp:
– Huynh hỏi tôi những điều mà nếu tôi biết thì đã thưa với Tu viện trưởng rồi. Dầu sao, nếu những tin tức này giúp ích gì cho cuộc điều tra của Huynh thì tôi xin khai ra. Đúng thế, câu hỏi thứ nhất của Huynh đã nhắc tôi nhớ đến…. cái đêm Adelmo chết… lúc ấy tôi đang quanh quẩn trong sân… về chuyện gà qué đấy mà… Tôi có nghe người ta đồn rằng một anh thợ rèn ban đêm đi ăn cắp gà… Đúng, đêm hôm đó tôi quả có thấy – từ đằng xa, nên không chắc lắm – Berengar men theo khu hát kinh về nhà nghỉ, dường như từ hướng Đại dinh…. Tôi không ngạc nhiên lắm, các tu sĩ đã có dạo xầm xì về Berengar. Có lẽ Huynh đã nghe…
– Không. Huynh kể đi.
– Này nhé… biết nói sao đây? Người ta nghi Berengar nuôi dưỡng những đam mê… không chính đáng đối với một thầy dòng….
– Có lẽ Huynh định nói rằng Berengar có gian díu với gái làng, như ban nãy tôi đã hỏi?
Quản hầm đằng hắng, lúng túng, nở một nụ cười trơ trẽn – Ồ, không… những đam mê còn tệ hơn…
– Thế nói cách khác, một tu sĩ tìm khoái lạc với gái làng là nuôi dưỡng những đam mê tương đối chính đáng hơn à?
– Tôi không định nói thế, nhưng chắc Huynh đồng ý rằng, sự sa đoạ cũng như đạo đức có nhiều mức độ khác nhau… Thân xác có thể bị cám dỗ theo tự nhiên và… trái với tự nhiên.
– Huynh muốn nói Berengar bị thôi thúc bởi nhục dục đối với những người cùng phái à?
– Tôi nói đó là những lời xầm xì… Tôi báo Huynh biết những việc này, để chứng tỏ lòng thành thật và thiện chí của tôi…
– Xin cảm ơn. Tôi đồng ý rằng, tội đồng tính luyến ái thì gớm ghiếc hơn các hình thái nhục dục khác nhiều. Thành thật mà nói, tôi không chủ tâm điều tra về chúng.
Quản hầm nói một cách triết lý… – Đó là những điều buồn bã, khốn khổ, cho dù chúng có xảy ra chăng nữa.
– Đúng đấy, Remigio ạ. Chúng ta thảy đều là những kẻ phạm tội khốn khổ. Tôi không bao giờ muốn bới lông tìm vết vì e rằng tôi cũng chả tốt lành gì. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu Huynh chỉ giáo cho các sai lầm của tôi trong tương lai. Do đó, chúng ta hãy cứ nói thẳng, nói thật, không che dấu mọi sai lầm.
– Khi Huynh cần biết điều gì đặc biệt, hãy đến và xem tôi như một người bạn trung thành.
Thầy William nhiệt tình nói: – Quả thật, tôi xem Huynh như vậy. Ubertino bảo ngày xưa, Huynh theo dòng của tôi. Tôi không bao giờ phản bội một người anh em cũ, đặc biệt là trong những ngày này, khi chúng ta đang chờ đợi phái đoàn của Giáo hoàng, dẫn đầu là một phán quan vĩ đại, lừng danh vì đã đưa lên giàn hoả nhiều tu sĩ dòng Dolcino.
Quản hầm không phải là kẻ ngốc. Huynh ấy nghĩ không thể tiếp tục chơi trò mèo vờn chuột nữa, nhất là hiểu được mình chính là chuột, bèn nói:
– Thưa sư huynh William, tôi thấy Huynh biết nhiều chuyện hơn tôi tưởng. Hãy giúp tôi và tôi sẽ giúp Huynh. Quả thật tôi là người yếu mềm nên đã để cho xác thịt cám dỗ. Salvatore báo rằng Huynh hay tu sinh của Huynh, đêm qua đã bắt gặp cạm bẫy ấy trong bếp. Huynh đã chu du nhiều nơi. Huynh thừa hiểu rằng thậm chí các Hồng Y ở Avignon cũng không phải là những khuôn mẫu đạo đức. Tôi biết Huynh không thẩm tra về những lỗi nhỏ đê hèn này, nhưng tôi hiểu Huynh đã biết ít nhiều về quá khứ của tôi.
Tôi đã sống một cuộc đời lạ lùng, như nhiều anh em dòng Khất thực khác. Nhiều năm trước đây, tôi tin vào lý tưởng của sự nghèo khổ, nên đã bỏ cộng đồng đi sống đời du thủ du thực. Cũng như nhiều người khác, tôi tin vào các lời giảng của Dolcino. Tôi là một người dốt nát. Tôi được nhập dòng, nhưng chỉ biết đọc kinh mà thôi. Tôi biết rất ít về Thần học. Có lẽ giáo lý không làm tôi rung động lắm. Huynh thấy đấy, ngày xưa tôi vùng lên chống lại các lãnh chúa, nay tôi phục vụ họ, và vì quyền lợi của vị lãnh chúa dải đất này, tôi ra lệnh cho những người như tôi. Phản bội hay phản loạn: những người dân chất phác như chúng tôi có rất ít quyền lựa chọn.
– Đôi khi, những người chất phác hiểu sự việc giỏi hơn các bậc thông thái.
Quản hầm nhún vai nói: – Có thể. Thậm chí lúc đó tôi cũng không hiểu việc mình làm. Huynh thấy đấy, đối với Salvatore, việc này dễ hiểu thôi: Cha mẹ Huynh ấy là nông nô, thuở nhỏ Huynh ấy sống nghèo khổ, bệnh hoạn… Dolcino là hiện thân của sự nổi loạn tiêu diệt giới lãnh chúa. Đối với tôi thì khác. Tôi xuất thân từ một gia đình thành thị. Tôi không phải chạy trốn cái đó. Đó là – tôi biết nói sao nữa – buổi yến tiệc của những kẻ xuẩn ngốc, một ngày hội huy hoàng… Trên núi, với Dolcino, trước khi chúng tôi buộc phải ăn thịt các bạn đồng ngũ bị chết trận, trước khi có nhiều người chết vì cực khổ, đến nỗi chúng tôi không thịt hết đành phải quăng xác cho chim chóc và thú hoang trên sườn núi Rebello… và có lẽ cũng chính trong những giây phút đó… là một bầu không khí… có thể nói là tự do? Trước đây, tôi không biết tự do là gì. Các thầy giảng đã bảo chúng tôi: “Chân lý mang lại tự do cho các con”. Chúng tôi cảm thấy tự do, và nghĩ rằng đó là chân lý. Chúng tôi tưởng mọi điều mình làm là đúng…
– Và từ đấy Huynh quen thói… tự do gian díu với đàn bà à? – Tôi hỏi, mà thậm chí cũng không hiểu vì sao. Đêm hôm trước, đầu tôi đã bị ám ảnh bởi lời Cha Ubertino, những điều đọc được trong phòng thư tịch và những biến cố đã xảy ra cho tôi. Thầy William tò mò nhìn tôi, không ngờ tôi bạo dạn và bộc trực như thế. Quản hầm trừng trừng nhìn tôi như nhìn một quái vật. Huynh nói:
– Trên núi Rebello, có khoảng hơn mười người, mà suốt thời thơ ấu đã ngủ trong một căn phòng chỉ rộng vài thước vuông, trong đó anh chị em, bố con ngủ lẫn lộn với nhau. Huynh có biết hoàn cảnh mới ấy có ý nghĩa gì đối với họ không? Họ được làm cái việc mà trước đây phải làm vì bị đòi hỏi. Ban đêm, khi sợ quân thù đến, người ta nằm trên đất, ôm chặt người nằm bên cho khỏi lạnh… Những tu sĩ đáng thương, xuất xứ từ dòng dõi quí tộc rồi đi tu hành như các Huynh, cho rằng dị giáo là một hình thái tín ngưỡng phát sinh từ quỉ sứ. Nhưng đó chính là một lối sống, và là… một kinh nghiệm mới… không còn thầy cả, cha bề trên nữa…. và người ta bảo Chúa đã ở cùng chúng tôi. Sư huynh William ạ, tôi không nói ngày xưa mình đúng, và thực tế là Huynh thấy tôi ở đây, vì tôi đã bỏ họ lâu rồi. Tôi chẳng bao giờ thật sự hiểu được các cuộc tranh luận thông thái về sự cơ nghèo của Đấng Kitô và quyền được sở hữu, và các quyền khác… Tôi đã bảo, lúc theo Dolcino là một ngày hội lớn, và trong đó mọi diễn tiến đều trái ngược. Khi về già, mình không khôn ra mà lại hoá tham… Ở đây, tôi là một kẻ tạp thực… Người ta có thể xử tử một tên dị giáo, nhưng họ có xử tử một kẻ háu ăn không?
– Thôi, đủ rồi, Remigio ạ… Tôi không cật vấn Huynh về chuyện cũ mà về chuyện mới xảy ra. Hãy thành thật với tôi, tôi không cố ý hại Huynh đâu. Tôi không thể và sẽ không xét xử Huynh. Nhưng Huynh phải kể tôi nghe những gì Huynh biết về các biến cố trong tu viện. Huynh đi lại trong tu viện quá nhiều, ngày cũng như đêm, nên chắc phải biết một cái gì. Ai giết Venantinus?
– Xin thề độc là tôi không biết. Tôi chỉ biết thời gian và địa điểm Huynh ấy chết.
– Ở đâu? Bao giờ?
– Tôi sẽ kể. Đêm đó, sau Kinh Tối một canh tôi vào bếp…
– Vào cách nào? Lý do gì?
– Bằng lối cửa vườn rau. Tôi có một chìa khoá mà thợ rèn đã làm cho tôi từ lâu. Cửa nhà bếp là cửa duy nhất không gài then bên trong. Còn lý do của tôi thì… không quan trọng, chính Huynh đã nói là không buộc tôi vào tội ham mê xác thịt, – Remigio bối rối mỉm cười – Nhưng tôi không muốn Huynh nghĩ rằng tôi suốt ngày chỉ làm tình… Đêm đó tôi đi tìm thức ăn để đưa cho cô gái mà Salvatore sẽ dẫn vào nhà bếp…
– Từ đâu?
– Ồ, ngoài cổng chính, bức tường ngoài còn có những lối vào khác. Tu viện trưởng biết… Tôi biết… Nhưng đêm đó cô gái không vào. Tôi đuổi cô ra ngay vì tôi đã khám phá cái mà tôi sắp kể Huynh nghe đây. Do đó, đêm qua tôi muốn đem cô vào lại. Nếu Huynh đến trễ hơn một chút, có lẽ Huynh đã gặp tôi thay vì Salvatore. Chính Huynh ấy, đã báo cho tôi có người trong Đại dinh, nên tôi bỏ về phòng mình…
– Chúng ta hãy quay lại cái đêm Chủ nhật rạng ngày thứ hai.
– Vâng, tôi vào bếp và thấy Venantinus nằm chết trên nền nhà.
– Trong bếp ư?
– Vâng, gần bồn rửa bát. Có lẽ Huynh ấy vừa từ phòng thư tịch xuống.
– Không có dấu vết vật lộn?
– Không một dấu vết. Tuy nhiên, bên cạnh xác chết có một cái cốc vỡ và vài vệt nước dưới đất.
– Sao Huynh biết đó là nước?
– Tôi không biết, tôi nghĩ đó là nước. Còn là gì khác nữa cơ chứ?
Về sau thầy William giảng cho tôi hay chiếc cốc đó có thể hiển thị hai điều khác nhau. Một kẻ nào đó đã đưa cho Venantius một ly thuốc độc để uống ngay tại bếp hay chàng trai xấu số đã uống thuốc độc (nhưng ở đâu, khi nào?) và xuống nhà bếp để uống nước cho dịu cảm giác nóng bỏng của cơn đau đột ngột, đang đốt cháy tim gan và lưỡi của mình.
Dầu sao, chúng tôi chẳng khai thác thêm gì được nữa. Sau khi kinh hãi liếc nhìn thây ma Venantius, Remigio quyết định không nên làm gì cả. Nếu cầu cứu thì sẽ phải thú nhận rằng mình đã lang thang trong Đại dinh ban đêm, mà cũng chẳng có lợi gì cho người anh em xấu số. Do đó, Remigio thấy cứ để mặc kệ sự việc như vậy, đợi ai đó sáng mai vào mở cửa, sẽ khám phá ra tử thi. Huynh bèn chạy đón đầu Salvatore, lúc ấy đã đưa cô gái vào tu viện, rồi cùng kẻ đồng loã ấy về phòng ngủ. Vào Kinh Sớm, khi những người nuôi heo báo tin dữ cho Tu viện trưởng, Remigio ngỡ rằng người ta đã phát hiện tử thi nơi mình đã thấy đêm qua, nhưng Huynh kinh hoàng thấy nó bây giờ lại cắm trong vại máu. Kẻ nào đã đem cái thây ma ra khỏi nhà bếp? Remigio không đưa ra lời giải thích nào về điều này.
Thầy William nói: – Người duy nhất được phép đi lại tự do trong Đại dinh là Malachi.
Quản hầm phản ứng dữ dội: – Không, không phải Malachi đâu. Tôi không tin như vậy… Dầu sao, tôi không nói xấu gì Malachi với Huynh cả.
– Huynh có chịu ơn thế nào đi nữa thì cũng cứ yên tâm. Malachi có biết gì về Huynh không?
Quản hầm đỏ mặt: – Vâng, có. Và Huynh ấy tỏ ra rất kín đáo. Nếu là Huynh tôi sẽ để mắt đến Benno. Huynh ấy có mối liên hệ kỳ quặc với Berengar và Venantius… Nhưng tôi xin thề là chẳng trông thấy điều gì khác. Nếu tôi biết điều chi, tôi xin báo Huynh hay.
– Bây giờ như thế đủ rồi. Nếu cần, tôi sẽ tìm Huynh sau.
– Quản hầm mừng rỡ thở phào, quay về công việc của mình, nặng lời nhiếc mắng những nông dân đã thừa lúc hai người nói chuyện nẫng đi mấy bao hạt giống.
Ngay lúc đó, Severinus đến chỗ chúng tôi, tay cầm cặp kính của thầy William bị trộm hai đêm trước.
– Tôi tìm thấy cặp kính trong chiếc áo dòng của Berengar. Hôm nọ tôi thấy Huynh đeo kính này trong Thư viện. Có phải của Huynh không?
Thầy William sung sướng reo lên: – Xin tạ ơn Chúa! Chúng ta đã giải quyết được hai vấn đề! Tôi đã tìm lại kính và cuối cùng biết rằng chính Berengar đã trộm nó trong phòng thư tịch!
Chúng tôi vừa mới nói đến đó thì Nicholas chạy tới, mặt còn đắc chí hơn cả thầy William. Tay Huynh ấy cầm một cặp kính đã làm xong, tra vào gọng đàng hoàng. Huynh hét lên: – William, chính tay tôi đã làm xong cặp kính này! Tôi tin nó sẽ dùng tốt! – Khi thấy thầy William đã đeo sẵn một cặp kính khác rồi, Huynh ấy bàng hoàng đứng lại. Thầy William không nỡ làm Nicholas cụt hứng nên liền tháo cặp kính cũ, đeo cặp kính mới vào: – Cặp này tốt hơn cặp kia. Tôi sẽ luôn dùng cặp kính của Huynh, còn cặp kính cũ sẽ giữ dự trữ thôi.
Rồi thầy quay sang tôi:
– Adso này, giờ thầy sẽ rút về phòng để đọc các giấy tờ mà con đã biết đấy. Cuối cùng đã tìm lại được! Đợi thầy đâu đó nhé. Và xin cám ơn, rất cám ơn các Sư huynh thân mến.
Chuống báo Kinh Xế sáng vang lên. Tôi đi đến khu hát kinh. Các tu sĩ đang cầu nguyện cho linh hồn Berengar quá cố. Tôi tạ ơn Chúa đã giúp chúng tôi tìm được không chỉ một, mà đến hai cặp kính.
Trong cảnh yên lành êm ái vô biên đó, tôi ngủ thiếp đi, quên tất cả những điều xấu xa vừa tai nghe mắt thấy, mãi đến tan lễ mới tỉnh giấc. Tôi sực nhớ, đêm qua mình không ngủ và buồn bã nghĩ mình đã phí sức quá. Khi bước vào nơi không khí tươi mát, đầu óc tôi lại bị ám ảnh bởi những ký ức về cô gái.
Tôi rảo bước thật nhanh, cố xua đi những ý nghĩ ấy. Tôi thấy hơi choáng váng. Tôi nắm đôi tay tê cứng lại và dậm chân trên mặt đất. Tôi vẫn còn buồn ngủ, nhưng trong người lại thấy tỉnh táo và đầy sức sống. Tôi không hiểu việc gì đang xảy ra cho mình nữa.

Chú thích:

(1) “Ad mulieres Pauperes in villulis

KINH XẾ SÁNG

Adso tương tư đau khổ,
William mang đến bản viết của Venantius,
vẫn hết sức bí ẩn dù đã giải mã xong.

Tình thực, những biến cố kinh khủng tiếp sau cuộc gặp gỡ tội lỗi với cô gái đã khiến tôi hầu như quên mất sự kiện đó, và khi đã xưng tội với thầy William xong, tâm hồn tôi cảm thấy nhẹ nhõm, không còn ân hận như khi thức dậy sau cơn sa ngã của mình, như thể lời xưng tội của tôi đã trao hộ gánh nặng tội lỗi lên vai thầy. Nhưng không phải lòng tôi hoàn toàn thanh thản. Giờ đây, bước đi dưới ánh nắng yếu ớt, lạnh lẽo trong sáng mùa đông ấy; giữa dòng sinh hoạt sôi nổi của người và súc vật, tôi nhớ lại các trải nghiệm của mình theo một cách khác. Trong tâm trí nóng bỏng của tôi, chợt hiện lên bóng ma Berengar, thây chương phù những nước, và tôi rùng mình, nghĩ vừa thương vừa sợ. Như để xua đi hình ảnh kinh tởm đó, đầu óc tôi hướng về những hình ảnh khác vẫn còn tươi nguyên trong ký ức và trước mắt tôi lại hiện ra nhân dáng của thiếu nữ xinh đẹp và khủng khiếp như thiên binh vạn mã.
Tôi nhớ nàng. Xác thịt tôi đã quên đi những cảm giác khoái lạc tội lỗi và chóng qua trong cuộc giao hoan với nàng, nhưng linh hồn tôi chưa quên được gương mặt nàng và không tài nào tự cho rằng nỗi nhớ nhung này là sa đoạ, lòng tôi thổn thức như thể gương mặt ấy đã toả rạng tất cả niềm hạnh phúc của tạo hoá.
Lý trí tôi biết rằng nàng là kẻ cám dỗ tội lỗi, nhưng tâm hồn nhạy cảm của tôi lại hướng về nàng như nguồn cội của mọi ơn huệ. Thật khó diễn tả cảm xúc của mình. Tôi muốn viết rằng tôi vẫn còn nằm trong cạm bẫy của tội lỗi, vẫn còn khao khát mong nàng hiện ra bất cứ lúc nào. Tôi len lén ngó những người thợ đang làm việc, cố tìm thử xem quanh góc lều kia hay trong kho tối tăm nọ có xuất hiện hình bóng đã quyến rũ tôi hay không.
Tôi tin rằng cuộc yêu đương đêm qua chỉ là trò dâm dục, vì tôi muốn cô gái cho mình cái mà mình chưa hề có. Nhưng buổi sáng nay, tôi chẳng mong muốn gì ở nàng cả. Tôi chỉ mong nàng tốt đẹp, mong nàng được cứu thoát khỏi cảnh nghèo đói tàn nhẫn đã đẩy nàng đến cảnh bán thân nuôi miệng, mong nàng được hạnh phúc. Tôi cũng chẳng yêu cầu ở nàng điều gì hơn nữa, chỉ ước ao dược nghĩ đến nàng, được nhìn thấy nàng trong những con bò, con cừu, những tàng cây, trong ánh sáng dịu êm đang tắm đẫm khuôn viên tu viện trong hạnh phúc.
Giờ tôi nhớ lại lời những nhà thông thái nói rằng, tình yêu có thể gây tác hại cho người, nếu nó quá cuồng nhiệt. Tình yêu của tôi quá cuồng nhiệt. Tình yêu nồng nàn thời thanh xuân ấy của tôi là lầm lạc, nhưng sự thật buộc tôi phải nói rằng, khi đó, tôi cảm thấy nó vô cùng tốt đẹp. Hãy để điều này cảnh giác những ai có thể rơi vào chiếc lưới tình cám dỗ như tôi ngày đó.
Rồi một bản năng kỳ diệu đã đến cứu vớt tôi. Cô gái hiện lên trước mắt tôi qua hình ảnh thiên nhiên và những người lao động xung quanh. Nhờ bản tính vui tươi của mình, tôi cố thoát khỏi cơn ám ảnh cũ bằng cách nhìn ngắm mọi người làm việc. Tôi quan sát những người nuôi bò dẫn đàn ra khỏi chuồng, những người nuôi lợn cho lợn ăn, những người chăn cừu xua chó đi gom cừu về, những nông dân vác lúa mì và hạt kê đến cối xay, rồi mang ra những bao bột ngọt mịn. Tôi đắm chìm trong những suy nghĩ về thiên nhiên, cố xua đi mọi ưu tư bằng cách chiêm nghiệm các thực thể sống, nhìn ngắm họ để quên mình.
Cảnh thiên nhiên trinh nguyên chưa nhuốm trí khôn sa đoạ của con người mới đẹp làm sao!
Tôi không nghĩ về cô gái ấy nữa, nói đúng ra, tôi cố biến mối tình nồng nhiệt tôi dành cho nàng thành niềm hạnh phúc và yên bình đầy thành kính sâu lắng trong lòng.

o0o

Lòng tôi còn đang thơ thới hân hoan như thế thì thấy thầy tôi tiến đến. Hóa ra nãy giờ cứ lê chân đi không hề nghĩ ngợi, tôi đã đi giáp một vòng tu viện và quay trở lại nơi thầy trò tôi chia tay nhau cách đây hai giờ. Điều thầy bảo bứt tôi ra khỏi dòng suy tư ban nãy và hướng đầu óc quay về những điều bí ẩn tối tăm trong tu viện.
Thầy William có vẻ đắc chí lắm. Tay thầy cầm bản viết của Venantius đã được giải mã xong. Chúng tôi về phòng thầy, tránh xa những đôi tai dỏng lên nghe ngóng, và thầy dịch tôi nghe những điều thầy đã đọc được. Sau câu viết bằng mẫu tự hoàng đạo: “Secretum finis africae manus supra idolum primum et septimum de quatuor”, đoạn văn bằng tiếng Hy Lạp có nghĩa như sau:
“Độc dược khủng khiếp làm tẩy uế…
Vũ khí tốt nhất để tiêu diệt quân thù…
Dùng những kẻ hèn mọn, thô tục và xấu xí, nhìn thấy sự tật nguyền của họ mà khoái trá… Họ không thể chết… Không phải trong nhà của những người cao quí, quyền uy, mà từ những ngôi làng nông dân, sau những bữa ăn nhậu thừa mứa… Những thân hình phục phịch, gương mặt dị dạng.
Chúng hiếp gái trinh, và ăn nằm với điếm, không tội lỗi, chẳng sợ sệt.
Một sự thật khác, một hình ảnh sự thật khác…
Những quả vả đáng kính.
Viên đá nhục nhã lăn trên bình nguyên… Trước mắt.
Lừa đảo là cần thiết và ngạc nhiên trong lừa đảo, nói điều ngược với cái mình tin, nói một đằng ám chỉ một nẻo.
Đối với họ ve sẽ từ đất kêu vang lên”.

o0o

Thế là hết! Tôi nghĩ nó ngắn quá, hầu như chẳng chứa đựng điều gì hết! Lời lẽ như lời một người điên lảm nhảm, và tôi thưa với thầy như thế.
– Có lẽ, và chắc chắn do cách thầy dịch, nên nghe nó càng điên hơn. Thầy hiểu tiếng Hy Lạp còn ít quá. Thế nhưng, dù chúng ta có bảo Venantius điên, hay tác giả của quyển sách này là điên chăng nữa, đoạn viết này cũng không chỉ cho chúng ta biết tại sao lại có quá nhiều người mà không phải ai cũng điên cả, đã bỏ công cất dấu quyển sách này rồi lại moi nó ra…
– Nhưng có phải những câu viết ở đây trích từ quyển sách bí ẩn không?
– Chắc chắn đây là những câu do chính Venantius viết. Con thấy đó: đây không phải là bản da cổ xưa. Những dòng này chắc chắn không phải là các chú thích được ghi lại khi đọc sách, nếu không Venantius đâu có viết bằng tiếng Hy Lạp làm gì. Huynh ấy chắc hẳn đã sao chép lại và rút gọn những câu đọc được trong quyển sách lấy trộm từ “Finis Africae”. Huynh ấy mang sách xuống phòng thư tịch, vừa đọc vừa ghi lại những câu theo Huynh là quí giá. Rồi một việc gì đó xảy ra. Có thể Huynh ấy cảm thấy choáng váng, hay nghe có tiếng chân ai đi lên. Do đó, Huynh bèn đặt quyển sách cùng các ghi chú của mình xuống dưới bàn giấy, có lẽ định tối mai sẽ lên lấy lại. Dù thế nào đi nữa, trang giấy này là khởi điểm duy nhất có thể giúp chúng ta tái tạo bản chất của quyển sách bí ẩn đó, và chỉ nhờ hiểu được bản chất của quyển sách, chúng ta mới có khả năng suy ra bản chất của kẻ sát nhân. Vì trong mọi tội ác nhằm chiếm đoạt một vật gì đó, bản chất của vật thể đó sẽ cho chúng ta một ý tưởng, dù là rất mơ hồ, về bản chất của tên giết người. Kẻ giết người vì một nắm vàng sẽ là kẻ tham lam; kẻ giết người vì một quyển sách hẳn tha thiết muốn giành lấy cho mình các bí mật trong quyển sách đó. Thế nên chúng ta phải tìm cho ra quyển sách mà ta không có ấy xem nó nói điều gì.
– Và, từ vài dòng này đây, thầy có thể hiểu được quyển sách đó là gì chăng?
– Adso ạ, những dòng này tựa như những lời kinh mà ý nghĩa vượt ra ngoài các con chữ. Buổi sáng nay, khi đọc những dòng này, sau cuộc nói chuyện với viên quản hầm, thầy rất ngạc nhiên thấy ở đây cũng đề cập đến những người phàm tục và nông dân như những người nêu cao một sự thật khác với sự thật của những nhà thông thái. Quản hầm nói bóng gió đến một tội đồng loã lạ lùng đã buộc Huynh ấy với Malachi. Malachi có thể đang cất giấu một bản văn dị giáo nguy hiểm mà Remigio đã uỷ thác chăng? Như thế, có lẽ Venantius đã đọc và chú giải vài chỉ thị bí ẩn, có liên quan đến một nhóm người thế tục, cục cằn đang nổi loạn chống lại mọi người, mọi thứ. Nhưng…
– Nhưng sao thầy?
– Nhưng có hai sự kiện chống lại giả thuyết của thầy. Sự kiện thứ nhất: Venantius có lẽ không chú ý tới những vấn đề loại như vậy; Huynh ấy là người dịch các bản viết tiếng Hy Lạp chứ không phải là nhà thuyết giảng về bọn dị giáo. Sự kiện thứ hai là giả thuyết này không giải thích được những câu về quả vả, viên đá và ve sầu…
Tôi đánh bạo nói: – Có lẽ đó là những câu đó chứa đựng một ý nghĩa khác. Hay thầy có một giả thuyết nào khác không?
– Có, nhưng còn lờ mờ lắm. Khi thầy đọc trang viết này, thầy nhớ dường như trước đây đã đọc vài từ ở đâu đó rồi, và một vài đoạn hầu như giống hệt thế này mà thầy đã thấy ở nơi khác hiện trở lại trong óc thầy. Quả thực, trang giấy này tựa như nói về một điều gì đó đã được nói đến nhiều trong những ngày vừa qua… Nhưng thầy chưa nhớ ra được. Thầy phải suy nghĩ lại. Có lẽ, thầy phải đọc những quyển sách khác.
– Tại sao? Để biết một quyển sách nói gì, thầy lại phải đọc những quyển sách khác à?
– Đôi khi như vậy đó. Sách thường nói về những quyển sách khác. Một quyển sách thường giống như một hạt giống sẽ trổ hoa thành một quyển sách nguy hiểm hay ngược lại, nó là quả ngọt từ một cây đắng.
– Đúng vậy. – Tôi kinh ngạc nói. Trước đây, tôi vẫn nghĩ mỗi quyển sách viết về những điều thiêng liêng hay phàm tục nằm bên ngoài sách vở. Bây giờ tôi nhận thức rằng sách cũng thường viết về sách: như thể chúng bàn luận về nhau vậy. Theo cách suy nghĩ này, Thư viện đối với tôi lại càng phức tạp hơn nữa. Như thế nó sẽ là nơi chất chứa những lời thầm thì đằng đẵng hàng bao thế kỷ, một cuộc đối thoại âm thầm giữa bản viết này với bản viết kia, một sinh vật sống, nơi ngự trị của những sức mạnh mà trí óc con người không thể chế ngự được, một kho báu đầy ắp những bí mật, phát sinh từ nhiều bộ óc lớn, những bí mật sống lâu hơn những học giả quá cố đã sản sinh ra hay truyền đạt chúng.
Tôi nói: – Thế thì cất giấu sách mà làm gì, nếu từ những quyển sách được tự do đọc, ta có thể tìm hiểu được những quyển sách cấm?
– Nếu qua nhiều thế kỷ thì chẳng có ích lợi gì. Nhưng trong khoảng thời gian vài năm hay vài ngày thì nó có tác dụng. Con thấy đấy, thực ra chúng ta bị hoang mang biết bao.
Tôi sững sờ hỏi: – Thế thì thư viện không phải là một công cụ để loan truyền sự thật, mà chính là nhằm trì hoãn sự xuất hiện của sự thật ư?
– Không nhất thiết và không phải luôn luôn như vậy. Trong trường hợp này thì quả đúng như thế.

KINH TRƯA

Adso đi đào nấm truyp
và thấy phái đoàn dòng Khất thực đến,
họ bàn bạc rất lâu với William và Ubertino,
từ đó biết thêm nhiều điều lo buồn
về Giáo hoàng John XXII

Sau những lời bàn luận như vậy, thầy tôi quyết định không xúc tiến gì thêm nữa. Tôi đã từng nói rằng, thầy tôi đôi khi có những giây phút hoàn toàn ngưng hoạt động, như thể vòng quay không ngừng của tinh tú đã đứng lại, và thầy đã ngừng theo. Buổi sáng hôm đó, thầy tôi cũng vậy. Ông nằm duỗi dài trên ổ rơm, nhìn đăm đăm vào cõi hư vô, tay khoanh trên ngực, môi hơi mấp máy như đang đọc kinh, nhưng không đều đặn và thành tâm lắm.
Tôi tôn trọng những giây phút suy tư của thầy nên quay ra sân và thấy ánh dương đang yếu dần. Buổi sáng trong đẹp đến vậy mà bây giờ trời đã ẩm ướt, đầy sương mù. Những đám mây nặng trĩu từ phương Bắc bay về đang phủ tràn lên đỉnh núi một lớp sương mỏng. Đã bắt đầu thấy khó nhận ra những toà nhà ở đằng xa.
Tôi thấy dược thảo sư Severinus đang vui vẻ tập họp những người nuôi lợn lại và lùa đàn lợn về. Huynh bảo sắp đi xuống thung lũng đào nấm truyp. Tôi liền đi theo Huynh, vì tôi biết Huynh đi đào nấm để quên đi những biến cố buồn bã đang ám ảnh mọi người. Tôi nghĩ, khi giúp Huynh quên đi nỗi ưu tư của Huynh, có lẽ tôi sẽ, nếu không quên thì cũng vơi đi, nỗi ưu tư của chính mình.
Buổi sáng toàn một màu xám đục, gần như sữa, mất hẳn đường chân trời, ngay cả nơi hẻm núi mở ra những bờ bãi xa. Khi chúng tôi chầm chậm đi xuống dốc núi, tôi chợt thấy phái đoàn của các thầy dòng Khất thực đang tiến lên. Tôi liền chạy bay về tu viện để báo cho thầy William biết.
Thầy William đợi đoàn khách mới tới bước vào tu viện và được Tu viện trưởng đón tiếp theo nghi lễ. Đoạn, thầy bước đến và mọi người trao đổi những lời chào hỏi và ôm nhau thân hữu.
Đã qua giờ ăn trưa, nhưng Tu viện trưởng gọi dọn thêm một bàn mới cho khách và tế nhị để chúng tôi ở lại với đoàn. Được miễn trừ các điều bó buộc của Giáo luật, còn lại một mình với thầy William, đoàn khách tự do ăn uống và trao đổi các suy nghĩ của mình. Dẫu sao, xin Chúa tha thứ cho sự so sánh kỳ cục của con, nó cũng như một hội đồng chiến tranh được nhóm họp chớp nhoáng, trước khi đạo quân của kẻ thù là đoàn Avignon đến.
Khỏi cần phải nói là đoàn khách mới đến đã lập tức gặp Ubertino. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, sung sướng và kính trọng chào đón Cha, không chỉ vì ngưỡng mộ một thời gian vắng mặt đằng đẵng và những nỗi sợ hãi bao quanh sự mất tích này, mà còn vì những phẩm chất của người chiến sĩ kiên cường đã mấy thập kỷ nay cùng sát vai chiến đấu với họ.
Khi kể về cuộc họp ngày mai, tôi sẽ nói thêm về các thầy dòng trong đoàn. Thoạt tiên, chúng tôi trao đổi với nhau rất ít, vì tôi phải dự vào cuộc hội kiến tay ba giữa thầy William, Cha Ubertino và Cha Michael xứ Cesena. Tôi đã kể một ít về Cha Michael trong những trang trước. Bây giờ tôi hiểu rõ thêm nhiều quan điểm trái ngược nhau và những thay đổi chiến thuật chính trị đột ngột của Cha mà trong những năm vừa qua đã khiến các bạn bè và tín hữu của Cha kinh ngạc. Trước đây hai năm, Cha cùng với các tu sĩ của mình tại Đại hội chung ở Lyons, đã nói về Giáo hoàng với thái độ trung dung và kính trọng. Hôm nay, tại Tu viện này, Cha ngồi thân mật tại bàn với những người nói về Giáo Hoàng không một chút tôn kính, thậm chí còn khinh miệt.
Tôi đã kể phần còn lại của câu chuyện. Giáo hoàng John triệu Cha Michael về Avignon. Bản thân Cha vừa muốn lại vừa không muốn đi, cuộc họp ngày mai sẽ quyết định hình thức và cách bảo đảm cho chuyến đi sắp tới, sao cho nó không được biểu lộ một thái độ thuần phục hay thách thức. Tôi nghĩ Cha Michael chưa hề đích thân gặp John bao giờ, hay ít ra là trong cương vị Giáo hoàng. Dẫu sao, đã lâu rồi Cha không gặp Giáo hoàng, nên các bạn bè của Cha vội khắc hoạ tên buôn thần bán thánh ấy bằng những màu sắc đen tối nhất…
Tuy nhiên, các cuộc trò chuyện khác tại bàn ăn không giúp tôi hiểu thêm được các biến cố tôi đang kể lại bao nhiêu. Các tu sĩ dòng Khất thực đã nhất trí với nhau về lập trường của họ tại cuộc thương thảo ngày mai. Họ lần lượt đánh giá từng đối phương. Họ lưu tâm bàn bạc cái tin mà thầy William thông báo về sự xuất hiện của Bernard Gui, đặc biệt là tin Giáo chủ Bertrand del Poggetto sẽ chủ trì phái đoàn Avignon. Hai phán quan, quả thực là quá nhiều. Đó là dấu hiệu cho thấy họ định dùng cuộc tranh luận về dị giáo để chống lại dòng Khất thực.
Thầy William nói: – Càng đông càng tệ. Chúng ta sẽ xem họ như những kẻ dị giáo.
Cha Michael nói: – Không, không. Hãy tiến hành một cách thận trọng. Chúng ta không được gây nguy hại đến bất kỳ một sự thoả thuận nào.
– Theo con thấy, mặc dù con cũng đã bỏ công tiến hành việc tổ chức cuộc họp mặt này, Cha Michael biết con không tin rằng phe Avignon đến đây sẽ thu được thành quả nào. John đòi một mình Cha đến Avignon mà lại không có sự đảm bảo nào. Nhưng tối thiểu, cuộc họp sẽ có một nhiệm vụ là làm cho Cha hiểu được việc đó. Nếu Cha đến đó trước khi có kinh nghiệm này thì sự việc sẽ càng tệ hơn nữa.
Cha Michael chua chát nói: – Thế là Huynh đã cật lực bỏ công mấy tháng nay chỉ để xúc tiến một việc mà Huynh nghĩ là vô ích.
– Chính Hoàng đế và Cha đã yêu cầu con. Chung cuộc, việc hiểu rõ thêm kẻ thù của mình chẳng bao giờ là một việc vô ích cả.
Lúc đó người ta đến báo cho chúng tôi hay là phái đoàn thứ hai đã vào nội thành. Các tu sĩ dòng Khất thực đứng dậy và đi ra đón đoàn của Giáo hoàng.

KINH XẾ TRƯA

Hồng y Giáo chủ Bertrand Del Poggetto,
cùng Bernard Gui và các thành viên khác
từ Avignon đến,
rồi mỗi người làm một việc khác.

Những người đã biết nhau, những người chưa biết nhau, dù đã nghe nói đến nhau, tất cả đều chào hỏi nhau trong sân đầy vẻ dịu dàng. Bên cạnh Tu viện trưởng, Hồng Y Giáo chủ Bertrand Del Poggetto cư xử như một kẻ đã quen với uy quyền, như thể mình chính là Giáo hoàng thứ hai vậy. Đối với mọi người và với từng người, đặc biệt là các tu sĩ dòng Khất thực, hắn mỉm cười thân ái, báo trước cuộc họp ngày mai sẽ dẫn đến một thoả thuận tốt đẹp, và chuyển đến mọi người những lời chúc lành, từ John XXII. Khi thầy William giới thiệu tôi như đệ tử và thư ký của thầy, hắn xoè bàn tay đeo nhẫn ra cho tôi hôn, như kiểu phô nụ cười với những người khác.
Tôi lập tức chú ý đến người tôi đã nghe bàn tán nhiều nhất những ngày gần đây: Bernard Gui, như cách người Pháp gọi, hay Bernardo Guidoni hay Bernardo Guido, như cách gọi ở những nơi khác.
Đó là một tu sĩ dòng Dominic tuổi trạc bảy mươi, thân hình gầy và thẳng. Tôi chú ý đến đôi mắt xám của lão, nhìn đăm đăm mà không lộ chút cảm xúc nào. Tôi thường thấy chúng loé lên một ánh sáng khó hiểu, tinh ranh, vừa che dấu, vừa cố tình bộc lộ những suy nghĩ và đam mê của mình.
Trong khi mọi người chào hỏi nhau, lão không tỏ ra thân ái hay hữu hảo như những người khác, mà luôn luôn giữ vẻ lịch sự. Khi trông thấy Ubertino, lão tỏ ra kính trọng, nhưng trừng trừng nhìn Cha, đến nỗi tôi phải rùng mình khó chịu. Khi chào Cha Michael lão mỉm cười bí ẩn và lạnh lùng thì thầm. “Cha đã đợi ở đó một thời gian nhỉ”. Tôi không thể bắt được trong câu nói đó một vẻ nôn nóng, một nét chế giễu, một mệnh lệnh, hay một dấu hiệu quan tâm nào. Lão gặp thầy William, và khi biết được thầy là ai, bèn nhìn thầy với vẻ nhã nhặn đầy căm thù. Tôi dám nói chắc rằng không phải gương mặt lão lộ ra những cảm xúc riêng đó, mà vì ắt hẳn lão muốn thầy William biết lão rất căm thù thầy. Thầy William đáp lại vẻ thù địch của Bernard Gui bằng một nụ cười thân ái, và nói:
– Bấy lâu nay, tôi vẫn hằng mong gặp một người mà uy tín lừng lẫy là bài học cho tôi noi theo và là lời khuyên răn soi đường cho nhiều quyết định quan trọng trong đời tôi. – Rõ ràng đó là những lời ca ngợi, gần như nịnh bợ nữa, đối với những ai chưa biết; nhưng Bernard thừa hiểu rằng, một trong những quyết định quan trọng nhất trong đời thầy William là từ nhiệm chức phán quan. Tôi có cảm tưởng rằng nếu thầy William hân hoan nhìn thấy Bernard bị tống vào ngục tối của triều đình, thì Bernard chắc hẳn cũng rất khoái chí thấy thầy William bị chết bất đắc kỳ tử. Vì Bernard ngày ấy nắm binh lực trong tay, tôi đâm ra lo sợ cho tính mạng của thầy tôi.
Tu viện trưởng hẳn đã báo cho Bernard biết về các án mạng trong tu viện. Giả vờ không để ý đến lời bóng gió sâu cay của thầy William, lão nói:
– Theo lời của Tu viện trưởng, và nhằm hoàn thành sứ mệnh đã uỷ thác cho tôi theo những điều khoản của hiệp định đã liên kết mọi chúng ta tại đây lại với nhau, bây giờ tôi phải can dự vào các biến cố đau thương đang nồng nặc mùi hôi tanh độc hại của ma quỷ. Tôi nói điều này vì tôi biết xưa kia, Huynh cũng như chúng tôi, đã chiến đấu trong mặt trận quân thiện dàn binh chống quân ác.
Thầy William điềm tĩnh nói: – Đúng thế. Nhưng sau đó, tôi đã đổi bên rồi.
Bernard nhẫn nhịn chịu đòn: – Huynh có thể kể giúp tôi đôi điều về những án mạng này chăng?
Thầy William nhã nhặn nói: – Rất tiếc là không. Tôi không có kinh nghiệm như Huynh về các án mạng.
Từ đó trở đi, tôi mất dấu mọi người. Sau khi nói chuyện với Cha Michael và Ubertino, thầy William rút về phòng thư tịch. Thầy xin phép Malachi xem xét vài quyển sách nào đó, nhưng tôi không nghe được tựa. Malachi nhìn thầy với vẻ kỳ quái nhưng không thể từ chối. Lạ thay, không cần tìm kiếm những quyển sách này trong Thư viện, vì chúng đều nằm trên bàn giấy của Venantius. Thầy lao vào đọc sách, nên tôi chẳng dám quấy rầy.
Tôi xuống bếp và gặp Bernard Gui ở đó. Có lẽ lão muốn tìm hiểu cấu trúc của tu viện nên đi thăm thú khắp nơi. Tôi nghe lão dùng tiếng địa phương thẩm vấn các đầu bếp và các tôi tớ khác, dường như thăm hỏi về mùa màng và cách điều hành công việc trong tu viện. Nhưng dù hỏi những câu vô thưởng vô phạt nhất, mắt lão cứ soi mói nhìn vào mắt người đối diện, rồi đột nhiên hỏi sang một câu khác, khiến người ấy lắp bắp, tái xanh mặt. Bằng một cách quái dị nào đó, lão đang tiến hành cuộc điều tra và khai thác một thứ vũ khí khủng khiếp mà mọi phán quan khi thi hành nhiệm vụ đều sử dụng: đó là nỗi sợ hãi những người khác. Vì bất kỳ ai, khi bị thẩm tra, do sợ hãi rằng mình sẽ bị nghi ngờ điều chi đó, thường kể cho phán quan bất luận điều gì có thể khiến phán quan nghi ngờ người khác.
Suốt buổi chiều, tôi thấy Bernard tiến hành điều tra theo kiểu đó, khi thì bên cối xay gió, khi thì trong nhà dòng. Nhưng lão gần như không bao giờ giáp mặt các tu sĩ, mà chỉ khai thác các nông dân hay những anh em ngoại đạo. Một chiến thuật ngược hẳn với chiến thuật của thầy William từ bấy lâu nay.

KINH CHIỀU

Alinardo cung cấp những tin tức quý giá,
William bày phương pháp
đi đến một sự thật có khả năng đúng,
bằng một loạt các sai lầm hiển nhiên.

Thầy William hớn hở từ phòng thư tịch đi xuống. Trong khi đợi bữa ăn chiều, chúng tôi chợt gặp Alinardo trong nhà dòng. Nhớ lời Huynh dặn, tôi đưa cho Huynh nắm đậu kê hôm qua lấy được trong nhà bếp. Huynh cảm ơn tôi, rồi tọng một nắm đậu vào cái miệng móm sọm, nhai trệu trạo nói:
– Con thấy chứ? Cái xác kia cũng nằm đúng chỗ mà sách Mặc khải đã tiên tri… Giờ hãy đợi hồi kèn thứ tư!
Tôi hỏi, sao Huynh nghĩ rằng lời giải của chuỗi án mạng lại nằm trong sách Mặc khải? Huynh nhìn tôi kinh ngạc: – Sách của thánh John giải được mọi thứ! – Rồi Huynh nhăn mặt, chua chát nói:
– Ta biết mà, ta đã nói mãi như thế cả một thời gian dài… Ta chính là người, con biết không, đã đề nghị với Tu viện trưởng… Tu viện trưởng lúc đó kìa… thu thập càng nhiều lời bình về sách Mặc khải càng tốt. Ta sắp được làm quản thư viện… Thế rồi tên kia xoay sở sao đó được phái đi Silos, tìm ra những bản viết hay nhất, trở về với một đống của cướp được thật đẹp… Ôi, gã biết nơi tìm kiếm, gã cũng nói ngôn ngữ của bọn vô thần… Thế là Thư viện được giao vào tay hắn mà không vào tay ta. Nhưng Chúa đã trừng phạt hắn và sớm đẩy hắn vào đêm trường tối tăm. Ha ha ha…
Ông lão già nua lẩm cẩm mà tôi vẫn thấy ngây thơ như một đứa trẻ con, giờ bỗng phá lên một tràng cười hiểm ác.
Thầy William hỏi: – Huynh đang nói đến tu sĩ nào vậy?
Alinardo sững sờ nhìn chúng tôi:
– Ta đã nói đến ai à? Ta không nhớ … đã xa xưa lắm rồi. Nhưng Chúa trừng phạt, Chúa huỷ diệt, Chúa làm phai mờ ký ức. Nhiều hành động kiêu hãnh đã xảy ra trong Thư viện, đặc biệt sau khi nó lọt vào tay ngoại nhân. Chúa vẫn còn trừng phạt…
Chúng tôi không thể khai thác gì thêm ở ông lão nữa, nên bỏ đi, để lão tiếp tục lảm nhảm. Thầy William rất chú ý đến cái tin vừa rồi: – Alinardo là một người đáng lắng nghe, mỗi lần nói, lão lại cho biết một điều rất hay.
– Lần này, Huynh ấy nói gì thế?
– Adso ạ, giải quyết một điều bí ẩn không giống như dựa vào các giả thuyết ban đầu để suy luận đâu. Việc tìm kiếm trong các dữ kiện tự nhiên để phát hiện các qui luật, sự chứng minh được tiến hành hết sức gian khổ. Đương đầu với các dữ kiện không giải thích được, con phải cố hình dung ra nhiều qui luật chung, mà các mối liên hệ của chúng với các dữ kiện còn chưa nắm được. Rồi đột nhiên, trong mối liên hệ bất ngờ giữa một hệ quả, một tình huống đặc biệt và một trong các qui luật này, con chợt phát hiện ra một cách lý giải có vẻ đáng tin hơn những cách khác. Con sẽ cố ứng dụng nó vào các trường hợp tương tự, sử dụng nó để dự đoán trước và khám phá ra rằng linh cảm của mình đúng. Nhưng trước khi chung cuộc, con sẽ chẳng bao giờ biết dữ kiện nào là đúng để đưa vào hay gạt ra ngoài sự suy luận của con. Và đó chính là công việc thầy đang làm đây. Thầy sắp xếp rát nhiều các chi tiết riêng rẽ và thử đưa ra vài giả thuyết. Thầy phải đưa ra rất nhiều giả thuyết, nhiều cái ngớ ngẩn đến nỗi thầy xấu hổ chẳng dám kể cho con nghe. Con thấy đấy, trong trường hợp của chú ngựa Brunellus, khi trông thấy các dấu vết, thầy đã suy đoán ra nhiều giả thuyết bổ sung và trái ngược nhau: đó có thể là một con ngựa xổng chuồng, có thể Tu viện trưởng đã cưỡi con ngựa đẹp xuống núi, có thể con ngựa Brunellus để dấu chân trên tuyết, còn một con ngựa khác, Favellus chẳng hạn, đã vương lại vài sợi bờm trong bụi và ai đó đã làm gẫy vài nhánh cây. Thầy chẳng biết giả thuyết nào đúng cả, cho đến khi thầy thấy quản hầm và các tôi tớ lo lắng đi lùng sục con ngựa. Thế rồi thầy hiểu giả thuyết về con ngựa Brunellus là giả thuyết duy nhất đúng, và thầy cố chứng minh với các tu sĩ như vậy. Thầy đã thắng, nhưng thầy cũng có thể thua. Những người khác cho thầy là khôn ngoan vì thầy đã thắng, nhưng họ không biết những lúc thầy thua vì ngu ngốc, họ không biết vài giây trước khi thắng, thầy còn chưa biết mình có thắng không. Bây giờ, đối với những biến cố trong tu viện, thầy có nhiều giả thuyết hay, nhưng chưa có dữ kiện nào khả dĩ hiển nhiên cho phép thầy tuyên bố giả thuyết nào là đúng nhất. Do đó, để về sau khỏi lộ vẻ ngu ngốc, thầy không nhận mình khôn ngoan từ bây giờ. Đừng bắt thầy suy nghĩ nữa, tối thiểu là cho đến ngày mai.
Đến lúc đó, tôi mới hiểu được phương pháp luận của thầy tôi, nó hoàn toàn khác với phương pháp dựa trên các nguyên lý tiên nghiệm của các triết gia. Tôi hiểu, khi thầy chưa tìm được câu trả lời, thầy thường đưa ra nhiều lời giải hoàn toàn khác biệt. Lòng tôi vẫn còn hoang mang nên đánh bạo nói:
– Thế, nhưng…. thầy vẫn còn cách xa giải đáp lắm mà….
– Thầy đã đến gần một giải đáp, nhưng chưa biết cái nào.
– Như thế, thầy không có một lời đáp cho các vấn đề đặt ra.
– Adso ạ, giá có, thầy sẽ đi dạy thần học ở Paris.
– Ở Paris, lúc nào cũng có lời giải đáp đúng đắn ư?
– Không bao giờ, họ biết rất rõ về những sai lầm của mình
Tôi hỏi với giọng gắt gỏng trẻ con: – Thế thầy không bao giờ phạm sai lầm à?
– Thường chứ. Nhưng thay vì nghĩ ra một, thầy lại tưởng tượng thêm nhiều, thế nên thầy không làm nô lệ cho cái nào cả.
Tôi có cảm giác thầy William không hề chú tâm đến sự thật, một điều không có ý nghĩa gì ngoài sự điều chỉnh giữa sự vật và tri thức. Ngược lại, thầy thích thú tưởng tượng xem có bao nhiêu khả năng có thể thực hiện được.
Tôi thú thực, lúc đó, tôi đâm chán ngán ông thầy của tôi và thầm nghĩ “May quá, phán quan đã đến”. Khao khát muốn tìm hiểu sự thật, tôi ngả về phe Bernard Gui.
Bị giằng xé trong tâm trạng phạm tội này còn hơn cả Judas bán Chúa trong đêm thứ năm tuần Thánh, tôi cùng với thầy William đến nhà ăn dùng bữa tối.

KINH TỐI

Salvatore kể về một bùa mê dị thường

Bữa ăn tối dành cho phái đoàn thật hảo hạng. Tu viện trưởng hẳn rất am tường thói háu ăn của con người và các nghi thức trong triều đình Giáo hoàng. Đầu bếp bảo tôi biết mấy con heo vừa mổ định làm tiết canh theo công thức của miền Cassino, nhưng do cái chết thảm thương của Venantius, họ buộc phải đổ tất cả huyết đi nên cuối cùng, phải mổ thêm vài con nữa. Tôi tin rằng mấy ngày đó, ai cũng sợ ý nghĩ phải giết các sinh vật của Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có bồ câu ra-gu tiềm rượu vang, thỏ quay, chả nướng bọc bột thánh Clare, cơm nấu quả hạnh trồng trên đồi, ô-liu nhồi, phô-mai chiên, thịt cừu sốt tiêu sống, đậu trắng và những thức bánh ngọt tuyệt hảo, bánh bông lan thánh Bernard, bánh thánh Nicholas, bánh bao thánh Lucy, rồi các loại rượu vang, rượu thuốc, khiến ai cũng hứng khởi vui vẻ, ngay cả Bernard Gui thường vẫn rất khắc nghiệt. Dường như đây là bữa tiệc của những tên háu ăn, chỉ khác là mỗi khi ăn một miếng hay hớp một ngụm rượu, họ liền thành kính đọc kinh.
Sau cùng, mọi người đều vui vẻ đứng dậy, vài người nêu cớ bị đau chi đó để khỏi xuống dự Kinh Tối, nhưng Tu viện trưởng cũng không phiền trách gì. Không phải ai cũng được hưởng quyền lợi và tuân thủ những nghĩa vụ áp dụng cho những người theo dòng tu của chúng tôi.
Khi các tu sĩ chia tay, tôi tò mò nán lại trong nhà bếp, nơi họ đang chuẩn bị khóa cửa khi đêm xuống. Tôi thấy Salvatore cắp một cái bọc lẻn ra vườn. Bị óc hiếu kỳ thúc giục, tôi chạy theo và gọi hắn. Hắn cố tránh tôi, nhưng khi tôi hỏi thì hắn bảo trong cái bọc đang ngọ nguậy đó có một con rắn thần.
– Hãy coi chừng lũ rắn! giống xà tinh này đầy thuốc độc, tỏa sáng ra bên ngoài! Tôi nói gì thế, ngay cả mùi tanh cũng tỏa ra giết người! Đầu độc anh… Lưng nó có đốm đen, đầu gà, nửa thân dựng đứng trên mặt đất, nửa thân bò trườn như các loài rắn khác. Rồi nó giết người đẹp nhỏ bé…
– Người đẹp nhỏ bé?
– Ừa, con vật nhỏ bé mà, chỉ dài hơn con chuột một chút xíu, à, còn gọi là chuột xạ, là xà hay lãi. Khi chúng cắn, người đẹp sẽ chạy đi kiếm fenicula hay Cicerbita rồi nhai nó, và trở lại với battaglia. Họ nói nó sinh sản qua mắt, nhưng phần lớn nói sai.
Tôi hỏi hắn dùng con rắn thần làm gì thì hắn bảo đó là việc riêng của mình. Lòng tôi tràn ngập hiếu kỳ nên bảo rằng với bao nhiêu cái chết trong mấy ngày nay rồi, không thể để xảy ra điều gì lén lút bí mật nữa, tôi sẽ mách với thầy William. Thế rồi Salvatore hết sức nài nỉ tôi đừng mách, hắn mở cái bọc ra và đưa cho tôi xem một con mèo đen. Hắn kéo tôi lại gần, cười nham nhở nói rằng, hắn không muốn viên quản hầm nhiều quyền hành hay một tu sinh trẻ tuổi đẹp trai như tôi được hưởng tình yêu của các thôn nữ nữa, trong khi hắn chẳng được gì sất vì xấu xí, thảm hại khốn khổ. Nhưng hắn có biết một loại bùa quái quỉ có thể khiến mọi phụ nữ đều yêu hắn. Người ta phải giết một con mèo đen, móc mắt nó ra, nhét vào trong hai quả trứng của một con gà mái đen, mỗi trứng một con mắt. Rồi để trứng thối rữa trong một đống phân ngựa, và mỗi trứng sẽ sinh ra một con quỉ nhỏ phục tùng mình, đem lại cho mình mọi lạc thú của cõi đời. Nhưng tiếc thay, muốn bùa yêu này được kiến hiệu, Salvatore bảo rằng người phụ nữ mà hắn khao khát phải nhổ nước bọt lên hai quả trứng, trước khi vùi chúng vào đống phân ngựa. Việc này làm hắn đau đầu vì thế đêm nay hắn phải đem cô gái ấy vào, dụ cô ta làm phép mà không cho biết nguyên do.
Mặt tôi nóng bừng bừng, toàn thân sôi lên, và yếu ớt cất tiếng hỏi xem có phải đêm nay, hắn sẽ đưa chính cô gái ấy vào tu viện không. Hắn cười chế giễu tôi, bảo tôi thực đã nổi lòng tà dâm rồi. Hắn bảo, trong làng có hàng đống con gái, hắn sẽ đưa vào một cô khác, còn đẹp hơn cả cô gái tôi thích nữa. Tôi nghĩ, hắn nói dối để đuổi tôi đi. Nhưng tôi làm gì được hắn cơ chứ? Theo dõi hắn suốt đêm, trong khi thầy William đợi tôi làm một công việc khác à? Và gặp lại nàng, người con gái mà lý trí tôi xua đi xa, còn lòng tôi thì cứ níu gần lại, người tôi chẳng nên gặp lại, dù tim vẫn khao khát nhớ mong ư? Hẳn là không rồi. Thế là tôi tự nhủ lòng rằng Salvatore đã nói thực về chuyện cô gái, hay có thể mọi thứ hắn nói đều láo toét, cái bùa yêu hắn miêu tả ban nãy chỉ là sản phẩm tưởng tượng của cái đầu óc ngây ngô, mê tín của hắn, và hắn sẽ chẳng làm gì cả.
Tôi nổi cáu, bảo hắn rằng đêm nay, hắn nên liệu hồn đi ngủ, vì các cung thủ sẽ tuần tra khắp tu viện. Hắn đáp là hắn biết rành tu viện hơn mấy tay cung thủ, và chẳng ai nhìn thấy ai trong trời sương mù như thế này. Hắn còn bảo tôi nên cút đi, sẽ chẳng gặp hắn được nữa đâu, dù hắn có đang vui thú với cô gái tôi yêu chỉ cách một thước chăng nữa. Hắn dùng nhiều từ để diễn tả, nhưng đó là ý hắn muốn nói. Tôi giận dữ bỏ đi, vì một tu sinh cao quí như tôi không đáng cãi nhau với một tên hạ tiện như vậy.
Tôi đến gặp thầy William và làm theo kế hoạch. Nghĩa là, chúng tôi đứng dự Kinh Tối ở phía sau gian giữa của giáo đường, như thế, khi tan lễ, chúng tôi sẽ sẵn sàng thực hiện cuộc thám hiểm lần thứ hai vào sâu trong lòng Mê Cung.

SAU KINH TỐI

Viếng Mê Cung lần nữa,
đến ngưỡng cửa “finis Africae”,
nhưng không đột nhập được
vì chưa hiểu cái thứ nhất và cái thứ bẩy
của thứ tư là gì.
Cuối cùng Adso lại nhuốm bệnh tương tư,
dù cũng chóng qua

Chuyến viếng thăm Thư Viện lần này đòi hỏi nhiều giờ làm việc đằng đẵng. Miêu tả bằng lời thì việc xác minh mà chúng tôi định thực hiện rất đơn giản, nhưng quá trình vừa soi đèn vừa đọc các bản khắc chữ, đánh dấu các lối đi và các bức tường trống lên bản đồ, ghi lại các mẫu tự đầu và len lỏi theo nhiều con đường khác nhau, thật là dài và buồn tẻ.
Trời lạnh buốt. Đêm không có gió, nên chúng tôi không nghe những tiếng rít khe khẽ mà đêm đầu tiên đã khiến chúng tôi hoảng sợ, thay vào đó là luồng hơi băng ẩm ướt từ các khe hẹp tràn vào. Chúng tôi đeo găng len vào để cầm sách khỏi cóng tay, nhưng đó là loại găng hở đầu ngón để dùng khi viết trong mùa đông, nên chốc chốc, chúng tôi lại phải hơ tay lên lửa, khoanh tay vào ngực hay vỗ đồm độp vào nhau, lò dò đi mà người lạnh cóng.
Do đó, chúng tôi tiến hành công việc không được liên tục lắm. Chúng tôi dừng lại ngắm nghía các kệ sách, thầy William, mắt đeo kính mới, có thể nán lại đọc sách; mỗi lần phát hiện một tựa sách, thầy lại reo lên mừng rỡ, có lẽ vì thầy biết quyển sách đó, hoặc giả thầy đã tìm đọc nó hàng bao lâu nay, hoặc thầy chưa nghe ai nhắc đến nó, nên vô cùng xúc động. Tóm lại, đối với thầy, mỗi quyển sách là một con thú diệu kỳ vừa tìm thấy trong một miền đất xa lạ. Vừa giở một bản viết, thầy vừa bảo tôi tìm các bản khác.
Tôi vừa nắm một quyển sách được minh họa tuyệt đẹp, với những mê cung rau quả, có rắn, khỉ, thò đầu ra “Hãy nghe những lời này: Cantamen, Collamen, Gongelamen, Stemiamen, Plasmamem, Sonerus, Alboreus, Gaudifluus, Glaucicomus…”
Thầy William nói dịu dàng:
– Các hòn đảo quê thầy đó. Đừng quá khó tính với những tu sĩ từ miền Hibernia [1] xa xôi. Có lẽ, ngày nào tu viện này còn tồn tại, chúng ta còn nói đến Thánh Đế La Mã, thì chúng ta còn phải ơn họ…
– Những hình vẽ này… Thật không tin nổi vào mắt mình nữa! Nhiều màu sắc quá! – Tôi nói, cố thu hết tất cả vào mắt.
– Chúng từ một miền đất không có mấy màu sắc, một mảng trời xanh và mênh mông màu lục. Nhưng chúng ta không được đứng đây bàn cãi về các tu sĩ Hibernia mãi được. Thầy muốn biết tại sao sách của họ lại ở đây cùng với các tác giả người Anh và các nhà ngữ pháp học của các nước khác. Con nhìn sơ đồ của con xem, chúng ta đang ở đâu vậy?
– Trong các phòng của ngọn tháp phía Tây. Con cũng đã ghi lại các bản khắc. Như thế là, sau khi rời phòng không có cửa sổ, chúng ta vào phòng bảy cạnh và mỗi phòng trong tháp chỉ có một lối vào duy nhất: mẫu tự màu đỏ là H. Rồi chúng ta đi từ phòng này sang phòng khác quanh ngọn tháp, và trở lại căn phòng không có cửa sổ. Sự phối hợp của các mẫu tự khép thành… thầy nói đúng! HIBERNI!
– HIBERNIA, nếu chúng ta đi từ phòng không có cửa sổ trở lại phòng bảy cạnh, vì cũng như mọi phòng bảy cạnh khác, nó mang mẫu tự A, bắt đầu của Apocalypsis [2]. Do đó, có các tác phẩm của những tác giả miền Ultima Thule [3], các nhà ngữ pháp học và tu từ học, vì những người sắp xếp Thư viện nghĩ rằng một nhà ngữ pháp học phải đặt cùng với các nhà ngữ pháp học Hibernia, dù người ấy có xuất xứ từ Toulouse chăng nữa. Đó là một tiêu chuẩn. Con thấy chưa? Chúng ta bắt đầu hiểu được vài điều rồi đó.
– Nhưng trong các phòng ở ngọn tháp phía đông, nơi chúng ta khởi hành, lại đọc thấy FONS, … có nghĩa là gì chứ?
– Hãy đọc kỹ bản đồ của con. Con cứ đọc các mẫu tự trong các phòng tiếp theo, theo trật tự ta đến.
– FONS ADIEU…
– Không, FONS ADAE[4]. U là phòng không có cửa sổ thứ hai ở hướng đông, thầy nhớ mà, có lẽ nó khớp với một sự phối hợp khác. Và chúng ta đã tìm thấy gì trong thiên đàng hạ giới đó? Nên nhớ rằng căn phòng có bàn thờ hướng về mặt trời rạng đông đặt tại đó.
– Ở đó có rất nhiều Thánh Kinh, sách giảng Thánh kinh và toàn các sách kinh.
– Con thấy đó, lời của Chúa ứng hợp với thiên đàng hạ giới, mà như mọi người nói là nằm mãi tận phương đông. Và tại đây, về phương tây: HIBERNIA.
– Như thế, đồ án của Thư viện tái hiện lại bản đồ của thế giới à?
– Có thể. Sách được sắp xếp dựa theo xuất xứ từng nước hay theo quê quán của tác giả, hay như trong trường hợp này là theo nơi mà đáng lẽ họ phải sinh ra. Các quản thư viện cho rằng nhà ngữ pháp học Virgil [5] sinh nhầm tại Toulouse, đáng lẽ ông phải sinh tại các quần đảo phương tây mới phải. Họ đã chỉnh lại các sai lầm của tự nhiên.
Chúng tôi tiếp tục đi, xuyên qua một dãy phòng đầy những sách Mặc khải tuyệt đẹp, một trong số đó là phòng tôi đã bị ảo giác. Chúng tôi lại thấy ánh sáng chập chờn từ xa. Thầy William bịt mũi, chạy tới dập tắt lửa và nhổ nước bọt vào đống tro tàn. Chúng tôi băng vội qua căn phòng cho chắc, nhưng tôi nhớ ra mình đã thấy một quyển sách Mặc khải có nhiều màu, có vẽ hình một phụ nữ và một con rồng. Chúng tôi tái lập sự phối hợp của các căn phòng, khởi đầu từ phòng chúng tôi vào sau cùng, có mang mẫu tự đầu màu đỏ Y, Đảo ngược lại, chúng tôi có từ YSPANIA [6], nhưng mẫu tự cuối cùng A, cũng là mẫu tự kết thúc HIBERNIA. Thầy William bảo đó là dấu hiệu cho thấy có vài phòng chứa đựng những tác phẩm thể loại hỗn hợp.
Khu vực được đặt tên YSPANIA đường như chứa rất nhiều bản chép tay sách Mặc khải, tất cả đều làm rất đẹp theo trường phái nghệ thuật Hispania[7]. Chúng tôi nhận thấy có lẽ thư viện này là nơi có bộ sưu tập phong phú nhất các bản sao sách của các tông đồ hiện có trong xứ đạo, và một lượng vô cùng lớn các sách giảng về loại này.
Trong khi quan sát như thế, chúng tôi đến tháp phía nam mà đêm nọ chúng tôi đã đi qua. Căn phòng không cửa sổ mang mẫu tự S của khu YSPANIA dẫn vào phòng E, và sau đó xuyên dần qua năm phòng trong ngọn tháp, chúng tôi đến phòng cuối cùng không có lối ra nào khác mang mẫu tự đỏ L. Đảo ngược lại, chúng tôi có LEONES[8]
– Sư tử phương Nam. Trên bản đồ chúng ta đang ở Châu Phi, và đây là sư tử. Điều đó giải thích tại sao chúng ta thấy có nhiều bản viết của các tác giả vô thần như vậy.
– Còn nhiều nữa đây này, – tôi lục lọi trong các kệ sách – “Canon” của Avicenna, và một bản viết chữ đẹp mà con không nhận ra.
– Theo cách trang trí, thầy thấy đó là Kinh Koran của đạo Hồi, nhưng rất tiếc, thầy không biết tiếng Ả Rập.
– Kinh Koran, Thánh kinh của bọn vô thần, một quyển sách sa đọa…
– Nó chứa đựng một tư tưởng khác với chúng ta. Nhưng con hiểu tại sao họ lại xếp quyển sách này ở đây, nơi có sư tử và những con quái vật. Thế nên chúng ta sẽ gặp sách về các quái vật, kỳ lân. Khu vực LEONES này chứa những quyển sách mà những người sáng lập Thư viện xem là sách giả trá. Sách gì thế kia?
– Sách bằng tiếng La Tinh, nhưng gốc từ Ả rập. Ayyub al Ruhawi, luận thuyết về bệnh chó dại. Còn đây là sách về kho tàng. Và “Luận về “Những hình bóng” của Alhazen[9]
– Con thấy đó, trong số các quái vật và điều giả trá, họ cũng sắp vào đây các công trình khoa học mà giáo dân phải học tập rất nhiều. Đó là cách suy nghĩ vào thời họ xây Thư viện
– Nhưng tại sao họ cũng xếp sách về kỳ lân lẫn trong các sách giả trá.
– Rõ ràng các nhà sáng lập Thư viện có những tư tưởng lạ lùng. Họ hẳn tin rằng một quyển sách viết về những thú vật hoang đường, sống ở những miền đất xa xôi, phải nằm trong danh mục sách giả trá, được những người vô thần truyền bá.
– Kỳ lân, sư tử, tác giả Ả rập và người Ma rốc nói chung. Thảo nào đây là khu Phi châu mà các tu sĩ nói đến.
– Chắc chắn nó đây. Và nếu thế thì chúng ta nên đi tìm các nhà thơ châu Phi mà Pacificus nhắc tới đi.
Quả thật, khi bước lui về phòng L, chúng tôi thấy trên một kệ sách bộ sưu tập các tập thơ của Floro, Fronto, Apuleius, Martianus Capella và Fulgentius
Tôi nói: – Ra đây là nơi mà Berengar nói có lời giải cho một bí mật nào đó.
– Gần như là ở đây. Berengar dùng câu “finis Africae” và chính cách nói này đã khiến Malachi nổi giận. Tận cùng có thể là phòng cuối cùng, trừ phi… – Thầy chợt hét lên: – Thánh Thần ơi! Con không để ý gì sao?
– Gì ạ?
– Hãy quay lại phòng S, nơi khởi hành ngay!
Chúng tôi quay lại phòng không cửa sổ đầu tiên, có khắc dòng thơ: “Super thronos viginti quatuor”[10]. Phòng có hai cửa. Một cửa dẫn vào phòng Y, có một cửa sổ nhìn xuống lồng cầu thang bát giác bên trong. Một cửa khác dẫn vào phòng P, nằm dọc theo tường ngoài, tiếp theo chuỗi kết hợp của YSPANIA. Cửa về phía tháp dẫn vào phòng E mà chúng tôi vừa bước qua. Rồi đến một bức tường trống, và cuối cùng là cửa dẫn vào một phòng không có cửa sổ thứ hai, mẫu tự đầu là U. Phòng đó là phòng có gắn tấm gương, may thay là ở trên bức tường ngay bên tay phải tôi, nếu không, tôi lại phát hoảng lên rồi.
Nhìn kỹ bản đồ, tôi thấy phòng này rất kỳ lạ. Giống như căn phòng không cửa sổ khác của ba ngọn tháp kia, phòng này đáng lẽ phải dẫn vào phòng bảy cạnh ở trung tâm. Nếu không thì cửa vào phòng bảy cạnh phải ở trong phòng không cửa sổ, kế là phòng U. Nhưng phòng U này, ngoài một cửa dẫn vào phòng T, có một cửa sổ nhìn xuống lồng bát giác, và một cửa khác nối với phòng S, ba bức tường kia đều đầy nghẹt sách. Nhìn quanh chúng tôi khẳng định điều đã rõ ràng trên bản đồ; theo cách lập luận lô-gic cũng như phép cân xứng chặt chẽ, ngọn tháp phía nam này đáng lẽ phải có một phòng bảy cạnh, thì lại chẳng có phòng nào như thế cả. Tôi nói:
– Không, chẳng có phòng bảy cạnh nào.
– Không, không phải thế. Nếu không có phòng bảy cạnh thì các phòng khác kích thước sẽ rộng hợn, trong khi đó các phòng này ít nhiều cũng giống hình dáng các phòng trong các tháp kia. Vậy phòng bảy cạnh đó có, nhưng không đến được.
– Nó bị tường bít kín à?
– Có thể. Và chính đó là “Finis Africae”, nơi mà các tu sĩ quá cố vì hiếu kỳ đã lảng vảng chung quanh. Nó bị tường bít kín, nhưng không có nghĩa là không có lối vào. Quả thực, phải có một lối vào, và Venantius đã tìm thấy nó, hay đã được Adelmo miêu tả nó, sau khi Adelmo moi được từ Berengar. Hãy đọc lại các ghi chú của Venantius.
Thầy rút từ áo dòng ra mảnh giấy của Venantius và đọc lại: “Đặt tay trên thần thứ nhất và thứ bảy của thứ tư”. Thầy nhìn quanh: – Ủa, đúng rồi “Thần” là hình ảnh ở trong gương! Venantius nghĩ bằng tiếng Hy lạp vì trong ngôn ngữ đó, còn rõ hơn trong ngôn ngữ của chúng ta nữa, từ “eidolon” vừa có nghĩa là hình ảnh vừa là ma, và tấm gương phản chiếu chính hình ảnh biến dạng của chúng ta, khiến chúng ta nhầm tưởng là bóng ma đấy! Thế nhưng, cái gì là cái thứ tư “trên thần” nhỉ? Một cái gì trên bề mặt phản chiếu này à? Thế thì chúng ta phải đặt mình vào một góc cạnh nhất định nào đủ để nhận ra một vật phản chiếu trong tấm gương, ứng hợp với sự miêu tả của Venantius…
Chúng tôi thử ở mọi vị trí, nhưng vô ích. Ngoài hình ảnh của chúng tôi ra, tấm gương chỉ phản chiếu những đường nét mờ ảo của căn phòng, dưới ánh đèn tù mù… Thầy William suy nghĩ:
– Thế thì, khi nói “trên thần”, Huynh ấy có thể muốn chỉ bên ngoài tấm gương… như vậy chúng ta buộc phải sang phòng kế, vì tấm gương này chắc hẳn là một cánh cửa…
Gương này cao hơn tầm thước một người trung bình, được gắn chặt vào tường, nhờ một khung gỗ sồi chắc chắn. Chúng tôi sờ khắp nơi, cố đút ngón tay vào kẽ giữa tường và khung gỗ, nhưng tấm gương dính chặt cứng ngắc như một thành phần của bức tường, như một viên đá trong đống đá.
– Nếu không phải bên ngoài, thì có thể là bên trên. – Thầy William thầm thì và kiễng chân, giơ tay lên sờ dọc theo cạnh trên của khung gỗ. Thầy chẳng thấy gì ngoài bụi. Thầy buồn bã suy nghĩ:
– Về chuyện này, dù bên ngoài tấm gương này có một căn phòng thì quyển sách mà chúng ta và các tu sĩ khác tìm kiếm cũng chẳng còn trong phòng đó nữa, vì đầu tiên, Venantius đã lấy nó đi và rồi Berengar đã mang nó đi đâu chỉ có Chúa mới biết.
– Nhưng có lẽ Berengar đã mang nó trở lại đây.
– Không, đêm đó chúng ta đang ở trong thư viện, và mọi dữ kiện đều cho thấy Huynh ấy chết sau khi trộm quyển sách chẳng bao lâu, cũng trong cùng đêm ấy, trong nhà tắm. Nếu không, chúng ta đã gặp lại Huynh ấy buổi sáng kế tiếp rồi. Chẳng sao… Tạm thời, chúng ta đã xác định được “finis Africae” là ở đâu và đã thâu thập được gần như đầy đủ các dữ kiện cần thiết để hoàn thiện tấm bản đồ thư viện, của chúng ta. Con phải công nhận rằng, nhiều bí ẩn trong Mê cung đã được sáng tỏ.
Chúng tôi đã đi qua các phòng khác, ghi lại tất cả các phát hiện của chúng tôi lên bản đồ. Chúng tôi đến những phòng chỉ chất toàn các bản viết về toán học và thiên văn học, những phòng khác chứa các tác phẩm viết bằng chữ Xy-ri mà thầy trò tôi chẳng ai biết, các phòng khác nữa xếp sách viết bằng thứ chữ khó nhận ra, có lẽ là các bản viết từ Ấn độ. Chúng tôi đi lại giữa hai chuỗi phối hợp JUDAEA[11] và AEGYPTUS[12]. Tóm lại, để đọc giả khỏi nhàm chán vì trình tự giải mã của chúng tôi, sau khi đã hoàn tất bản đồ, chúng tôi tin rằng thư viện quả thực đã được xây cất và sắp xếp theo hình ảnh của một quả cầu đất và nước. Về hướng bắc, chúng tôi thấy ANGLIA[13] và GERMANI[14], dọc theo bức tường phía tây nối với GALLIA[15], rồi ở cực tây biến thành HIBERNIA, và về hướng tường nam là ROMA (thiên đường của La tinh cổ đại) và YSPANIA. Mạn nam có LEONES và AEGYPTUS, dần lên hướng đông trở thành JUDAEA và FONS ADAE. Giữa tháp đông và bắc, dọc theo tường là ACAI, thầy William bảo đây là một phép cải dung hay để chỉ Hy Lạp, và trong bốn phòng đó có một kho chứa sách của các nhà thơ và triết gia thời đa thần cổ xưa.
Hệ thống sắp từ rất kỳ quặc. Lúc thì hướng thẳng, lúc thì giật lùi, lúc thì chạy vòng. Như tôi đã nói, nhiều khi cùng một mẫu tự được dùng để cấu tạo hai từ khác nhau; trong trường hợp này, căn phòng có hai kệ: mỗi kệ một đề tài. Nhưng rõ ràng tìm kiếm một khuôn vàng trong cách sắp xếp này chỉ hoài công. Nó thuần túy chỉ là một công cụ nhớ, cho phép quản thư viện tìm được một tác phẩm nhất định nào đó. Một quyển sách tìm thấy trong “quarta Acaiae” có nghĩa là quyển sách đó nằm trong phòng thứ tư, đếm từ phòng trong đó xuất hiện mẫu tự đầu A. Và để tìm đến phòng này, quản thư viện phải thuộc lòng con đường vòng hay thẳng dẫn đến nó, cũng như ACAI được phân bố trên bốn phòng xếp thành hình vuông. Thế là chúng tôi nhanh chóng học được trò chơi của những bức tường trống. Thí dụ, từ hướng đông đi đến ACAI, người ta sẽ thấy không có phòng nào dẫn sang các phòng kế đó: mê cung chấm dứt ở khu vực này, và muốn đến ngọn tháp phía bắc, người ta phải đi xuyên suốt ba ngọn tháp kia. Nhưng dĩ nhiên, các quản thư viện vào từ FONS, sẽ thừa biết rằng muốn đến, thí dụ như ANGLIA chẳng hạn, sẽ phải qua AEGYPTUS, YSPANIA, GALLIA và GERMANI mà thôi.

Cuộc thám hiểm thư viện của chúng tôi kết thúc với những thành quả tốt đẹp như thế. Nhưng trước khi bảo rằng chúng tôi khoan khoái rời Thư viện, tôi xin thú thực cùng quý độc giả một điều.
Cuộc thám hiểm của chúng tôi được tiến hành với mục tiêu chính yếu là tìm cho ra chìa khóa chỉ lối vào nơi bí ẩn này. Tuy nhiên, trong khi đánh dấu sự sắp xếp và đề tài của các phòng, chúng tôi cũng có nán lại giở xem nhiều loại sách, tựa như thám hiểm một lục địa bí ẩn hay một miền đất lạ. Cuộc thám hiểm thứ hai này thường được đồng tình tiến hành khi thầy trò tôi xem lướt qua cùng loại sách, tôi chỉ cho thầy xem những quyển lạ nhất còn thầy giải thích cho tôi những điều tôi chưa hiểu.
Nhưng đến một điểm nọ, khi chúng tôi vừa mới đi quanh các phòng trong ngọn tháp phía nam thuộc khu LEONES, thầy tôi chợt dừng tại một phòng đầy sách Ả rập với nhiều hình vẽ dị thường. Vì đêm đó, chúng tôi đem theo hai ngọn đèn nên tôi bèn tò mò bước sang phòng kế, và nhận ra rằng đồ án thông thái và kín đáo của Thư viện đã tích lũy vào bức tường này những quyển sách không thể đưa cho ai đọc, vì chúng được viết về các loại bệnh trong tâm xác, dưới nhiều dạng khác nhau và hầu như toàn do các học giả vô thần viết. Một quyển sách đập vào mắt tôi, nó không lớn, nhưng được minh họa bằng những hình vẽ thu nhỏ. Tựa sách là “Gương tình yêu”[16], tác giả: Maximus xứ Bologna, bao gồm nhiều câu trích dẫn từ các tác phẩm khác, tất cả đều nói về bệnh tương tư. Chắc quý độc giả thừa hiểu rằng quyển sách đã thổi bùng lên ngọn lửa trong trí óc tôi, từ sáng đến giờ vốn đã nguội lạnh, khiến nó thổn thức nhớ đến hình ảnh cô gái.
Suốt ngày hôm nay, tôi đã cố xua đi nỗi phiền muộn của mình, nhắc đi nhắc lại rằng một tu sinh minh mẫn, thăng bằng chớ nên suy nghĩ như vậy. Hơn thế, trong ngày đã xảy ra nhiều biến cố căng thẳng, nên lòng tôi cũng nguôi ngoai khuây khỏa, tôi nghĩ mình đã thôi bị cơn bứt rứt thoáng qua dày vò nữa. Thế nhưng mới chỉ xem qua quyển sách, tôi liền phát hiện mình bị bệnh thất tình nặng hơn mình nghĩ. Tôi liếc vội vàng qua các trang sách vì sợ thầy William bước vào hỏi tôi đang nghiền ngẫm thứ gì say mê thế, tin rằng tôi đang mắc một thứ bệnh, có thể nói là bình thường, như vô số người đã mắc phải, và có thể xem tôi như một con bệnh mẫu vậy.
Tôi rất xúc động khi đọc các trang sách của Ibn-Hazm, ông định nghĩa tình yêu là một thứ bệnh có thể tự chữa trị, vì con bệnh không muốn lành và không thích ai chạy chữa. Tôi kinh hoảng đọc thấy một người yêu đương cuồng nhiệt, khi không được gặp đối tượng thương yêu của mình, thì thể xác sẽ khô héo và thường phải nằm liệt giường, đôi khi cơn bệnh tấn công não bộ khiến con bệnh mất trí, nói năng lảm nhảm. Nếu bệnh càng trầm kha thì cái chết sẽ theo liền, tôi tự hỏi không biết niềm vui được nhớ nhung này có đáng hy sinh thân xác cao quý của mình như vậy không, chưa kể đến những nỗi đau khác trong tâm hồn.
Cuối cùng, tôi chẳng nghi ngờ gì về bệnh tình trầm trọng của mình khi đọc các lời trích dẫn từ học giả vĩ đại Avicenna. Tiếc thay Avicenna đã đưa ra một phương pháp chữa trị là cho đôi tình nhân thành vợ thành chồng với nhau, như vậy sẽ chữa lành bệnh. Ông quả thực là một người vô thần, dù rất khôn ngoan đi nữa, vì không xem xét đến hiện trạng của một tu sinh dòng Benedict, như thế người ấy sẽ bị đọa đày, hay đúng hơn, được tôn phong không bao giờ lành bệnh. Cũng may Avicenna có xem xét đến trường hợp của những tình nhân không thành hôn với nhau được, và đề nghị phương pháp điều trị triệt để là tắm nước nóng. Thế có phải hôm nọ Berengar tắm nước nóng để chữa bệnh thất tình của mình đối với tình nhân Adelmo quá cố không nhỉ? Nhưng có phải người ta mắc bệnh thất tình đối với người cùng phái, hay đó chỉ là nhục dục thú vật? Avicenna cũng đưa ra cách chữa trị khác, chẳng hạn như nhờ một mụ già chuyên nghiệp phỉ báng người yêu của mình – dường như mấy mụ già giỏi việc này hơn đàn ông. Có lẽ phương pháp này chữa hay đấy, nhưng tôi chẳng thấy có mụ già nào trong tu viện, như thế, tôi phải nhờ một tu sĩ nào đó chê bai cô gái đó giùm tôi ư? Nhưng nhờ ai cơ chứ? Hơn nữa, một tu sĩ có hiểu đàn bà rõ như một mụ già lắm mồm không? Phương pháp chữa trị cuối cùng của Saracen đề nghị mới thực là thất đức, vì nó yêu cầu kẻ tương tư khốn khổ đó cặp với nhiều cô gái nô lệ, một cách chữa hoàn toàn không thích hợp với một tu sĩ. Cuối cùng tôi tự hỏi, làm sao một tu sĩ trẻ thoát khỏi bệnh “tình” đây? Không có cách nào cứu chữa ư? Tôi có nên cầu cứu Severinus và các cây thuốc của Huynh ấy không? Mãi tôi mới tìm thấy một đoạn trong tác phẩm của Arnold xứ Villanova, người mà thầy William đã kính cẩn nhắc đến. Phương pháp do Arnold đề nghị là cố từ bỏ mọi hy vọng tiếp cận đối tượng mình yêu, như thế, mọi ám ảnh sẽ tan biến.
Tôi nhủ thầm, trời ơi, thế thì mình đã lành, hay gần lành bệnh rồi, vì tôi có rất ít, hầu như không có hy vọng gặp lại đối tượng mình yêu, và nếu có gặp lại cũng chẳng có hy vọng đạt tới nàng, và nếu có đạt tới thì chẳng có hy vọng chiếm giữ, và nếu có chiếm giữ hay giữ gần mình thì vì tình trạng tu hành lẫn những trách nhiệm do danh dự gia đình đặt lên thì… Tôi nhủ thầm, mình được cứu chữa rồi, bèn xếp sách, định thần lại, vừa khi thầy William bước vào phòng.

Chú thích:
[1] Ái Nhĩ Lan
[2] Mặc Khải
[3] Miền Thule xa xôi nhất, đối với những người cổ đại là miền ban đầu
[4] Thiên đàng hạ giới
[5] Virgil: (72-19 trước Công nguyên): nhà thơ, nhà ngữ pháp học La mã, tác giả trường ca La tinh “AENEID”
[6] Tây Ban Nha
[7] Khu vực đế chế La mã cổ xưa, bao gồm lãnh thổ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay
[8] Sư tử
[9] “De aspectibus”
[10] Hai mươi bốn vị niên trưởng ngồi trên ngai
[11] Xứ Ju-đa, nay là Palestine
[12] Hy Lạp
[13] Nước Anh
[14] Người nước Đức
[15] Người xứ Gaul
[16] “Speculam amoris”

ĐÊM

Salvatore bị Bernard Gui phát hiện
trong một tình trạng thảm hại
thiếu nữ Adso yêu bị bắt
và bị buộc tội là phù thủy
Mọi người về giường
càng lo lắng và đau buồn hơn

Vừa xuống đến nhà ăn, chúng tôi nghe vài tiếng động lớn và thấy có ánh đèn yếu ớt phát ra từ hướng nhà bếp. Thầy William liền thổi phụt đèn. Chúng tôi bám sát tường, đi đến cửa nhà bếp, nghe thấy tiếng động phát ra từ bên ngoài, nhưng cửa lại mở. Rồi tiếng động và ánh sáng biến mất, và ai đó đóng rầm cánh cửa thật mạnh. Cảnh náo động xảy ra, báo hiệu một điều chẳng lành. Chúng tôi vội trở lại lò thiêu xương, trồi lên giáo đường giờ đang vắng tanh, theo cửa nam ra ngoài và thoáng thấy những ánh đuốc bập bùng trong nhà dòng.
Chúng tôi chạy đến, và trong cảnh rối loạn, hẳn cũng đã chạy như bay, như nhiều tu sĩ khác đến từ nhà nghỉ hay khu hành hương, giờ đang có mặt tại chỗ. Chúng tôi thấy các cung thủ nắm chặt Salvatore, mặt trắng dã như đôi tròng mắt, và một người phụ nữ đang gào khóc. Tim tôi thắt lại: đó chính là người yêu trong tâm tưởng của tôi. Khi thấy tôi, nàng nhận ra ngay và nhìn tôi với ánh mắt khẩn cầu, tuyệt vọng. Tôi định chạy tới giải thoát nàng, nhưng thầy William đã giữ tôi lại và thầm thì gắt gỏng tôi. Từ mọi phía, các tu sĩ và vị khách đang chạy tới.
Tu viện trưởng đến, cùng với Bernard Gui. Trưởng toán cung thủ báo cáo ngắn lại cho Bernard hay. Việc xảy ra như sau:
Theo lệnh của phán quan, ban đêm họ tuần tra toàn tu viện, đặc biệt chú ý đến con đường dẫn từ cổng chính đến nhà thờ, khu vườn và tiền diện của Đại dinh. Thận trọng đi trong bóng đêm dày đặc sương mù, các cung thủ cuối cùng đã bắt được Salvatore cùng với cô gái, khi hắn đang lần mò mở cửa nhà bếp.
– Một đứa con gái tại nơi linh thiêng này! Với một tu sĩ! – Bernard khắc nghiệt nói với Tu viện trưởng, đoạn tiếp – Thưa Đức Cha cao quí, nếu hành động này chỉ liên quan đến sự vi phạm lời thề giữ tiết hạnh thì việc trừng phạt kẻ này là hoàn toàn thuộc quyền phân xử của Cha. Nhưng do chúng ta chưa biết chắc việc đi lại của hai kẻ xấu xa này có gây nguy hại gì đến sự an toàn của hai đoàn khách hay không, nên ta phải soi sáng việc bí ẩn này. Này, tên lưu manh kia! Ngươi dấu gì đây? – Bernard lôi từ ngực áo Salvatore ra một cái bọc lồ lộ mà hắn đang cố giấu đi.
Tôi đã biết rồi: một con dao và một con mèo đen. Khi mở bọc ra, con mèo gào lên giận dữ và phóng chạy. Hai cái trứng vỡ chảy nước nhớt nhợt, người khác trông thấy tưởng như máu hay mật vàng, hay một chất gớm ghiếc nào tương tự. Salvatore đang định vào bếp giết mèo và moi mắt nó; ai biết hắn đã hứa hẹn gì với cô gái để dụ dỗ cô ta theo mình. Ít lâu sau, tôi biết được những lời hứa hẹn đó. Bọn cung thủ vừa khám xét cô gái, vừa cười nham nhở và văng ra những lời dâm dật, chúng đã tìm thấy trong người cô một con gà trống nhỏ đã chết, nhưng chưa vặt lông. Xui xẻo thay, tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, con gà đêm đó trông cũng đen như con mèo. Tuy nhiên, tôi nghĩ cũng chẳng tốn kém mấy để dụ dỗ cô gái nghèo đáng thương ấy, người (vì yêu tôi) mà đêm trước đã vứt cả quả tim bò quý giá.
Bernard la lên, giọng lộ vẻ quan tâm lắm:
– A ha! Mèo đen, gà đen… À, ta biết những thứ đồ tế nhuyễn loại này lắm mà…
Hắn để ý thấy thầy William trong số những người hiện diện, bèn nói:
– Sư huynh William cũng nhận ra những thứ này chứ? Chẳng phải ba năm về trước, tại Kilkenny, Huynh đã là phán quan, chứng kiến cô gái đó giao cấu với quỉ sứ, hiện ra dưới dạng một con mèo đen ư?
Theo tôi, dường như thầy William im lặng vì hèn nhát. Tôi nắm tay áo thầy, giật giật, tuyệt vọng thầm thì:
– Thầy nói đi, nói rằng gà chỉ để ăn thôi…
Thầy gỡ tay tôi ra và nhã nhặn nói với Bernard:
– Tôi nghĩ, Huynh chẳng cần các kinh nghiệm xưa của tôi để đi đến kết luận của mình.
Bernard mỉm cười:
– Ồ, không đâu, còn có nhiều nhân chứng có căn cứ hơn. Stephen xứ Bourbon, trong luận chứng về bảy quà tặng của Thánh Linh, kể Thánh Dominic, sau khi giảng đạo tại Fanjeaux chống bọn dị giáo, đã tuyên bố với một số phụ nữ rằng, họ sẽ được gặp đức thầy bấy lâu họ hằng phục vụ. Đột nhiên, một con mèo đáng sợ nhảy ngay vào giữa đám đông. Nó to như một con chó lớn, đôi mắt khổng lồ đỏ rực, lưỡi dài đến rốn đầy những máu, cái đuôi ngắn dựng thẳng lên trời, do đó dù con thú có xoay hướng nào đi nữa, nó cũng phơi bày cái hậu môn xấu xa hôi thối của nó. Các môn đồ của quỉ Sa tăng, không kể các Hiệp sĩ Templar, luôn có thói quen hôn hậu môn đó mỗi khi gặp gỡ. Sau khi đảo quanh đám phụ nữ cả giờ đồng hồ, con mèo phóng lên sợi dây chuông, leo lên cao tít, để lại một đống phân tanh tưởi.
Những tiếng rì rầm kinh hoàng lan khắp đám tu sĩ, nhiều người đưa tay làm dấu thánh giá.
Bernard nói, mặt lộ vẻ đạo đức:
– Thưa Tu viện trưởng, có lẽ Đức cha không biết những kẻ phạm tội thường làm gì với những công cụ như thế này! Nhưng nhờ ơn Chúa, tôi biết rất rõ! Tôi đã nhìn thấy những tên độc ác nhất, cùng đồng bọn của chúng, trong đêm khuya thanh vắng đã dùng mèo đen để làm những thứ phép mà chúng không thể chối cãi được: chúng cưỡi lên con thú và nhờ bóng đêm che chở, lao vút vào không gian bao la, kéo theo bọn nô lệ của chúng đã hóa thành những thần bóng đè dâm dục… Rồi Quỉ hiện ra, hay có lẽ chúng tin thế, dưới dạng một con gà hay vài con thú màu đen nào khác. Rồi bọn chúng, chớ hỏi tôi bằng cách nào, ngủ với Quỉ. Và tôi biết chắc rằng cách đây không lâu, chính tại Avignon, các loại bùa ngải và thuốc xức đã được chế bằng những phép phù thủy như thế này, để mưu hại sinh mạng Đức Giáo Hoàng của chúng ta, bằng cách bỏ thuốc độc vào thức ăn của Người. Giáo hoàng đã bảo toàn được thân mình và phát hiện loại thuốc độc, chính nhờ Người có đeo những viên châu ngọc lớn, chạm hình lưỡi rắn, đính nhiều hồng ngọc và ngọc lục bảo đã được ban phép thánh. Kẻ thù của Giáo Hoàng còn đi xa hơn nữa, và mọi người hẳn biết về tên dị giáo Bernard Délicieux bị bắt cách đây mười năm; người ta tìm thấy trong nhà hắn những quyển sách về tà thuật, có chú thích trên những trang tàn ác nhất, hướng dẫn cách làm những hình nhân bằng sáp để hại kẻ thù. Mọi người có tin nổi không? người ta còn tìm thấy trong nhà hắn những hình nhân chế tạo thật tinh xảo, giống hệt hình của Giáo hoàng, trên đó có khoanh những vòng tròn nhỏ màu đỏ, chỉ những chỗ hiểm trong thân thể. Mọi người biết rằng, hình nhân đó sẽ được treo bằng sợi chỉ trước một tấm gương, rồi dùng kim đâm xuyên qua những chỗ hiểm, và… Ồ, tại sao tôi lại nói mãi về những thứ bùa phép độc ác, ghê tởm ấy nhỉ? Chính Giáo hoàng đã mô tả và lên án chúng trong quyển “Trên những tấm gương của bọn chúng”[1] do Người viết năm ngoái. Hy vọng Đức cha có một bản trong thư viện phong phú của Ngài, nơi nó sẽ được suy ngẫm…
– Chúng tôi có, chúng tôi có – Tu viện trưởng xác nhận ngay, giọng u buồn.
Bernard kết luận:
– Rất tốt. Bây giờ vụ nầy có vẻ rõ ràng rồi. Một tu sĩ bị cám dỗ; một mụ phù thủy, và vài phù phép gì đó may thay chưa được thực hiện. Nhằm mục đích gì? Đó là điều chúng ta phải tìm hiểu, và tôi sẵn sàng hy sinh vài giờ nghỉ ngơi để biết cho ra nhẽ. Đức cha cho phép tôi sử dụng một nơi nào đó để giam người này chứ?
– Chúng tôi có vài phòng dưới hầm của lò rèn, rất may ít khi dùng đến và đã bỏ hoang nhiều năm.
Bernard nhận xét:
– May hay không may.
Rồi hắn ra lệnh cho các cung thủ tìm người chỉ đường xuống đó và đem giam hai phạm nhân vào hai phòng riêng biệt. Họ phải cột chặt Salvatore vào những cái khoen đóng dính trong tường để lát nữa đây, Bernard có thể nhìn thẳng vào mặt hắn khi hỏi cung. Bernard tiếp rằng, vì đã rõ cô gái là ai, nên đêm nay không cần tra hỏi gì. Cô sẽ đợi đem ra xét xử trước khi bị thiêu như một phù thủy. Và nếu là phù thủy, cô sẽ chẳng dễ dàng chịu khai đâu. Nhưng một tu sĩ thì có thể sẽ ăn năn, cung khai sự thật và tố cáo những tên đồng lõa.
Cả hai bị lôi đi, một người im lặng và đập phá như điên cuồng, người kia khóc nức nở, vừa đá vừa la như một con thú sắp bị thọc tiết. Nhưng cả Bernard, bọn cung thủ, lẫn tôi đều không hiểu được tiếng địa phương của cô gái. Nàng la thét mà như một người câm. Có những từ mạnh mẽ gây xúc động, những từ khác khiến chúng tôi càng hoang mang hơn, trong đó có những từ tục tằn của giới bình dân, những người chưa được Chúa ban cho ơn huệ thể hiện được mình bằng ngôn ngữ chung của trí thức và quyền lực.
Một lần nữa, tôi dợm bước theo nàng, một lần nữa thầy William nghiêm mặt giữ tôi lại. – Đứng yên, thằng ngốc. Cô gái bị bắt rồi, và sẽ bị thiêu sống.
Khi tôi kinh hoàng theo dõi cảnh tượng, mắt nhìn nàng mà lòng tràn ngập những suy nghĩ mâu thuẫn nhau, tôi cảm thấy ai đó chạm vào vai mình, không hiểu tại sao ngay trước khi quay lại, tôi đã biết rõ đó chính là Ubertino. Cha hỏi:
– Con đang nhìn mụ phù thủy ấy phải không?
Tôi biết Cha không hay gì về chuyện của tôi. Với sự am tường đáng sợ các đam mê của con người, Cha hỏi chỉ vì đã bắt gặp trong ánh nhìn của tôi một sự căng thẳng lạ thường.
Tôi chối: – Không, con không nhìn cô ấy… đúng ra có lẽ con nhìn cô ây, nhưng cô ấy không phải là phù thủy… Chúng ta biết mà: Có lẽ cô ấy vô tội…
– Con nhìn cô gái ấy vì cô ta đẹp. Cô gái đẹp, phải không? – Cha xiết cánh tay tôi, hỏi giọng vô cùng ấm áp. – Nếu con nhìn vì cô ấy đẹp, lòng thấy chao đảo, nhìn mà thấy lòng thèm muốn thì chỉ việc đó thôi cũng biến cô ta thành phù thủy rồi. Hãy cảnh giác, con ạ… Vẻ đẹp của thân thể chỉ ở ngoài da thôi. Nếu đàn ông có thể nhìn thấy cái gì ở dưới lớp da đó, như linh miêu xứ Boeotia[2], thì họ sẽ rùng mình khi thấy đàn bà. Tất cả vẻ yêu kiều đó chỉ gồm có máu mủ, thể dịch và mật đắng. Nếu con nghĩ đến những gì ẩn dưới lỗ mũi, trong cổ họng và dạ dày thì sẽ thấy chỉ toàn chất hôi thối. Nếu con thấy tởm lợm khi chạm tay vào mủ hay phân thì tại sao lại khao khát muốn ôm cái bao đầy phân đó?
Tôi thấy lợm giọng, không muốn nghe gì nữa. Thầy tôi cũng đã nghe, liền đến cứu tôi. Thầy đến gần Ubertino, cộc cằn nắm lấy cánh tay Cha và giằng tôi ra.
– Đủ rồi, Ubertino. Cô gái ấy chốc nữa đây sẽ bị hành hình, rồi đưa lên giàn hỏa. Cô ta sẽ hóa thành thứ đúng như cha nói: máu, mủ, thể dịch và mật đắng. Nhưng những người như chúng ta sẽ là kẻ đào từ dưới làn da đó cái mà Chúa muốn che chở và được làn da kia tô điểm. Khi nó biến thành vật chất nguyên sơ thì Cha cũng chẳng tốt đẹp gì hơn cô ta đâu. Hãy để thằng bé được yên.
Ubertino bàng hoàng, thầm thì:
– Có lẽ ta đã phạm tội. Ta chắc đã phạm tội rồi. Một người phạm tội có thể làm gì khác?
Bây giờ mọi người đang quay vào bên trong, bàn bạc về sự kiện vừa qua. Thầy William nán lại một lúc với cha Michael và các tu sĩ dòng Khất thực khác, họ hỏi thầy nghĩ gì.
– Trong đầu Bernard bây giờ đang hình thành một lập luận, tuy còn lờ mờ. Trong tu viện, có những phù thủy hoạt động, đang tiến hành những việc giống như những việc làm trước đây nhằm chống giáo hoàng tại Avignon. Đương nhiên đây không phải là chứng cớ, và trước tiên, nó sẽ không thể dùng để phá rối cuộc họp ngày mai. Đêm nay, Bernard sẽ cố moi từ tu sĩ khốn khổ đáng thương đó vài điều mấu chốt khác, mà tôi chắc chắn hắn sẽ không dùng ngay sáng mai đâu. Hắn sẽ để dành đó. Sau này hắn sẽ dùng nó để đảo lộn tiến trình của cuộc tranh luận, nếu chúng chuyển hướng bất lợi cho hắn.
Cha Michael hỏi: – Hắn có thể ép tu sĩ đó nói điều gì đó và dùng nó chống lại chúng ta không?
Thầy William do dự nói: – Hy vọng là không.
Tôi biết, nếu Salvatore khai với Bernard những gì đã kể cho chúng tôi về quá khứ của hắn và quản hầm, nếu hắn tiết lộ điều gì về quan hệ với Ubertino, dù chỉ một thoáng thôi, thì sẽ gây ra một tình cảnh hết sức bối rối.
Thầy William điềm đạm nói: – Dầu sao, hãy đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Về việc đó, Cha Michael à, mọi thứ đã được quyết định trước rồi. Nhưng Cha muốn thử mà.
Cha Michael nói: – Cha muốn, và Chúa sẽ giúp Cha. Cầu thánh Francis giúp tất cả chúng con.
– Amen, – mọi người đáp lại
– Nhưng điều đó không nhất thiết xảy ra, – thầy William nhận xét hơi bất kính, – Thánh Francis có thể đang ở đâu đó, đợi đến ngày phán xét mà không giáp mặt với Thượng đế.
– Nguyền rủa tên dị giáo John! – Tôi nghe thầy Jerome lầu bầu khi mọi người về phòng nghỉ. – Nếu hắn cướp đi sự giúp đỡ của thánh thần, thì những kẻ tội lỗi đáng thương như chúng ta sẽ ra sao?

Chú thích:
[1] Super illius Specula!
[2] Một miền đất Hy lạp cổ xưa, tây bắc Attica, thủ đô: Thebes

nguon : vnthuquan.net

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG (ngày thứ ba) – UMBERTO ECO

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 08:24
NGÀY THỨ BA

TỪ KINH NGỢI KHEN ĐẾN KINH ĐẦU

Berengar biến mất,
tìm thấy một mảnh vải vấy máu trong phòng,
và chỉ có thế.

Khi viết những dòng này, tôi cảm thấy mệt mỏi, giống như cảm giác trong đêm hôm đó, hay đúng hơn, trong buổi sáng đó. Biết kể gì đây? Sau Kinh Sớm, Tu viện trưởng phái hầu hết tu sĩ đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng không có kết quả. Ai nấy đều hoảng hốt.
Gần Kinh Ngợi Khen, trong khi đang lục lạo trong phòng Berengar, một tu sĩ tìm thấy dưới tấm đệm một mảnh vải trắng vấy máu. Huynh trình cho Tu viện trưởng và Cha cho đó là một điềm gớm ghiếc nhất. Jorge cũng có đó, và khi người ta kể lại, bèn hỏi: – Máu à? – như thể việc đó hoàn toàn phi lý. Còn Alinardo thì lắc đầu, nói:
– Không, không, hồi kèn thứ ba báo hiệu cái chết trong nước…
Thầy William xem xét mảnh vải và nói: – Giờ thì mọi việc đã sáng tỏ.
Họ hỏi thầy: – Berengar đâu?
Thầy đáp: – Tôi không biết – Aymaro nghe thầy nói bèn ngước mắt lên trời, thầm thì vào tai Peter xứ Sant’ Albano: – Đúng là dân Anh.
Gần Kinh Đầu, khi mặt trời đã lên cao, Tu viện trưởng phái tôi tớ đi tìm kiếm ở chân vực đá và quanh vòng tường ngoài. Đến giờ Kinh Xế Sáng, họ đi về mà không tìm thấy gì cả.
Thầy William bảo chúng tôi cũng chẳng có thể làm gì hơn nên phải chờ dịp. Đoạn thầy đi đến lò rèn, và nói chuyện thật lâu với Nicholas, thợ cả ngành kính.
Tôi ngồi trong nhà thờ trong giờ Kinh lễ, gần bên cửa giữa. Tôi thấy buồn ngủ kinh khủng và đánh một giấc dài, vì người trẻ dường như cần ngủ nhiều hơn người già. Những người già đã ngủ quá nhiều và đang chuẩn bị giấc ngủ nghìn thu.

KINH XẾ SÁNG

Trong phòng thư tịch,
Adso suy ngẫm về lịch sử dòng tu của mình,
và số phận của sách vở.

Ra khỏi nhà thờ, tôi thấy đỡ mệt hơn nhưng đầu óc thì rối mù, chỉ vào ban đêm thân xác mới hưởng được sự nghỉ ngơi thanh thản thực sự. Tôi lên phòng thư tịch và khi được Malachi cho phép, tôi bắt đầu giở xem quyển Thư mục. Tôi vừa mở, vừa lơ đãng liếc nhìn các trang sách, nhưng thực tình tôi đang quan sát các tu sĩ.
Thái độ điềm tĩnh, nghiêm trang của họ khiến tôi cảm phục. Chăm chú vào công việc của mình, họ như quên rằng một người anh em của họ đang được tích cực lùng kiếm khắp nơi, và hai người khác đã mất đi trong cảnh hãi hùng. Tôi tự nhủ, đây chính là sự cao cả của dòng tu chúng tôi: hàng bao thế kỷ nay những con người như họ đã chứng kiến những bọn dã man tràn vào vơ vét tu viện, ném vương quốc vào vực thẳm của lửa thiêu, thế mà họ vẫn ấp ủ bản da, màu mực, vẫn mấp máy đôi môi đọc những hàng chữ đã được lưu truyền qua nhiều thế kỷ và sẽ được lưu truyền qua nhiều thế kỷ và sẽ được lưu truyền lại nhiều thế kỷ tiếp nữa. Họ đã mải đọc và chép vào thời hoàng kim đến; thế sao nay họ lại không tiếp tục nữa?
Mới hôm trước đây, Benno đã nói sẽ sẵn sàng phạm tội để lấy một quyển sách quý. Huynh ấy không nói dối và cũng chẳng đùa. Một tu sĩ ắt hẳn yêu sách với lòng khiêm cung, khao khát muốn học được điều hay, lẽ phải trong sách, chớ không nhằm thỏa mãn lòng hiếu kỳ của mình. Đối với người phàm tục, ngoại tình là điều quyến rũ; đối với giới tăng lữ, của cải là điều họ khao khát, thì đối với các thầy dòng, kiến thức mới chính là điều mê hoặc họ.
Tôi giở qua những trang Thư mục, và một rừng tựa sách bí ẩn nhảy múa trước mắt tôi: “Quinti Sereni luận về y học”, “Hiện tượng”, “Sổ tay của Q. Iulii Hilarionis về nguồn gốc thế gian”, “Sách của Aesopi luận về động vật tự nhiên”,… (1). Thảo nào các án mạng bí ẩn lại liên quan đến Thư viện. Đối với những con người tận tụy sách đèn này, Thư viện vừa là thiên đàng Jerusalem vừa là địa giới nằm trên biên cương giữa Terra incognita (2) và nấm mồ Hades (3). Họ bị chế ngự bởi những lời hứa hẹn và cấm đoán của Thư viện. Đời họ gắn với nó, vì nó và có lẽ chống lại nó, âm thầm hy vọng một ngày nào đó sẽ phá vỡ được các bí mật của nó. Chẳng lạ gì nếu họ đã liều mạng để thỏa mãn óc hiếu kỳ, hay đã sát nhân để ngăn không cho ai chiếm được điều tuyệt mật của chính họ.
Sự cám dỗ ắt hẳn phải phát sinh từ lòng kiêu hãnh của giới trí thức. Chính những kiến thức mà các tu viện đã tích lũy này được sử dụng như một thứ hàng hóa để trao đổi, là lý do phát sinh lòng kiêu hãnh, là cái cớ để khoe khoang và gây uy tín. Các hiệp sĩ thì phô trương binh giáp cờ xí, còn các Tu viện trưởng thì phô trương các bản viết ngời sáng. Giờ đây, khi các chủng viện đã mất đi cái thế lãnh đạo trong ngành học thì tình trạng còn điên rồ hơn thế nữa. Các trường dòng, phường hội, thành thị, đại học sao chép sách còn giỏi hơn chúng tôi, họ còn làm ra sách mới, và đây có lẽ là nguyên nhân của nhiều nỗi bất hạnh.
Tu viện này có lẽ không bao giờ huênh hoang về sự ưu việt trong việc tạo ra các nền học thuật. Nhưng có lẽ vì lý do đó mà các tu sĩ không còn hài lòng với việc sao chép thiêng liêng nữa. Bị thôi thúc bởi khát vọng về điều tân kỳ, họ cũng muốn viết lên những lời ngợi khen mới lạ về tạo hóa. Nhưng họ không nhận thức rằng, làm như vậy, họ đang khuyến khích sự hủy diệt tính ưu việt của mình vì nếu nền học thuật mới mà họ muốn gây dựng được luân lưu tự do bên ngoài những vòng tường này, thì khi đó sẽ chẳng còn sự phân biệt giữa nơi thiêng liêng này với một trường dòng hay một đại học ở đô thị. Ngược lại, nếu vẫn cô lập thì tu viện sẽ duy trì được uy tín và uy lực toàn vẹn của nó, nó sẽ không bị đồi bại hóa bởi các cuộc tranh cãi và lòng kiêu ngạo – lòng kiêu ngạo này sẽ khiến thói đời soi mói mọi điều huyền bí và cao cả của tu viện. Tôi tự nhủ nguyên nhân của sự yên lặng và bóng tối bao trùm Thư viện chính là việc gìn giữ nền học thuật này. Nền học thuật này chỉ có thể được duy trì không hề suy suyển, nếu người ta ngăn không cho mọi người tiếp cận nó, ngay cả các tu sĩ. Học vấn không phải là đồng bạc cứ mãi nguyên vẹn dù qua bao cuộc bán buôn ô trọc, thực ra nó giống như một cái áo đẹp, khi mặc hay phô diễn sẽ mòn dần. Một quyển sách không tương tự như thế sao? Nếu qua nhiều bàn tay, các trang giấy sẽ nhầu nát, mực nhũ sẽ phai mờ. Tôi thấy Pacificus xứ Tivoli giở một quyển sách xưa, có những trang dính cứng với nhau vì ẩm ướt. Huynh ấy liếm ngón tay để lật trang, mỗi khi trang giấy thấm nước bọt, nó trở nên mềm nhũn. Mở sách ra có nghĩa là xếp sách lại: để cho khí và bụi tha hồ bào mòn các nếp nhuyễn trong bản da và làm mốc meo những góc trang đã thấm nước miếng. Cũng như sự ngọt ngào thái quá khiến chiến sĩ yếu mềm và bất lực, óc hiếu kỳ và sự thích thú chiếm hữu sẽ mở đường cho bệnh tật tấn công và tiêu diệt cuốn sách.
Thế thì phải làm gì? Thôi đọc sách và chỉ bảo quản nó? Tôi e ngại có đúng không? Thầy tôi sẽ nói gì?
Cạnh bên, tôi trông thấy Sư huynh viết đề mục, Magnus xứ Iona, vừa mới dùng đá mài cạo xong một mảnh da bê và đang lấy phấn nhồi nó cho mềm, để rồi sẽ dùng thước vuốt thẳng nó. Bên cạnh Huynh ấy là Rabano xứ Toledo, sau khi gắn bản da lên bàn, giờ đang đục những lỗ li ti hai bên lề để dùng bút sắt kẻ những đường ngang mảnh da. Tôi thầm nghĩ: hai Sư huynh đang trải qua những giờ phút trên thiên đàng hạ giới, họ làm ra những quyển sách mới giống như những quyển sách khác mà nhiên hậu sẽ bị thời gian tàn phá… Do đó, Thư viện không thể bị một thế lực trần gian nào đe dọa nó, vì nó là một sinh linh. Nhưng nếu nó đang sống, tại sao người ta không rộng mở nó để mạo hiểm đón nhận kiến thức? Có phải đó là điều Benno muốn và có lẽ Venantius cũng đã muốn?
Tôi cảm thấy hoang mang và sợ hãi chính suy nghĩ của mình. Có lẽ tư duy này không thích hợp với một tu sinh, một người phải mãi mãi nghiêm túc và khiêm tốn theo Giáo Luật. Về sau, tôi thực hiện điều đó trong khi quanh tôi thế gian chìm đắm ngày càng sâu hơn vào cơn bão máu và cuồng loạn.
Đã đến giờ ăn trưa. Tôi vào bếp và được cho những miếng ngon nhất, vì bây giờ tôi đã trở thành bạn của những người nấu nướng.

Chú thích:
(1) “Quiniti Serini de medicaments”, “Phaenomena”, “Libellus Q. Iulii Hilarionis de origine mundi”, “Liber Aesopi de natura animalium”;
(2) Vùng đất hoang hay lãnh vực chưa được nghiên cứu.
(3) Theo Thánh kinh, đây là nơi an nghỉ của người chết.

KINH TRƯA

Lời Salvatore tâm sự với Adso,
không thể tóm tắt được trong vài chữ,
nhưng khiến tu sinh này trầm tư nghĩ ngợi.

Khi đang ăn, tôi thấy Salvatore ngồi trong một góc đang hí hửng ngấu nghiến một miếng thịt cừu, rõ ràng là đã làm hòa với đầu bếp. Huynh ấy ăn như thể suốt đời chưa bao giờ được ăn, không để rơi một vụn thịt, dường như tạ ơn trên đã ban cho mình một dịp khác thường này.
Huynh ấy nháy mắt với tôi và nói bằng ngôn ngữ kỳ lạ của Huynh rằng mình ăn bù những năm ăn chay. Tôi hỏi Huynh kể tôi nghe về thời thơ ấu đau thương của mình trong một ngôi làng, nơi khí hậu khắc nghiệt, mưa gió thường xuyên, nơi đồng ruộng thối rữa, bầu trời bị ô nhiễm bởi tử khí. Năm nào cũng có lụt, đồng ruộng không có luống cày, gieo một đấu lúa chỉ gặt được một lon, rồi chẳng còn gặt được gì cả. Ngay cả lãnh chúa mặt cũng trắng dã như dân nghèo, mặc dù bần cố nông chết nhiều hơn địa chủ, có lẽ vì họ đông hơn… Một lon thóc giá mười lăm xu, một đấu sáu mươi xu, các thầy giảng bảo đã tận thế, nhưng ông bà cha mẹ Salvatore nhớ thời xưa cũng lâm vào tình cảnh như vậy, nên bèn kết luận rằng thế giới luôn luôn sắp tận. Sau khi họ ăn tất cả các xác chim và thú vật dơ bẩn tìm thấy được, người ta đồn rằng trong làng có người sắp sửa đào xác chết lên. Salvatore diễn tả hùng hồn như một kịch sĩ về hành động của những “Homeni malissimi” (1) đó. Sau một đám ma nào đó, họ lấy tay đào mồ – Bụp! – Huynh nói và cắn một miếng thịt cừu, nhưng tôi thấy mặt Huynh nhăn nhó như một kẻ tuyệt vọng đang ăn xác chết. Thế rồi chưa thỏa mãn với chuyện đào bới đất thiêng, có kẻ còn tệ hơn, phục trong rừng để vồ lấy khách lữ hành như bọn thảo khấu, – Phạch: – Salvatore nói và đưa dao lên cổ – Phụp! – Và bọn xấu xa đê hèn nhất là bọn bám theo mấy đứa bé, cho tụi nó quả trứng hay trái táo, rồi ăn thịt chúng, thế nhưng lúc nào cũng có nấu nướng hẳn hoi. Huynh kể chuyện, có một người về làng bán thịt nấu chín giá vài xu, không ai hiểu sao lại có dịp may hiếm có như thế, rồi một linh mục bảo đó là thịt người, kẻ đó liền bị đám đông phẫn uất xé tan thành từng mảnh. Thế nhưng, cũng chính đêm đó, có một người đi đào mồ của nạn nhân bị giết, rồi ăn thịt kẻ ăn thịt người. Dân làng phát giác tại chỗ và giết gã luôn.
Salvatore không chỉ kể một chuyện này. Bằng giọng nhát gừng, dùng thổ ngữ miền Provence và nước Ý, Huynh kể cho tôi nghe chuyện mình bỏ làng đi chu du thiên hạ. Thật thà nhưng không đần độn, Huynh khao khát một thế giới mới, một thế giới phồn hoa tưởng tượng, có phô-mai to như bánh xe, dồi thơm phức mọc trên cây tươm mật.
Thôi thúc bởi khát vọng đó, Salvatore lang thang qua nhiều vùng đất khác nhau, từ quê hương Montfrerrat đến Liguria, rồi xuyên qua Provence đến dải đất của Hoàng đế Pháp. Salvatore lang thang thất thểu khắp nơi, ăn xin, ăn trộm, giả bệnh, làm tôi tớ cho lãnh chúa rồi lại vào rừng, ra lộ, chung chạ với những bọn đầu đường xó chợ, du thủ du thực khắp Âu châu.
Theo chỗ tôi còn nhớ, cách đây khoảng ba mươi năm, Huynh nhập dòng Khất thực ở Tuscany và tại đó, Huynh đã khoác chiếc áo tu của dòng Thánh Francis mà không thụ giới. Tôi nghĩ Huynh đã học bập bẹ tiếng La-tinh ở đó, trộn lẫn nó với tất cả những ngôn ngữ của những xứ Huynh đã đi qua khi còn là một kẻ lang thang nghèo đói, với tiếng nói học được từ bọn bạn đường du thủ du thực, từ bọn làm thuê ở quê tôi đến bọn Bogomil ở Palmatia. Tại tu viện, Huynh tự nguyện sống một đời sám hối, nhưng các tu sĩ sống chung với Huynh có những ý tưởng hoang mang. Phẫn nộ vì một giáo sĩ ở nhà thờ kế bên bị buộc tội ăn cắp đê hèn, họ tấn công nhà ông ta, rượt đuổi ông chạy nà xuống cầu thang và kẻ phạm tội ngã chết, đoạn họ vơ vét của cải. Vì thế giám mục phái vệ binh đến để giải tán các tu sĩ. Rốt cuộc, Salvatore lại đi lang thang ở miền Bắc nước Ý, nhập bọn với tu sĩ Anh em nghèo khó hay dòng Khất thực, lúc đó chưa có kỷ cương hay giáo luật chi cả.
Từ đó, Huynh lánh thân trong vùng Toulouse rồi dấn thân vào một cuộc phiêu lưu lạ lùng, lòng sục sôi khi nghe câu chuyện về những sự nghiệp vĩ đại của Thập tự quân. Một đoàn người chăn cừu và đám đông quần chúng một hôm tụ tập lại để vượt biển và chống lại kẻ thù của Chúa. Thật ra họ muốn thoát khỏi vùng đất khốn khổ của mình. Có hai người lãnh đạo nhồi nhét vào đầu họ những luận thuyết giả trá. Hai kẻ này kích động những người dân chất phác đến nổi điên lên, đến nỗi họ lũ lượt theo chúng, không đem tiền bạc, chỉ có bị gậy, bỏ ruộng đồng, ngoan ngoãn đi theo chúng như đàn cừu, tạo nên một đám đông vĩ đại. Lúc này họ chẳng màng gì đến công lý, lẽ phải gì nữa, mà chỉ theo sức mạnh và tính bốc đồng của mình. Với hy vọng mong manh về miền đất hứa, họ như một lũ say, ào ạt tràn vào các làng mạc, thành thị, vơ vét mọi thứ, nếu ai bị tống giam thì họ sẽ phá ngục giải thoát kẻ ấy. Họ giết và lột sạch của cải của người Do thái khắp nơi.
Thế rồi vua Pháp cảnh báo họ đã đi quá xa và ra lệnh cho dân các thành phố họ đi qua phải chống lại họ. Ngài tuyên bố rằng, ngay cả dân Do thái cũng phải được bảo vệ như là thần dân của Ngài vậy. Vua ra lệnh xử tử những ai giúp đỡ nhóm Chăn chiên, và chiêu mộ một đạo quân hùng hậu để đánh lại họ. Nhiều người bị giết, những người khác bôn tẩu, vào rừng ẩn náu, rồi cũng chết vì cực khổ. Chẳng bao lâu, họ bị tiêu diệt. Tướng của nhà vua bắt treo cổ mỗi lần hai mươi hay ba mươi người lên những cành cây cao nhất để làm gương cho những ai dám gây bạo loạn trong vương quốc.
Điều bất thường là Salvatore đã miêu tả cho tôi về cuộc bạo loạn của nhóm Chăn Chiên như một sự nghiệp cao cả nhất, vì Huynh ấy vẫn cứ tin rằng cái gọi là nhóm Chăn Chiên đã chủ tâm chinh phục lại thánh địa của Chúa, để giải phóng nó khỏi bọn vô thần. Dầu sao, Salvatore vẫn chưa gặp được bọn vô thần, vì đã vội vã rời đất Pháp. Huynh ấy đến vùng Novara, nhưng chỉ biết lờ mờ về những biến cố ở đấy. Cuối cùng, Huynh đến Casale, được nhận vào dòng Khất thực (tôi nghĩ Huynh gặp Remigio ở đây). Lúc đó, nhiều người bị Giáo hoàng khủng bố đến nỗi phải thay áo dòng, ẩn náu trong các chủng viện của các dòng tu khác, để tránh không bị đưa lên dàn hỏa. Ubertino cũng đã kể cho chúng tôi nghe như thế. Nhờ sành nhiều thủ thuật nên Salvatore được viên quản hầm thâu nhận ngay làm người trợ lý riêng. Thế nên huynh đã nhiều năm lưu lại đây, không quan tâm mấy đến sự long trọng của dòng, nhưng để tâm nhiều đến sự quản trị của nhà hầm và kho thực phẩm, nơi Huynh được ăn tha hồ và được cầu Chúa mà không phải lên dàn hỏa.
Tôi tò mò nhìn Huynh, không phải vì những điều kỳ quái Huynh đã trải qua, mà vì những điều đã xảy ra đối với Huynh, theo tôi, là một bản tóm tắt tuyệt vời các biến cố và các phong trào đã biến nước Ý lúc bấy giờ thành một nơi quyến rũ và bí ẩn.
Có thể rút tỉa gì từ những câu chuyện đó? Hình ảnh một người sống đời phiêu bạt, có thể giết người mà không nhận thức được tội ác của mình. Mặc dầu lúc bấy giờ tôi quan niệm mọi vi phạm Luật Chúa đều giống nhau, tôi bắt đầu hiểu được vài hiện tượng người ta bàn đến. Một đám đông, trong cơn hưng phấn cuồng loạn lẫn lộn luật Quỷ với luật Chúa, phạm tội thảm sát thì hoàn toàn khác với một cá nhân giết người có tính toán lạnh lùng, không gớm tay. Tôi nghĩ, linh hồn Salvatore có thể đã bị hoen ố vì một tội ác như thế.
Mặt khác, tôi cũng muốn tìm hiểu về những lời bóng gió của Tu viện trưởng; tôi còn bị ám ảnh bởi Fra Dolcino, người mà tôi hầu như mù tịt không biết gì cả, dù hồn ma của ông dường như bay lởn vởn trên những câu chuyện tôi nghe được mấy ngày vừa qua.
Thế nên tôi bèn hỏi thẳng Salvatore: – Trong những ngày phiêu bạt, có bao giờ Huynh gặp Fra Dolcino không?
Phản ứng thật lạ thường: Salvatore trợn trừng đôi mắt lên, liên tục làm dấu Thánh giá, lẩm bẩm những câu đứt đoạn bằng một thứ tiếng mà lần này tôi hoàn toàn không hiểu gì cả. Những câu nghe như phủ nhận. Từ nãy giờ, Huynh vẫn nhìn tôi một cách tin cậy, có thể nói là thân thiện: nhưng ngay lúc này, Huynh nhìn tôi đầy giận dữ, rồi viện cớ bỏ đi.
Bây giờ thì tôi không thể nén lòng được nữa. Người tu sĩ ấy là ai mà khiến mọi người khi nghe nhắc đến tên đều kinh sợ? Sôi sục muốn tìm hiểu, tôi quyết định không chần chừ thêm nữa. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi. Ubertino! Chính Huynh ấy đã thốt lên cái tên này ngay đêm đầu tiên gặp chúng tôi, Huynh tường tận mọi nỗi thăng trầm, công khai cũng như bí mật của các tu sĩ, thầy dòng, và các giới hành đạo khác trong những năm vừa qua. Giờ này, tôi có thể tìm Huynh ấy ở đâu? Chắc chắn trong nhà thờ, chìm đắm trong kinh cầu. Vì đang rảnh rỗi, tôi bèn đến đấy.
Tôi không gặp Huynh ấy! Thật ra, mãi đến tối, tôi mới gặp. Sự tò mò của tôi chưa được giải tỏa thì biến cố khác đã xảy ra, và tôi phải kể đấy.

Chú thích:

(1) Kẻ ác

KINH XẾ TRƯA

William nói với Adso về chức năng
của quần chúng trong Giáo hội,
nỗi hoài nghi của mình
về khả năng hiểu biết luật trời đất.
Và nói thêm cách ông đã giải mã
các dấu hiệu đồng cốt do Venantius để lại.

Tôi thấy thầy William nơi lò rèn đang say sưa bàn việc với Nicholas. Trên bàn có bày một số tròng kính nhỏ. Thầy William đưa chúng lên xem thử. Còn Nicholas thì chỉ vẽ cho thợ rèn làm một chiếc gọng để ráp tròng kính vào.
Thầy William đang càu nhàu bực bội vì cặp kính được nhất tự nãy giờ có màu xanh lục, mà thầy thì không muốn bản da hiện ra như cánh đồng trước mắt mình. Nicolas đi ra và giám sát các thợ rèn. Trong khi thầy thử mắt kính, tôi kể thầy nghe câu chuyện của Salvatore.
Thầy nói: – Người ấy có nhiều kinh nghiệm. Có lẽ Huynh ấy đã ở với dòng Dolcino. Tu viện quả thực là một thế giới thu hẹp, khi nào sứ giả Giáo hoàng John và Sư huynh Michael đến đây thì đúng là đầy đủ các giới.
Thầy William yên lặng một lúc, đưa cặp kính lên đèn quan sát. Rồi thầy đặt kính xuống bàn và bảo tôi nhìn xuyên qua mắt kính để xem xét dụng cụ – Xem này, con thấy gì đây?
– Dụng cụ trông lớn hơn một chút
– Đấy, giỏi lắm (thế?) là chúng ta có thể nhìn sát hơn
– Nhưng dụng cụ trông vẫn như vậy mà!
– Nhưng bản chép của Venantius cũng vẫn nguyên trạng thôi, nhưng nhờ có kính, thầy mới đọc nó được. Có lẽ khi đọc nó xong, thầy sẽ biết rõ hơn một phần sự thật. Và có lẽ ta sẽ làm đời sống ở tu viện này tốt hơn.
– Nhưng như thế cũng chưa đủ!
– Adso ạ, thầy đã nói hơi nhiều. Đây không phải là lần đầu tiên thầy nói với con về Roger Bacon. Có lẽ ông ấy không phải là người khôn ngoan nhất ở đời, nhưng thầy luôn luôn bị mê hoặc bởi nguồn hi vọng đã làm khơi dậy niềm say mê học hỏi của ông ta. Bacon tin vào sức mạnh, vào nhu cầu và tinh thần sáng tạo của quần chúng. Nếu ông không nghĩ rằng những người nghèo, những người bị ruồng bỏ, những người dốt nát và thất học thường kính Chúa tại tâm, thì ông đã không thể là một tu sĩ Francisco tốt được. Quần chúng có một cái gì đó hay hơn các học giả uyên thâm, những người hay lạc lối trong công cuộc tìm kiếm những quy luật tổng quát, bao la. Quần chúng nắm vững một chân lý của chính họ, có lẽ còn chân chính hơn chân lý của các học giả trong Giáo hội, nhưng rồi họ lại tiêu diệt nó một cách vô thức. Thế phải làm gì? Giáo dục quần chúng ư? Dễ quá hay khó quá đây. Những thầy dòng Franciso đã suy ngẫm về vấn đề này. Bonaventura vĩ đại (1) đã nói rằng, người khôn phải làm nổi bật các quan niệm trong sáng bằng chân lý tiềm ẩn trong hành động của quần chúng…
Bacon nghĩ rằng nền khoa học tự nhiên mới phải là một công trình vĩ đại mới, đầy táo bạo của giới trí thức, để kết hợp với các nhu cầu căn bản tượng trưng cho hàng loạt kỳ vọng, tuy hỗn độn nhưng chân chính, của quần chúng, bằng một con đường hiểu biết khác về các quy trình tự nhiên. Nền khoa học mới sẽ là một phép lạ tự nhiên mới. Theo Bacon, sự nghiệp này phải do Giáo hội lãnh đạo, Nhưng thầy tin rằng ông nói thế vì thời ấy cộng đồng tăng lữ được đồng hóa với cộng đồng giới trí thức. Ngày nay thì không phải như vậy nữa: giới trí thức trưởng thành bên ngoài các chủng viện và giáo đường, thậm chí bên ngoài đại học nữa. Vì thầy và bằng hữu của thầy ngày nay tin rằng Giáo hội không nên ban luật quản lý việc đời, mà nên để đa số quần chúng quyết định. Rồi trong tương lai, cộng đồng của giới trí thức sẽ phải đề xướng một nền thần học mới đầy tính nhân đạo, đó sẽ là một triết lý tự nhiên và một phép lạ tích cực.
– Quả là một sự nghiệp tuyệt vời, nhưng có thể thực hiện được không?
– Bacon nghĩ được.
– Còn thầy?
– Thầy cũng nghĩ thế. Nhưng nếu tin như vậy, chúng ta phải chắc chắn răng quần chúng có quyền sở hữu ý thức cá nhân, vốn là điều thiện duy nhất. Tuy nhiên, nếu ý thức cá nhân là điều thiện duy nhất thì làm thế nào khoa học có thể thành công trong việc sắp xếp lại các luật trời đất, mà nhờ chúng, phép lành mới thực hiện được chức năng của mình.
– Vâng, làm thế nào nhỉ?
– Thầy cũng chẳng biết. Tại Oxford, thầy đã tranh luận với bạn thầy là William xứ Occam, hiện đang ở Avignon. Người ấy đã gieo vào tâm trí thầy nhiều mối hoài nghi. Nhưng, nếu chỉ có ý thức cá nhân là chính đáng thì rất khó chứng mình giả thuyết các nguyên nhân tương tự sẽ phát sinh hậu quả tương tự. Một cá nhân có thể khi thì lạnh lùng, khi nóng bỏng, khi ngọt ngào, khi cay đắng, khi ướt át, khi khô cằn, ở nơi này – chứ không phải ở nơi kia. Làm sao thầy có thể khám phá mối liên hệ trong vũ trụ đang chi phối mọi vật thể, nếu thầy không nhắc ngón tay mà không tạo ra vô tận những thực thể mới. Vì với một động tác như thế, tất cả sự tương quan giữa vị trí ngón tay thầy với tất cả các vật thể khác sẽ thay đổi. Mối tương quan này là cách mà tâm trí thầy nhận thức được sự liên hệ giữa các thực thể đơn lẻ, nhưng cái gì bảo đảm rằng điều này có tính ổn định và chung nhất?
– Nhưng thầy biết kính có độ dày nào đó sẽ tương ứng với một độ mắt nào đó, và vì thầy biết được như thế nên thầy có thể làm bất kỳ cặp kính nào giống như cặp kính thầy đã mất.
– Adsom con đối đáp rất sắc sảo. Thực ra, thầy đã luận ra giả thuyết này: độ dày của kính nhất thiết phải tương ứng với độ mắt. Mọi tròng mắt làm theo nguyên tắc này đều tăng thị lực theo một mức độ như nhau. Nền khoa học mà Bacon nói đến, chắc hẳn phải dựa trên cơ sở của những giả thuyết này. Con biết không, Adso, thầy phải tin rằng giả thuyết của thầy đúng, vì thầy đã rút tỉa được nó từ kinh nghiệm; nhưng để tin nó, thầy phải cho rằng có luật trong vũ trụ. Thế nhưng thầy không thể lên tiếng về những luật này vì chính quan niệm về sự hiện hữu của quy luật trong vũ trụ và một trật tự sẵn có sẽ hàm ý nói rằng Thượng đế là tù nhân của chúng, trong khi đó Chúa là một cái gì đó tuyệt đối tự do, và nếu Ngài muốn, chỉ cần nhấc một ngón tay là có thể biến đổi cả thế giới.
– Và như thế, nếu con không lầm, thầy hành động và hiểu tại sao mình lại hành động, nhưng thầy không biết tại sao mình biết rằng mình biết việc mình làm?
Tôi phải tự hào nói rằng thầy William thán phục nhìn tôi:
– Có lẽ như thế đấy. Dầu sao, nó cho con thấy tại sao thầy vẫn thấy hoài nghi chính cái chân lý thầy tin tưởng.
– Thầy còn bí hiểm hơn cả Ubertino!
– Có thể. Như con biết, thầy nghiên cứu sự vật trong tự nhiên.. Trong cuộc điều tra chúng ta đang tiến hành, thầy không muốn biết ai thiện, ai ác, nhưng muốn biết đêm qua ai ở trong phòng thư tịch, ai trộm cặp kính của thầy, ai để lại dấu vết một người kéo một người khác trên tuyết, và Berengar ở đâu. Đấy là những dữ kiện. Sau đó, nếu có thể thầy sẽ cố liên kết chúng lại với nhau. Một sự can thiệp siêu nhiên cũng đủ làm thay đổi mọi thứ và dù mình luôn cố gắng như bây giờ đi nữa thì chẳng lạ gì nếu không thể chứng minh việc này là nguyên nhân của một việc kia.
– Đời thầy vất vả quá.
– Nhưng thầy đã tìm ra Brunellus, – thầy William la lên, hồi tưởng lại chuyện con ngựa cách đây hai ngày.
Tôi đắc thắng reo lên: – Như thế có nghĩa là có một trật tự trong thế giới!
– Như thế có một ít trật tự trong cái đầu đáng thương của thầy.
Đến đây, Nicholas trở lại, tay cầm một chiếc gọng làm gần xong, giơ nó lên cao với vẻ đắc thắng – Thầy William bảo:
– Khi chiếc gọng này nằm trên chiếc mũi đáng thương của tôi, có lẽ cái đầu của tôi cũng trở nên trật tự hơn.
Một tu sinh đến, bảo Tu viện trưởng mong gặp thầy và đang đợi trong vườn. Khi chúng tôi dời gót, thầy William vỗ trán như thể chợt nhớ ra một điều gì đó. Thầy nói:
– À, thầy đã giải mã được các dấu hiệu thần bí của Venantius.
– Giải hết tất cả à? Khi nào thế?
– Khi con đang ngủ. Cũng còn tùy con hiểu chữ “tất cả” như thế nào. Thầy đã giải mã các dấu hiệu hiện lên nhờ ngọn lửa mà con sao lại. Còn các ghi chú bằng tiếng Hy Lạp thì phải đợi đến khi thầy có kính mới.
– Sao? Có phải đó là bí mật của “Tận cùng Phi Châu” không?
– Phải, và cách giải cũng khá dễ. Venantius đã dùng mười hai dấu hiệu hoàng đạo và tám dấu hiệu khác: gồm năm hành tinh, hai thể sáng và quả đất. Tất cả có hai mươi dấu hiệu. Đủ để liên hệ với các mẫu tự La tinh, vì mình có thể dùng một mẫu tự để diễn tả âm thanh của hai chữ đầu của “unum” và “velut”. Chúng ta biết trật tự của các mẫu tự. Thế thì trật tự của những dấu hiệu thì sao? Thầy đã nghĩ đến trật tự của trời đất, nên đặt một phần tư vòng hoàng đạo ở cạnh xa nhất. Vậy ta có: Quả đất, Mặt trăng, Sao Thủy, Sao Kim, Mặt trời, v.v…và sau đó, đặt những dấu hiệu hoàng đạo theo thứ tự thông thường, như Isidore xứ Seville đã sắp xếp chúng. Bắt đầu bằng Dương Cưu và Xuân Phân, chấm dứt với Song Ngư. Bây giờ, nếu con thử cách giải này thì thông điệp của Venantius sẽ có nghĩa.
Thầy đưa tôi xem bản da, trên đó thầy đã dùng mẫu tự La tinh để phiên nghĩa: “Secretum finis africae manus supra idolum age primum et septimum de quatuor” (2). Thầy hỏi:
– Có rõ chưa?
– Đặt tay lên thần thứ nhất và thứ bảy của thứ tư – tôi lập lại, lắc đầu – Chẳng rõ chút nào cả!
– Thầy biết. Điều đầu tiên chúng ta phải biết là Venantius muốn nói gì với từ “Idolum”. Một hình ảnh, một hồn ma, hay một nhân dạng? Và “cái thứ tư” là cái gì mà có “cái thứ nhất” và “cái thứ bảy”? Chúng ta phải làm gì với chúng? Di chuyển chúng, đẩy chúng hay kéo chúng?
Tôi nản lòng nói: – Như thế chúng ta vẫn chưa biết gì, cứ như lúc mới khởi sự.
Thầy William dừng bước và nhìn tôi với vẻ hơi khe khắt và nói: – Con này, trước mặt con là một tu sĩ Francisco đáng thương, với sức học khiêm tốn và chút tài mọn được sức mạnh bao la của Thượng đế ban cho, trong vài giờ đồng hồ đã giải được một mật mã mà người viết đoán chắc trừ mình ra sẽ không ai đọc được… Còn con, anh chàng phàm phu dốt nát tồi tệ, lại dám nói chúng ta vẫn còn như lúc mới khởi sự ư?
Tôi vụng về xin lỗi thầy. Tôi đã làm tổn thương tính tự cao của thầy, thế nhưng tôi biết thầy tự hào biết bao về tài suy diễn nhanh chóng và chính xác của mình. Thầy quả thật đã hoàn thành một việc đáng nể. Và nếu anh chàng Venantius xảo quyệt không những đã che dấu những phát hiện của mình bằng những mẫu tự hoàng đạo mờ ảo, mà còn chế thêm một câu đố không giải đáp, thì đó không phải là khuyết điểm của thầy.
Thầy William cắt lời: – Không sao, không sao, chớ xin lỗi. Dẫu sao, con cũng có lý. Chúng ta vẫn còn biết quá ít. Đi thôi.

Chú thích:
(1) Bonaventura (1221- 1274): Hồng Y người Ý, một học giả, một nhà văn.
(2) “Bí mật của tận cùng Châu Phi. Đặt tay lên thần thứ nhất và thứ bảy của thứ tư

KINH CHIỀU

Tu viện trưởng một lần nữa
bàn luận với hai vị khách,
thầy William nảy ra ý tưởng độc đáo
về cách giải mã sự bí hiểm trong Mê Cung,
rồi thành công bằng một phương pháp duy lý nhất,
Rồi William và Adso ăn phô-mai nhồi.

Tu viện trưởng, cầm một mẩu giấy trên tay, đợi chúng tôi với vẻ nghiêm nghị, lo âu và nói:
– Cha vừa nhận được một bức thơ từ Tu viện trưởng xứ Conques, trong đó tiết lộ tên của người mà Giáo hoàng John ủy nhiệm cầm đầu toán lính Pháp chịu trách nhiệm về sự an ninh cho đoàn thương thuyết. Hắn không phải là quân nhân, không phải là người của triều đình, nhưng sẽ là một thành viên của phái đoàn.
Thầy William bồn chồn hỏi: – Một sự kết hợp hiếm hoi các nhiệm vụ khác nhau. Ai thế?
– Bernard Gui, hay Bernardo Guidoni, con gọi tên nào cũng được.
Thầy William buột miệng thốt ra một từ bằng ngôn ngữ của thầy, mà cả tôi lẫn Cha bề trên đều không hiểu, nhưng có lẽ thế lại hay; vì cái từ mà thầy William phát ra đó mang một âm rít rất tục tằn.
Thầy tiếp ngay: – Con không thích việc này. Đã nhiều năm nay Bernard là kẻ đi ruồng bắt những tên phản giáo ở miền Toulouse. Hắn đã viết “Sách thực hành những thủ tục tra vấn bọn phản giáo” (1) cho những người có bổn phận đàn áp và tiêu diệt dòng Waldenses (2), Beghard (3), Dolcino và Anh em nghèo khó.
– Cha biết. Cha rõ quyển sách này lắm, vô cùng thông thái.
Thầy William công nhận: – Quyển sách vô cùng thông thái. Bernard rất trung thành với John vì trong những năm gần đây John đã giao cho hắn nhiều sứ mạng ở vùng Flanders và ở miền Bắc nước Ý này. Ngay cả khi được phong Giám mục xứ Galicia, hắn cũng không bao giờ ở trong địa phận của mình và tiếp tục hành chức phán quan. Con tưởng hắn đã về hưu để làm giám mục ở Lodève, nhưng rõ ràng, John đã triệu hồi hắn về làm nhiệm vụ ở miền Bắc nước Ý này. Bộ hết người rồi sao lại chọn Bernard, còn cho hắn cầm đầu binh sĩ nữa…
Tu viện trưởng nói: – Có một câu giải đáp khẳng định tất cả những nỗi sợ hãi Cha đã tỏ với con ngày hôm qua. Dù không thừa nhận, con cũng dư biết rằng quan điểm về sự Cơ nghèo của Chúa Ki-tô và Giáo hội do Đại hội Perugia xướng lên và được rất nhiều luận cứ thần học ủng hộ, cũng đồng thời là những quan điểm do các phong trào phản giáo xướng lên một cách vô cùng phóng túng và không chính thống giáo tí nào. Không cần phải nhấn mạnh rằng quan điểm của Cha Michael xứ Cesena được triều đình công nhận, cũng là quan điểm của Ubertino và Angelus Clarenus. Hai phái đoàn sẽ hội lại để tranh luận về quan điểm này. Nhưng Gui còn có thể làm hơn thế nữa vì hắn khôn khéo: hắn sẽ nhấn mạnh rằng các luận điểm của Đại hội Perugia cũng là luận điểm của dòng Anh em nghèo khó, hay của các tông đồ giả trá.
– Người ta đã tiên đoán điều này. Con muốn nói chúng ta đã biết sự việc sẽ dẫn đến như thế này, dù không có sự hiện diện của Bernard đi nữa. Cùng lắm thì Bernard sẽ hành động đắc lực hơn những người bất lực trong hàng giáo phẩm La Mã, do đó tranh luận với hắn nhất thiết phải dè dặt hơn.
– Đúng. Nhưng đến đây chúng ta lại phải đương đầu với vấn đề nêu lên hôm qua. Nếu cho đến ngày mai, chúng ta vẫn chưa tìm ra người đã phạm hai, hay có lẽ ba, tội ác, thì Cha buộc phải để Bernard hành xử quyền cai quản tu viện. Đối với một người đi điều tra có quyền hành như Bernard, Cha không thể giấu rằng trong tu viện này đã xảy ra, và đang xảy ra, những sự kiện không giải thích được. Bằng không, khi hắn phát giác một bí ẩn mới xảy ra thì hắn có quyền la toáng lên là chúng ta phản bội…
Thầy William lo lắng lẩm bẩm: – Đúng vậy. Nhưng không làm gì được. Có lẽ đó cũng là điều hay; nếu Bernard bận tâm lùng kiếm kẻ sát nhân thì hắn sẽ ít có thời gian tham gia cuộc tranh luận.
– Nên nhớ rằng: việc Bernard đi tìm hung thủ sẽ là một cái gai nhọn đâm vào uy quyền của Cha. Những án mạng gớm ghiếc này buộc Cha lần đầu tiên phải nhượng bộ quyền lực của mình trong tu viện này. Đây là một khúc quanh mới trong lịch sử của tu viện này, lẫn dòng Benedict. Cha sẵn sàng làm bất cứ điều gì để tránh việc này. Berengar đâu? Chuyện gì đã xảy ra cho Huynh ấy? Con đang làm gì?
– Con chỉ là một tu sĩ xưa kia đã thực hiện thành công những cuộc điều tra. Cha biết rằng trong hai ngày không thể tìm ra sự thật. Dẫu sao, Cha đã trao cho con quyền gì? Con có được phép vào Thư viện không? Có được hỏi những câu con muốn? Có luôn được Cha ủng hộ không?
Tu viện trưởng giận dữ đáp: – Cha không thấy có gì liên hệ giữa các án mạng và Thư viện.
Thầy William kiên nhẫn giải thích:- Adelmo là người minh họa, Venantius là một dịch giả, Berengar là phụ tá quản thư viện…
– Nói thế thì tất cả sáu mươi tu sĩ đều có liên hệ với Thư viện, cũng như với nhà thờ vậy. Vậy sao không điều tra nhà thờ? Sư huynh William, con đang nhân danh Cha tiến hành cuộc điều tra trong giới hạn Cha đã đặt ra. Phần còn lại trong giới hạn của những bức tường này, Cha là người tối cao sau Thượng đế, và thọ ơn Ngài. Điều này cũng áp dụng cho cả Bernard nữa. – Bằng một giọng ôn tồn hơn, Tu viện trưởng nói – Dẫu sao, Bernard không nhất thiết phải đến đây để dự họp. Tu viện trưởng xứ Conques viết rằng Giáo hoàng đã yêu cầu Hồng y Bertrand xứ Poggetto từ Bologna đến đây để dẫn đầu phái đoàn Giáo hội. Có lẽ Bernard đến đây để gặp Hồng y.
– Suy rộng ra thì điều này có thể tệ hơn. Bertrand là người ruồng bắt bọn phản giáo ở Trung Ý. Sự đụng độ của hai nhà vô địch diệt phản giáo sẽ báo hiệu một cuộc chống đối sâu rộng trong nước, nhiên hậu sẽ chống lại cả phong trào dòng Francisco…
– Chúng ta sẽ lập tức báo cho Hoàng đế biết việc này. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, chưa có gì nguy hiểm lắm. Chúng ta sẽ đề cao cảnh giác. Tạm biệt.
Khi Tu viện trưởng bỏ đi, thầy William đứng lặng người một lúc, đoạn bảo tôi:
– Adso, trước hết con nên nhớ “dục tốc bất đạt”. Sự việc không thể giải quyết nhanh được, vì có nhiều diễn biến vụn vặt, riêng lẻ phải được sắp xếp với nhau. Thầy phải trở lại phòng thí nghiệm, vì nếu không có kính thì không những thầy không đọc được bản viết, mà có trở lại Thư viện tối nay thì cũng vô ích.
Lúc đó, Nicholas chạy ùa đến chúng tôi, báo tin gở. Trong khi cố mài tròng kính cho đẹp hơn, Huynh ấy đã đánh vỡ nó. Còn một tròng khác có thể thay thế được thì bị nứt khi Huynh cố gắn nó vào gọng. Nicholas ngao ngán chỉ tay lên trời. Gần đến giờ Kinh Chiều, và màn đêm đang buông xuống. Không thể làm gì thêm trong ngày hôm nay được nữa. Thầy William cay đắng công nhận đã mất thêm một ngày nữa, và cố đè nén ý muốn bóp cổ Huynh thợ cả ngành kính, dù Nicholas đã thấy nhục nhã lắm rồi.
Chúng tôi bỏ mặc Huynh ấy để đi điều tra về Berengar. Đương nhiên là không ai gặp Berengar cả.
Chúng tôi có cảm tưởng mình đi cùng đường, bèn đi lang thang trong nhà nguyện, chẳng biết nên làm gì nữa. Bỗng nhiên tôi thấy thầy William đắm chìm trong suy nghĩ, mắt trừng trừng nhìn lên trời. Trước đó, thầy rút từ trong áo dòng ra một nhánh cây thuốc thầy đã hái cách đây mấy tuần, và thầy đang nhai nó như thể nó gây cho thầy một cơn hưng phấn dìu dịu. Thầy trông có vẻ mơ màng, nhưng chốc chốc đôi mắt lại bừng sáng, dường như trong khoảng chân không của đầu óc thầy đã lóe lên một ý mới. Rồi một lần nữa thầy lại đắm chìm vào trạng thái ngầy ngật kỳ quặc, tuy vẫn động não. Đột nhiên thầy nói:
– Đương nhiên, ta có thể…
– Cái gì?
– Thầy đang nghĩ cách để định vị trí của chúng ta trong Mê Cung. Không đơn giản nhưng hữu hiệu… Rốt cuộc, chúng ta biết lối ra ở tháp phía Đông. Giả sử ta có một cái máy chỉ cho ta hướng Bắc thì sẽ thế nào?
– Dĩ nhiên, ta chỉ cần quay về bên phải là hướng về phía Đông. Hay là chỉ cần đi ngược chiều lại là ta biết đang hướng về ngọn tháp phía Nam. Nhưng giả sử có phép màu đó đi nữa thì Mê Cung cũng vẫn là Mê Cung, ngay trong khi chúng ta trực chỉ hướng Đông thì sẽ va phải một bức tường không cho ta tiến thằng tới, và chúng ta sẽ lạc đường nữa.
– Phải, nhưng cái máy mà thầy nói luôn luôn chỉ hướng Bắc, ngay cả khi chúng ta thay đổi lộ trình và ở mọi điểm, nó sẽ chỉ cho chúng ta nên quay hướng nào.
– Thế thì tuyệt quá. Nhưng chúng ta phải có máy đó và nó sẽ chỉ ta hướng bắc vào ban đêm hay khi ở trong nhà, không cần có mặt trời, mặt trăng gì cả… Và con tin rằng ngay cả thầy Bacon cũng không có một cái máy như thế – tôi cười nói.
– Con đã lầm, người ta đã làm một cái máy như thế rồi, và vài nhà hàng hải đã sử dụng nó. Máy này không cần trời trăng vì nó khai thác sức mạnh của một loại đá kỳ diệu, như viên đá ta đã thấy trong bệnh xá của Severinus, nó hút sắt. Bacon và một nhà ảo thuật xứ Picardy, Pierre de Marricourt, đã nghiên cứu và miêu tả nhiều cách sử dụng của nó.
– Nhưng thầy có làm được nó không?
– Công việc tự nó không khó. Loại đá đó có thể sử dụng để tạo ra nhiều điều kỳ diệu, kể cả làm một cái máy chuyển động vĩnh viễn mà không cần lực bên ngoài. Nhưng Baylek al-Quabayaki, một người Ả Rập, đã miêu tả một phát hiện đơn giản nhất. Lấy một cái chậu nước rồi thả nổi một nút chai có gắn cái kim sắt. Đoạn rà cục đá nam châm trên mặt nước, cho đến khi cây kim đạt được cùng một tính chất như đá. Đến lúc này, cây kim sẽ quay chỉ hướng bắc và nếu người ta có dời cái chậu đi đâu nữa thì cây kim vẫn luôn quay về phía gió bắc. Rõ ràng, nếu đầu con luôn luôn nhớ hướng bắc và có đánh dấu trên thành chậu vị trí của các hướng đông, nam, tây, con sẽ luôn luôn biết nên rẽ hướng nào trong thư viện để đến tháp đông.
Tôi thốt lên: – Thật là kỳ diệu! Tại sao kim luôn luôn chỉ về phương Bắc. Con thấy cục đá hút sắt và con tưởng rằng một lượng sắt lớn hút cục đá. Như thế… ở hướng sao Bắc đẩu, là hướng tận cùng của mặt đất (4), hẳn phải có một mỏ sắt vĩ đại!
– Thực ra đã có người nêu lên lời giải thích như thế.
Tôi phấn khởi nói: – Vậy bây giờ ta lấy viên đá của Severinus, một cái chậu, một ít nước và một nút chai đi.
– Khoan đã. Thầy không hiểu sao, chứ thầy chưa bao giờ thấy một cái máy vận hành kỹ thuật một cách hoàn hảo, mặc dầu các triết gia đã miêu tả nó như vậy. Trong khi đó một cái lưỡi hái của người nông dân, tuy chưa hề được một triết gia nào mô tả, vẫn luôn luôn hoạt động tốt. Thầy e rằng đi lòng vòng trong Thư viện, một tay cầm đèn, một tay bưng chậu nước, thì… Khoan! Thầy có một ý. Cái máy sẽ chỉ hướng bắc dù ta ở ngoài Mê Cung, phải không?
– Vâng, nhưng ở ngoài thì ta đâu có cần nó, vì đã có mặt trời và sao rồi.
– Thầy biết, thầy biết. Nhưng nếu máy móc có thể hoạt động cả trong nhà lẫn ngoài trời, thì sao đầu óc ta không hoạt động được như thế?
– Đầu óc chúng ta à? Dĩ nhiên, chúng có thể hoạt động ngoài trời, và thực ra từ bên ngoài chúng ta biết rất rõ vị trí của Đại dinh! Nhưng khi vào trong thì chúng ta bị lạc hướng.
– Chính vậy. Nhưng bây giờ hãy tạm quên cái máy ấy! Suy nghĩ về cái máy đã dẫn thầy nghĩ đến luật thiên nhiên và luật tư tưởng. Vấn đề là thế này: từ bên ngoài, chúng ta phải tìm cách miêu tả được bên trong của Đại dinh…
– Nhưng làm thế nào?
– Chúng ta sẽ sử dụng toán học. Như Averroes (5) đã nói, chỉ có trong toán học, những điều ta biết mới đồng dạng với những điều tuyệt đối đúng.
– À, như thế thầy cũng phải công nhận có vũ trụ quan.
– Khái niệm toán học là những luận điểm được các học giả đặt ra theo một cách khiến chúng luôn luôn trở thành chân lý, vì những khái niệm này đã sẵn có, hay vì toán học đã được nghĩ ra trước các khoa học khác. Thư viện được xây dựng bởi đầu óc con người nghĩ theo kiểu toán học, vì nếu không có toán học, người ta sẽ không thể xây Mê Cung được. Thế nên chúng ta phải so sánh luận điểm toán học của chúng ta với luận điểm của nhà xây dựng đó và từ sự so sánh đó có thể sản sinh ra khoa học, vì đó là khoa học của điều kiện dựa trên điều kiện. Dầu sao, thôi đừng có kéo thầy vào những cuộc thảo luận về Siêu hình học nữa. Hôm nay, con bị quỷ gì ám vậy? Thôi được, mắt con còn tinh, hãy đi lấy cho thầy một bản da, một bảng nhỏ, một vật có thể đánh dấu vào và một cây bút… Tốt, con có hả? Con giỏi lắm, Adso ạ. Bây giờ còn chút ánh sáng trời, chúng ta hãy đi bách bộ quanh Đại dinh.
Thế là chúng tôi đi vòng quanh hết Đại dinh. Từ đằng xa, chúng tôi quan sát các tháp đông, nam, tây và những bức tường nối liền với nhau. Tháp còn lại mọc trên vực đá, nhưng theo luật cân xứng, nó không thể cao hơn các tháp khác nhiều.
Thầy William quan sát và bảo tôi ghi chú chính xác lên tấm bảng. Chúng tôi thấy mỗi bức tường có hai cửa sổ, mỗi tháp có năm. Thầy tôi bảo:
– Này, suy nghĩ kỹ nhá. Mỗi phòng chúng ta đã thấy đều có một cửa sổ….
– Trừ những phòng có bảy bức tường.
– Dĩ nhiên, đó là những phòng ở giữa ngọn tháp.
– Và, trừ những phòng khác mà chúng ta thấy không có cửa sổ, nhưng không phải hình bảy cạnh như những phòng ở giữa tháp.
– Quên những phòng đó đi. Đầu tiên chúng ta hãy tìm ra một qui luật, rồi sẽ cố giải thích các qui luật sau. Như thế: bên ngoài, mỗi tháp có năm phòng, mỗi bức tường thẳng có hai phòng, mỗi phòng một cửa sổ. Từ một phòng có cửa sổ, chúng ta tiến thẳng vào bên trong của Đại dinh, ta sẽ gặp một phòng có cửa sổ khác. Đó là dấu hiệu có cửa sổ ở phía trong. Bây giờ, nếu nhìn từ nhà bếp và phòng thư tịch thì lồng cầu thang phía trong có hình dáng gì?
– Hình bát giác.
– Hay lắm. Trong phòng thư tịch, mỗi cạnh của hình bát giác có hai cửa sổ. Điều này có nghĩa là có hai phòng bên trong, trên mỗi cạnh của hình bát giác. Đúng không?
– Đúng, nhưng còn những phòng không có cửa sổ thì sao?
– Cả thảy có tám phòng như thế. Phòng bảy cạnh phía trong ngọn tháp có năm bức tường có cửa mở ra năm phòng trong ngọn tháp. Còn đằng sau hai bức tường kia là cái gì? Không phải là những phòng dọc theo bức tường ngoài vì chúng phải có cửa sổ. Cũng không phải là phòng quanh lồng cầu thang hình bát giác, vì không có cửa sổ. Và như thế, chúng sẽ quá dài. Hãy cố vẽ sơ đồ của Thư viện từ trên nhìn xuống. Con sẽ thấy rằng, trong mỗi ngọn tháp phải có hai phòng tiếp giáp với phòng bảy cạnh và có cửa mở ra hai phòng tiếp giáp với lồng cầu thang bát giác ở phía trong.
Tôi thử vẽ một sơ đồ như thầy gợi ý, và đắc thằng reo lên:
– Giờ chúng ta biết hết rồi! để con đếm… Thư viện có năm mươi sáu phòng gồm bốn phòng hình bảy cạnh, và năm mươi hai phòng vuông, chữ nhật, hay hình thang. Trong số này, có tám phòng không có cửa sổ, hai mươi tám phòng có cửa sổ nhìn ra ngoài, và mười sáu cái có cửa sổ nhìn vào trong.
– Mỗi ngọn tháp có năm phòng tứ giác và một phòng bảy cạnh… Thư viện được cấu trúc theo sự hài hòa của thiên đàng, từ đó có thể rút ra nhiều ý nghĩa nhiệm màu khác nhau.
– Quả là một phát hiện tuyệt vời. Nhưng sao khó định vị trí của chúng ta thế?
– Vì sự xếp đặt cửa ra vào không tương ứng với định luật toán học. Vài phòng cho phép chúng ta đi sang các phòng khác, vài cái chỉ vào được một phòng và chúng ta tự hỏi: không biết có những phòng chẳng có lối thoát nào ra phòng khác chăng? Điều bí hiểm này, cộng thêm sự thiếu ánh sáng, thiếu định hướng của mặt trời, các ảo giác và gương ma, khiến Mê Cung gây hoang mang cho bất kỳ ai đi len lỏi trong nó, nhất là người mang mặc cảm phạm tội. Hãy nhớ xem, đêm qua chúng ta tuyệt vọng biết bao khi không tìm được lối ra. Cấu trúc càng phức tạp thì sự hoang mang càng lớn, quả là một sự tính toán tối ưu. Những người xây cất Thư viện này đúng là những bậc thầy vĩ đại.
– Thế chúng ta làm sao định hướng được?
– Bây giờ thì không còn khó nữa. Sơ đồ con vừa vẽ gần như tương ứng với đồ án của Thư viện. Khi chúng ta lọt vào phòng bảy cạnh đầu tiên, chúng ta sẽ đi ngay đến một căn phòng không có cửa sổ. Luôn luôn rẽ về tay mặt, sau khi qua hai hay ba phòng, chúng ta sẽ lọt vào tháp phía Bắc, cho đến khi chúng ta đi đến một phòng nữa không có cửa sổ, phía trái, tiếp giáp với phòng bảy cạnh. Về phía phải, phòng đó cho phép chúng ta khám phá lại lộ trình tương tự với lộ trình thầy vừa mô tả, cho đến khi chúng ta đến tháp phía tây.
– Thưa phải, nếu tất cả các phòng đều có cửa mở sang phòng khác.
– Quả vậy. Thế nên chúng ta sẽ cần sơ đồ của con để đánh dấu lên đó các bức tường không cửa sổ, do vậy chúng ta sẽ biết mình nên rẽ khúc nào. Điều đó sẽ không khó đâu.
Tôi sững sờ hỏi, vì tất cả dường như quá đơn giản:
– Có chắc rằng sơ đồ này áp dụng được không?
– Sẽ được. Nhưng tiếc thay chúng ta chưa biết hết. Chúng ta mới biết được cách khỏi bị lạc. Bây giờ chúng ta phải tìm hiểu xem có nguyên lý gì chi phối việc sắp xếp sách trong các phòng đó không? Các câu thơ trong Mặc Khải nói lên quá ít, hơn thế nữa, nhiều câu lại được lặp lại giống hệt nhau trong nhiều phòng…
– Thế nhưng trong quyển sách của tông đồ, ta có thể tìm được nhiều hơn năm mươi sáu câu thơ!
– Đúng thế. Nhưng chỉ có một số câu hay. Lạ thật. Hình như có ít hơn năm mươi: ba mươi hay hai mươi câu gì đó… Ồ, đồ con quỉ Merlin!
– Ai vậy?
– Đừng để ý. Đó là một gã phù thủy ở xứ thầy… Người ta dùng số câu thơ tương đương với số mẫu tự! À ra thế! Nội dung câu thơ không đáng kể, chỉ có những mẫu tự đầu là quan trọng. Mỗi phòng được đánh dấu bởi một mẫu tự, và tất cả hợp lại thành một nội dung mà chúng ta phải khám phá.
– Giống như một bài thơ bằng hình ảnh, dưới dạng chữ thập hay con cá!
– Gần như thế, và có lẽ trong thời gian người ta xây Thư viện, loại thơ như thế rất thịnh hành.
– Nhưng bản văn bắt đầu ở đâu?
– Bắt đầu từ bảng hình cuộn lớn hơn các bảng khác, trong phòng bảy cạnh ở lối vào tháp… nếu không… À, đương nhiên từ những câu màu đỏ!
– Nhưng có rất nhiều câu như thế!
– Như thế phải có nhiều bản văn hay nhiều từ. Bây giờ sao lại sơ đồ của con cho lớn và rõ ràng hơn. Khi chúng ta vào Thư viện, con sẽ lấy bút đánh dấu những phòng đã đi qua, vị trí cửa và tường cùng với cửa sổ, cũng như các mẫu tự đầu của các câu thơ ở đó. Như một nhà minh họa giỏi, con sẽ ghi các mẫu tự màu đỏ lớn hơn.
Tôi thán phục nói: – Tại sao nhìn từ bên ngoài thầy lại giải được bí ẩn của Thư viện, còn khi ở bên trong thì lại không?
– Cũng giống như Thượng đế thông thạo thế giới vì trong đầu Ngài đã nghĩ ra nó, như thể Ngài đứng từ bên ngoài nhìn vào trước khi tạo ra nó. Còn chúng ta không biết nguyên lý của thế giới vì chúng ta sống ở bên trong và thấy nó đã được làm sẵn.
– Như thế, người ta chỉ có thể hiểu được sự việc bằng cách đứng từ ngoài nhìn vào ư?
– Chỉ hiểu được sự sáng tạo của nghệ thuật, nhờ chúng ta vạch lại trong óc việc làm của nghệ nhân. Không thể hiểu được sáng tạo của thiên nhiên, vì những sự sáng tạo ấy không phải là tác phẩm của đầu óc chúng ta.
– Như thể cũng đủ hiểu Thư viện phải không?
– Đủ, nhưng chỉ áp dụng cho Thư viện mà thôi. Chúng ta hãy đi nghỉ đi. Mãi đến sáng mai, khi có kính mới có thể làm cái gì được. Thà ngủ cho ngon rồi mai dậy sớm. Thầy sẽ cố động não.
– Còn ăn tối?
– À, dĩ nhiên là ăn tối. Đã qua giờ ăn rồi. Các tu sĩ đang dự Kinh Tối. Nhưng có lẽ nhà bếp vẫn mở cửa. Hãy đi tìm cái gì ăn chứ..
– Và lấy trộm nó ư?
– Xin. Xin Salvatore, nay là bạn của con.
– Nhưng Huynh ấy sẽ ăn cắp!
– Thế con là người canh chừng cho Huynh ấy à? – Thầy William mỉa mai hỏi. Nhưng tôi biết thầy đùa và muốn nói rằng Thượng đế vĩ đại và khoan dung. Thế nên, tôi đi tìm Salvatore và thấy Huynh ấy trong chuồng ngựa.
– Một con ngựa đẹp, – tôi nói, gật đầu về phía Brunellus, để bắt đầu câu chuyện – Tôi muốn cỡi nó.
– Không thể được. Nhìn con ngựa kia. Bạn không cần cỡi con ngựa “chiến” như thế – Huynh chỉ một con ngựa mạnh khỏe nhưng bị ghét bỏ – Con ngựa kia cũng đủ rồi… Con ngựa thứ ba ấy: Tertius equi.
Huynh ấy muốn chỉ cho tôi con ngựa thứ ba. Tôi bật cười vì cách nói La tinh khôi hài của Huynh, và Huynh bảo sẽ dùng phép biến nó thành một con ngựa khỏe và nhanh như con Brunellus. Tôi ngưng ngang câu chuyện và bảo tối nay, thầy tôi muốn đọc một số sách trong phòng nên cần dùng bữa tối tại đó.
Salvatore nói: – Tôi sẽ làm. Tôi sẽ làm phô-mai nhồi.
– Phô-mai làm thế nào?
– Dễ thôi. Dùng một phô mai đừng quá cũ, đừng cho quá nhiều muối, cắt thành cục hoặc lát tùy thích. Bỏ một ít bơ hoặc mỡ vào chảo, rồi đun nóng trên than hồng. Bỏ vào đó hai miếng phô-mai, khi nó chảy ra, thêm quế và đường. Rồi dọn ra bàn ngay, ăn nó nóng, nóng.
– Vậy thì phô-mai nhồi nhá.
Huynh ấy biến vào nhà bếp và bảo tôi đợi. Nửa giờ sau, Huynh trở ra, mang theo một cái đĩa có đậy vải. Mùi thơm tỏa ra ngào ngạt.
– Đây, – Huynh bảo, và đưa thêm một cây đèn lớn đầy dầu.
– Để làm gì vậy?
Hắn ranh mãnh nói: – Ta mà không biết ư? Có lẽ đêm nay, thầy bạn muốn đi đến một chỗ tối tăm.
Rõ ràng Salvatore biết nhiều việc hơn tôi tưởng. Tôi không chất vấn gì hơn mà đem thức ăn về cho thầy. Sau khi ăn xong, tôi rút về phòng riêng. Tôi có nói bóng gió như thế. Thật sự tôi muốn đi tìm Ubertino lần nữa, nên len lén trở lại nhà thờ

Chú thích:
(1) “Pratica officii inquisitionis heretice pravitatis”.
(2) Waldenses: dòng Thanh giáo chống Giáo hội La mã, do Peter Walde thành lập tại miền Nam nước Pháp năm 1170, bị tước phép thông công và đàn áp năm 1184, nhưng vẫn còn tồn tại trong dãy núi Alpes (biên giới Pháp – Ý), người Pháp còn gọi là dòng Vaudois.
(3) Beghard: một Hiệp hội huynh đệ, thành lập từ thế kỷ 13 ở Bỉ và Hòa Lan.
(4) Thời đó vẫn chưa biết rằng quả đất tròn.
(5) Triết gia kiêm nhà vật lý đạo Hồi (1126-1198)

SAU KINH TỐI

Ubertino kể Adso nghe câu chuyện
về Fra Dolcino,
sau đó cậu gặp một trinh nữ xinh đẹp
và đáng sợ như một đoàn hùng binh.

Tôi gặp Ubertino trước tượng Đức Mẹ đồng trinh. Lẳng lặng, tôi đến bên Cha và quỳ xuống vờ cầu nguyện. Rồi tôi đánh bạo cất tiếng:
– Thưa đức cha, xin cha soi sáng và chỉ dạy cho con.
Cha Ubertino nhìn tôi, kéo tôi đứng dậy và dẫn đến ngồi trên một chiếc ghế dài. Cha ôm ghì lấy tôi, khiến tôi cảm thấy hơi thở của người trên mặt. Cha nói:
– Con thân yêu, con người tội lỗi này sẽ hân hoan làm bất cứ điều gì cho linh hồn con. Việc gì đang khiến con ưu phiền? Khao khát ư? – Cha hỏi, như chính Cha đang khao khát vậy, – Khao khát của xác thịt ư?
Tôi đỏ mặt đáp: – Không. Có chăng chỉ là khao khát về trí tuệ, con muốn biết quá nhiều…
– Thế là không tốt. Chúa biết tất cả, chúng ta chỉ được phép chiêm ngưỡng kiến thức của Ngài.
– Nhưng chúng ta cũng phải biết phân biệt thiện ác và thông cảm với những nỗi đam mê của con người. Con nay là tu sinh, nhưng rồi sẽ lên tu sĩ, thành linh mục, nên con phải biết cái ác ở đâu, như thế nào, để có thể một ngày nào đó nhận ra nó và dạy những người khác cách nhận ra nó.
– Đúng đấy, con ạ. Vậy con muốn biết điều chi?
– Thưa Cha, mầm độc của bọn phản giáo, – tôi khẳng định và nói một mạch, – con đã nghe kể về một kẻ ác đã khiến bao người lầm lạc: Fra Dolcino.
Ubertino lặng người, rồi đáp – Đúng đấy, con đã nghe Sư huynh William và Cha nói về hắn tối hôm nọ. Nhưng đó là một câu chuyện ghê tởm, khiến ta đau lòng phải nhắc lại, vì từ đó có thể rút ra một bài học rằng, lòng khao khát muốn sám hối và thanh lọc thế giới có thể gây ra cuộc tương tàn đẫm máu – Cha nhón mình, nới lỏng vòng ôm, nhưng vẫn còn đặt một tay lên cổ tôi, như muốn truyền đạt sự hiểu biết và nhiệt tình của Cha với tôi. Cha kể:
– Câu chuyện bắt đầu từ trước thời Fra Dolcino, hơn sáu mươi năm về trước, ở Parma, khi Cha còn bé. Một người tên Gherardo Segarelli đi giảng đạo, kêu gào tất cả mọi người sống đời ăn năn. Gã thường đi đây đó rao giảng: “Penitenziagite! Hãy sám hối!” Gã buộc các đệ tử phải bắt chước thánh Tông đồ, tự nhận giáo phái của mình là dòng của các Tông đồ và các tín hữu phải đi khắp thế gian như những hành khất nghèo nàn, sống nhờ của bố thí. Gã và các tín đồ đã bị buộc tội là những bọn du thủ du thực, đã phủ nhận quyền hành của các linh mục, không hành lễ Mi-sa và không làm phép xưng tội.
– Nhưng các tu sĩ Francisco dòng Thánh thần cũng bị buộc tội như vậy. Và chẳng phải các tu sĩ Khất thực ngày nay đã nói rằng, không nên công nhận quyền lực của Giáo hoàng sao?
– Đúng, nhưng phải công nhận quyền lực của các linh mục. Các Cha cũng chính là những linh mục dòng Khất thực. Con ạ, thật khó mà phân biệt những vấn đề này. Lằn ranh giữa thiện và ác rất mỏng manh… Trên một mặt nào đó, Gherardo đã sai lầm và phạm tội phản giáo. Gã xin nhập dòng Khất thực, nhưng các Sư huynh của Cha không chấp nhận. Gã sống một thời gian trong nhà thờ của dòng Cha, thấy trong các bức họa các Tông đồ mang xăng-đan, và quấn áo ngang vai. Thế là gã để râu tóc, mang xăng-đan, mặc áo dòng Khất thực, vì bất kỳ ai muốn thành lập một giáo phái mới đều bắt chước một cái gì đó của dòng Francisco thiêng liêng.
– Thế thì ông ấy thuộc phe chính…
– Nhưng gã có sai trái ít nhiều… khoác một chiếc áo trắng bên ngoài lớp áo dòng trắng, tóc xõa dài, gã nổi danh trong bàn dân thiên hạ như một vị thánh. Gã bán căn nhà nhỏ của mình, gom được ít tiền. Sau đó, gã đứng trên một tảng đá, nơi xa xưa giới chức sắc vẫn thường đến để diễn thuyết. Tay cầm một bọc tiền vàng, gã không gieo hay phân phát cho người nghèo, lại gọi bọn vô lại đang đánh súc-sắc gần đó đến, ném tiền vào chúng và nói: “Ai nhặt được thì lấy”. Bọn này nhặt tiền và đem nướng sạch hết, lại còn báng bổ Chúa, gã nghe nhưng chẳng xấu hổ gì.
– Nhưng Thánh Francisco cũng từ bỏ tất cả mọi thứ, và hôm nay, con có nghe thầy William nói rằng Người đã giảng đạo cho quạ, diều hâu và cả những người cùi, nghĩa là những thành phần cặn bã đã bị những kẻ tự nhận là đạo đức ruồng bỏ..
– Đúng, nhưng Gherardo có phần nào sai. Thánh Francisco không bao giờ mâu thuẫn với Giáo hội, và Thánh kinh dạy phải cho người nghèo, chớ không cho bọn vô lại. Gherardo cho và chẳng nhận được gì đáp lại vì đã cho những bọn xấu. Gã đã khởi sự sai, tiến hành sai và kết cục sai vì Giáo hoàng Gregory X phản đối giáo phái của gã.
Cuối cùng, thiên hạ kể rằng, để thử sức mạnh của ý chí và sự tiết dục của mình, gã ngủ với đàn bà mà không giao cấu. Nhưng khi bọn đệ tử của gã bắt chước thì hậu quả hoàn toàn ngược lại. Ôi, đây là những điều mà một cậu bé không nên biết: đàn bà là cội nguồn của Quỷ sứ. Rồi chúng xâu xé nhau giành quyền lãnh đạo giáo phái, nhiều điều ác xảy ra. Thế nhưng có nhiều người tìm đến Gherardo, không chỉ là nông dân mà cả các thị dân, thành viên trong phường hội. Gherardo bắt họ lột hết quần áo ra để theo Chúa Ki-tô trần trụi rồi phái họ ra đời giảng đạo. Còn gã thì mặc một áo dài trắng sát nách bằng vải thô, trông như một thằng hề chứ không giống người tu hành! Chúng sống ngoài trời, đôi khi leo lên bục giảng nhà thờ, quấy phá những con chiên ngoan đạo đang dự lễ và xua đuổi các thầy giảng. Có lần chúng còn đặt một đứa bé lên ghế của giám mục ở nhà thờ thánh Orso tại Ravenna. Chúng tự xưng là người kế tục học thuyết của Joachim xứ Floris…
Tóm lại, để con khỏi đau đầu vì những câu chuyện đau buồn rối ren mà con không thể hiểu rõ, Giám mục Obizzo xứ Parma, cuối cùng đã phải tống giam Gherardo. Đến đây, lại có một chuyện lạ xảy ra, nói lên sự yếu mềm của bản chất loài người và mầm mống của bọn phản giáo xảo quyệt như thế nào. Vì rốt cuộc, giám mục lại phóng thích Gherardo, cùng hắn ăn uống, cười đùa, giỡn hớt!
– Nhưng tại sao vậy?
– Cha chẳng hiểu. Nhưng sau đó, Giáo hoàng can thiệp và giám mục trở lại nghiêm trang, đúng mực, còn Gherardo thì chết trên giàn hỏa như một tên phản giáo hỗn xược. Chuyện xảy ra vào đầu thế kỷ mười bốn này.
– Nhưng chuyện này có liên quan gì đến Fra Dolcino?
– Có liên quan chứ, điều này chứng tỏ mầm phản giáo vẫn tồn tại cho dù bọn phản giáo đã bị tiêu diệt. Tên Dolcino là con hoang của một linh mục, sống ở giáo phận Novara, thuộc miền này của nước Ý, nhưng xa hơn về phía Bắc. Hắn là một thanh niên đầu óc sắc sảo, học văn chương. Hắn trộm của linh mục nuôi dưỡng hắn và trốn về thành phố Trent ở phía đông. Tại đó, hắn phục hồi lối giảng đạo của Gherardo, nhưng còn sặc mùi phản giáo hơn, tuyên bố mình là tông đồ chân chính duy nhất của Chúa, và trong tình yêu không có gì là riêng rẽ, người ta được phép ăn nằm chung chạ với mọi phụ nữ mà không bị buộc tội đa thê, cho dù ngủ cả với vợ và con gái…
– Ông ấy quả thực có giảng những điều như thế không, hay chỉ bị buộc tội đó thôi? Con có nghe các tu sĩ dòng Thánh thần, cũng như các tu sĩ xứ Montefalco, đều bị buộc tội tương tự…
– Đủ rồi, – Ubertino gắt gỏng, ngắt lời – Chúng không còn là tu sĩ nữa. Chúng là bọn phản giáo bị Fra Dolcino làm thối nát. Ngoài ra, hãy nghe đây: chỉ cần biết những việc hắn làm sau này cũng đủ để gọi hắn là kẻ ác độc. Chắc chắn rằng hắn bắt đầu giảng đạo tại Trent. Tại đó, hắn quyến rũ một trinh nữ tuyệt sắc, con nhà quý tộc, tên Margaret, cũng có thể là nàng đã quyến rũ hắn, như cô học trò Héloise dụ dỗ thầy giáo Abelardo thế kỷ XII, vì, đừng quên nhé, chính nhờ qua đàn bà mà Quỷ sứ thâm nhập vào trái tim đàn ông. Lúc đó, Giám mục Trent đuổi hắn ra khỏi giáo phận, nhưng khi ấy hắn đã tập hợp được hơn một nghìn tín hữu để bắt đầu một cuộc trường chinh trở lại nơi chôn nhau cắt rốn của hắn. Dọc đường, một số dân chúng nghe giảng đạo bùi tai nên lạc lòng đi theo. Có lẽ cũng có nhiều tên phản giáo dòng Waldenses ở đất Bắc này. Khi đến vùng Novara, Dolcino tìm thấy một thời cơ thuận tiện để dấy loạn, vì các vương hầu cai trị thành phố Gattinara nhân danh Giám mục ở Vercelli đã bị dân chúng đuổi đi để đón tiếp Dolcino và bọn phạm pháp như những đồng minh đáng trọng.
– Câu chuyện thật rắc rối. Dolcino về phe nào?
– Cha không biết. Hắn tự mâu thuẫn với chính mình. Hắn tham gia mọi cuộc xung đột, xem chúng như những cơ hội để thuyết giảng việc chống lại quyền tư hữu nhân danh cái nghèo. Dolcino và hơn ba ngàn tín hữu, đứng trên một ngọn đồi gần Novara, tên là đồi Núi Trọc, dựng chòi và xây công sự chiến đấu… Dolcino cai quản cả đám đàn ông đàn bà đông đúc ấy, lúc ấy sống trong cảnh hoang dâm đê hèn nhất. Từ nơi ấy, hắn gửi thơ cho các tín hữu, tán dương học thuyết dị giáo. Hắn miệng nói, tay viết rằng lý tưởng của chúng là cái nghèo, chúng không bị ràng buộc bởi một lời tuyên thề trung thành bên ngoài nào, và chính hắn, Dolcino, đã được Chúa phái xuống để tiết lộ những lời tiên tri và thông hiểu thánh thư Cựu và Tân Ước. Hắn còn gọi giới tăng lữ thế tục (các thầy giảng và tu sĩ dòng Khất thực) là những nhà thuyết giảng của Quỷ sứ, bảo không ai có bổn phận phải nghe lời họ. Hắn tuyên bố Giáo hội La Mã là một con điếm, rêu rao rằng sống không thề nguyện sẽ tốt đẹp hơn, rằng nhà thờ được Giáo hội công nhận thì không khác hơn một chuồng ngựa và chẳng đáng để tới cầu nguyện, rằng người ta có thể thờ phượng Chúa trong rừng hay trong nhà thờ đều được.
– Mọi người đều chống hắn chứ?
– Cha không biết. Có lẽ hắn nhận được sự ủng hộ của một số người. Trong khi đó mùa đông đến, mùa đông năm 1305, một nạn đói lan tràn khắp nơi. Trên đồi Núi Trọc, đời sống trở nên quá kham khổ. Chúng đói đến nỗi phải ăn thịt ngựa và các súc vật khác, kể cả rơm luộc. Rất nhiều người chết.
Đến cuối năm 1305, tên thủ lãnh dị giáo buộc phải rời đồi Núi Trọc, bỏ lại những người bệnh tật chết chóc để dời xuống lãnh thổ Trivero, sống cheo leo trên ngọn núi Zubello, sau được gọi là núi Rebello, vì đó là thành trì của bọn phản loạn chống lại Giáo hội. Dầu sao chăng nữa, Cha không thể kể cho con hết tất cả mọi chuyện. Đã xảy ra nhiều cuộc thảm sát kinh hoàng, nhưng cuối cùng bọn phản loạn buộc phải đầu hàng. Dolcino và đồng bọn bị bắt và đền tội trên giàn hỏa.
– Kể cả người đẹp Margaret?
Cha Ubertino nhìn tôi: – Thế con cũng nhớ rằng nàng đẹp à? Người ta bảo rằng nàng thật đẹp, và nhiều lãnh chúa địa phương đã cố xin cưới nàng để cứu nàng khỏi bị hỏa thiêu. Nhưng nàng từ chối và ngoan cố chịu chết bên người yêu. Con hãy lấy đó làm bài học: hãy coi chừng con điếm thành Babylon, ngay cả khi nó mang nhan sắc kiều diễm nhất.
– Thưa cha, con có nghe nói rằng quản hầm của tu viện và có lẽ cả Salvatore nữa đã gặp và theo Dolcino thế nào đó…
– Câm ngay! Chớ ăn nói hàm hồ. Cha đã gặp quản hầm trong tu viện dòng Khất thực. Cha không biết trước đó Huynh ấy ở đâu, nhưng Cha biết Remigio luôn là một tu sĩ tốt, ít ra là, theo quan điểm của chính thống giáo. Còn cái gì xảy ra sau đó, than ôi… thân xác thì yếu mềm…
– Cha có ý nói gì?
– Đây là những điều con không nên biết – Cha lại ôm sát tôi vào lòng và chỉ tượng Đức Mẹ đồng trinh – Con phải được hướng dẫn đến một tình yêu vô nhiễm. Đức Mẹ có nữ tính thiêng liêng, vì thế, con có thể gọi Mẹ là đẹp – Gương mặt Cha đờ đẫn, ngây ngất, như gương mặt Tu viện trưởng khi nói về vàng, ngọc trong những bình thánh – Ngay cả vẻ yêu kiều trên thân thể Mẹ cũng là nét đẹp của thiên đàng, vì thế, nhà điêu khắc đã tạc tượng Mẹ với tất cả nét thanh nhã của một phụ nữ – Cha chỉ lên bộ ngực thon của Mẹ Đồng trinh – Con thấy chưa? Như các nhà thông thái đã nói: Bộ ngực của Mẹ cũng đẹp, nó hơi nhô cao, hơi căng tròn, nhưng không lồ lộ khêu gợi, ngực nén nhưng không xẹp… Thế, con cảm thấy gì trong hình ảnh ngọt dịu nhất này?
Mặt tôi đỏ như gấc, lòng bừng lên như có lửa đốt. Cha Ubertino hẳn đã nhận ra điều đó, hay có lẽ đã liếc nhìn đôi má ửng hồng của tôi, bèn nói thêm ngay… – Nhưng con phải biết phân biệt ngọn lửa của tình yêu siêu nhiên với những rạo rực của xác thịt. Ngay cả đối với bậc thánh cũng vẫn khó nữa.
Tôi run rẩy hỏi: – Làm thế nào để nhận ra được tình yêu chân chính?
– Tình yêu là gì? Trên cõi đời này, Cha ngờ vực tình yêu hơn cả người hay Quỷ, hay bất kỳ thứ gì, vì nó thấm vào tâm hồn hơn mọi thứ. Không một thứ gì hiện hữu lại có sức mạnh chiếm hữu và ràng buộc con tim bằng tình yêu. Do đó, nếu con không có vũ khí chế ngự được nó thì linh hồn say đắm yêu đương của con sẽ lao xuống một vực thẳm bao la. Cha tin rằng nếu không vì Margaret quyến rũ thì Dolcino đã không bị đọa đầy, và sẽ có ít kẻ bị cuộc dấy loạn cám dỗ hơn, nếu không có cảnh sống phóng túng và lang chạ trên đồi Núi Trọc. Nhớ đấy, Cha nói những điều này với con không chỉ về loại tình yêu xấu xa mà ai cũng phải xa lánh như Ác quỷ. Cha cũng rất dè dặt nói về tình yêu thánh thiện giữa Chúa và người, giữa người và người. Đời vẫn thường gặp một số người, nam hay nữ, thành tâm yêu nhau, hai bên ấp ủ một tình cảm trìu mến đặc biệt, mong ước mãi mãi sống bên nhau, và cùng có chung những khát vọng. Cha thú thật cũng có những tình cảm tương tự như thế đối với những phụ nữ tiết hạnh nhất như Angela và Clare. Dầu sao, điều đó cũng đáng trách, mặc dầu nó thiêng liêng và hướng về Chúa… Ngay cả một tình yêu phát xuất từ tâm hồn, nếu không được trang bị trước và quá nồng nhiệt, thì sẽ sụp đổ hay rối loạn. Ôi, tình yêu có nhiều tính chất: thoạt tiên, lòng bồi hồi xao xuyến, rồi đau khổ… nồng ấm lửa yêu thánh thiện, rồi thổn thức, rên rỉ, như đá ném vào lò để hóa vôi, nó rạn nứt, nóng bỏng.
– Và đó là tình yêu chân chính?
Ubertino vuốt đầu tôi, tôi thấy mắt Cha đẫm lệ.
– Phải, cuối cùng đó mới là tình yêu chân chính.
Cha không quàng vai tôi nữa, tiếp:
– Phân loại tình yêu mới khó khăn, khó khăn biết bao! Và đôi khi Quỷ sứ cám dỗ tâm hồn con, khiến con cảm thấy mình như bị treo cổ, tay trói ngoặt sau lưng, mắt bịt kín, đong đưa trong không trung, nhưng vẫn sống mà không ai giúp đỡ, hỗ trợ, không ai cứu chữa…
Mặt Cha đầm đìa nước mắt và mồ hôi. Cha nói nhanh – Con đi đi. Cha đã kể điều con muốn biết. Bên này là thiên thần ca hát, bên kia là hố sâu của Địa Ngục. Đi đi. Tạ ơn Chúa.
Cha lại nằm soải người trước tượng Mẹ Đồng trinh, rấm rức khóc. Cha đang cầu nguyện.

o0o

Tôi không rời khỏi nhà thờ. Cuộc nói chuyện với Cha Ubertino đã nhen lên trong hồn xác tôi một ngọn lửa lạ thường và cả một sự bồn chồn khôn tả. Có lẽ vì lý do này nên tôi bỗng nổi hứng muốn phá luật và quyết định một mình quay lại Thư viện. Bản thân tôi cũng chẳng biết mình tìm gì. Tôi muốn tự mình khám phá một nơi chưa ai biết đến. Tôi khoái trá nghĩ mình có thể tự định hướng mà không cần sự giúp đỡ của thầy. Tôi leo cầu thang như Dolcino đã leo lên núi Rebello.
Tay cầm đèn, mắt hầu như nhắm nghiền, tôi lọt vào lò thiêu xương và chẳng bao lâu đã lên đến phòng thư tịch.
Tôi cho đó là một đêm định mệnh, vì khi đang lang thang giữa những dãy bàn, tôi chợt thấy một bản thảo mở ngỏ do một tu sĩ đang chép dở: “Lịch sử của thủ lãnh dị giáo Fra Dolcino” (1). Tôi nghĩ, đó là bản của Peter xứ Sant Albano, người đang viết một thiên sử về bọn dị giáo. Do đó, bản thảo đó có nằm trên bàn của Huynh ấy cũng là việc bình thường; thế nhưng tôi lại thấy nó như một dấu hiệu siêu nhiên, dù do trời hay do quỷ tôi cũng chẳng biết, nên liền hăm hở cúi xuống đọc. Bản viết không dài và ở đó ta đọc được những điều Ubertino không kể, những điều rõ ràng được một người chứng kiến toàn bộ thuật lại. Tôi đọc thấy rằng, vào ngày thứ bảy lễ thánh tháng 3 năm 1307, Dolcino, Margaret và Longinus cuối cùng đã bị bắt và đem về thành phố Biella, nộp cho giám mục để chờ quyết định của Giáo hoàng. Giáo hoàng thẳng tay ra lệnh cho giám mục đem xử tử các phạm nhân. Thế rồi, ngày đầu tháng 7 năm đó, bọn dị giáo được giao cho quân đội thế tục. Khi hồi chuông trong thành phố reo vang thì bọn dị giáo được đặt lên một cỗ xe, chung quanh là những người hành quyết, có dân quân theo sau. Chúng bị chở đi khắp thành phố và cứ đến mỗi góc đường lại bị người ta dùng kẹp rực lửa rứt từng mảnh thịt. Margaret bị thiêu trước tiên. Mặt Dolcino không hề biến sắc, hắn cũng không hề run rẩy khi bị rứt thịt. Cỗ xe tiếp tục lăn bánh. Còn bọn hành quyết thì nung những thanh sắt trong các lò rực than hồng. Dolcino trải qua nhiều nhục hình, nhưng vẫn lặng câm. Khi người ta cắt mũi, hắn hơi nhún vai và khi họ chặt đứt dương vật, hắn buông ra một tiếng thở dài như rên rỉ. Những lời cuối cùng hắn nói, nghe rất xấc xược vì hắn cảnh cáo rằng hắn sẽ sống dậy ba ngày sau. Rồi hắn bị thiêu và người ta đem thả tro bay theo gió.
Tôi run rẩy xếp bản viết lại. Dolcino đã phạm nhiều tội ác nhưng hắn đã bị thiêu quá khủng khiếp. Và tại giàn hỏa, hắn đã xử sự… như thế nào? Với kẻ hiên ngang như một người tử vì đạo, hay vẻ cao ngạo của kẻ bị đọa đày?…
Tôi nhớ lại lời Cha Ubertino nói về tình yêu. Hình ảnh của Dolcino lẫn lộn với người đẹp Margaret. Tôi lại cảm thấy nỗi bồn chồn ban nãy đã xâm chiếm tôi trong nhà thờ.

o0o

Tôi cố không nghĩ nữa và trực chỉ Mê cung.
Đây là lần đầu tiên tôi vào một mình. Những cái bóng do ánh đèn hắt dài xuống nền nhà khiến tôi kinh hãi chẳng kém gì những hư ảnh đêm nọ. Lúc nào tôi cũng ngay ngáy sợ sẽ đụng đầu một tấm gương khác; những tấm gương có một phép kỳ lạ đến nỗi dù biết chúng chỉ là gương thôi, mình cũng đâm hoảng.
Mặt khác, tôi không cố định hướng hay xa lánh cái phòng xông khói gây ảo giác gì cả. Tôi như người lên cơn mê sảng, chẳng biết mình muốn đi đâu nữa. Thực ra, tôi cũng chẳng đi xa khởi điểm mấy, vì chỉ một chốc sau, tôi lại thấy mình lọt trở lại phòng bảy cạnh đã vào ban nãy. Ở đây, trên chiếc bàn có đặt vài quyển sách, hình như hôm nọ tôi không trông thấy. Tôi đoán có lẽ đó là sách Malachi đem từ phòng thư tịch lên, nhưng chưa kịp xếp vào ngăn tương ứng. Tôi không biết mình cách căn phòng xông khói bao xa, vì tôi cảm thấy ngầy ngật. Đó có thể là do ám khí bay đến chỗ tôi đứng, hay vì óc tôi bị ám ảnh vì những suy nghĩ ban nãy. Tôi mở ra một quyển sách đầy những minh họa đẹp, và căn cứ theo kiểu cách của nó, thì có lẽ nó từ các chủng viện xứ Ultima Thule.
Trên trang giấy mở đầu phúc âm của Tông đồ Mark, đập vào mắt tôi hình ảnh một con sư tử, nó gợi lên cho tôi đồng thời hai hình ảnh: vừa của Kẻ thù vừa của Chúa, tôi cũng không biết nên hiểu nó theo biểu tượng nào. Toàn thân tôi run lẩy bẩy, vừa vì sợ, vừa vì gió lạnh luồn qua các khe trên tường.
Con sư tử đã làm tôi sợ quá, tôi bèn giở sang các trang khác và mắt tôi dừng lại ở trang mở đầu phúc âm của thánh Mathew, có vẽ một người đàn ông. Tôi không biết sao hình ảnh này còn làm tôi sợ hơn con sư tử. Gương mặt thì của người nhưng lại mặc một áo lễ cứng đờ phủ đến chân, trông như áo giáp, có đính đá quý màu đỏ và vàng. Cái đầu, nhô lên một cách kỳ quặc từ khối áo giáp đầy hồng ngọc và hoàng ngọc, trông giống như bộ mặt của tên sát nhân huyền bí với những dấu vết vô hình mà chúng tôi đang cố tìm kiếm. Rồi tôi hiểu được tại sao mình lại liên hệ hình ảnh con sư tử và người áo giáp này với Mê Cung chặt chẽ như vậy: cả hai minh họa, cũng như tất cả minh họa khác trong quyển sách, đều xuất phát từ cấu trúc của những Mê Cung chằng chịt; chúng thảy đều có liên hệ đến cái mê hồn trận những phòng, những hành lang nơi tôi đang đứng. Mắt tôi lạc thần trên những trang giấy theo những đường nét sáng ngời, cũng như chân tôi lạc hướng trong những dãy phòng rối mù của Thư viện. Lòng tôi đầy nỗi bồn chồn khi thấy các bản viết này mô tả con đường lang thang của chính tôi. Tôi tin mỗi cuốn sách, bằng những chuỗi cười bí hiểm, đang kể lại câu chuyện hiện nay của tôi. Tôi tự nhủ đó là “Câu chuyện ngụ ngôn kể về chính mình” (2) và không biết những quyển sách đó có chứa sẵn các biến cố tương lai dành cho tôi chưa?
Tôi mở một quyển sách khác. Màu sắc táo bạo, những mảng đỏ trông tựa máu lửa. Trong quyển sách này, họa sĩ đã nhấn mạnh những đường cong trên thân thể phụ nữ. Tôi so sánh gương mặt, bộ ngực, cặp đùi thon của người phụ nữ với tượng Mẹ Đồng Trinh mà tôi đã ngắm với Ubetino. Đường nét có khác biệt, nhưng tôi thấy hình nhân này cũng rất đẹp. Tôi nghĩ, mình không nên chú tâm vào những khái niệm này nữa, nên lật thêm vài trang. Lại gặp hình đàn bà khác, lần này là con điếm thành Babylon. Thân hình ả không làm tôi ngạc nhiên, mà tôi ngạc nhiên vì thấy ả cũng giống như những người đàn bà khác, thế mà lại là hố sâu của mọi tội lỗi, còn người phụ nữ kia lại là nguồn cội của mọi phẩm hạnh. Cả hai đều mang thân hình đàn bà, và đôi khi tôi chẳng biết cách nào để phân biệt họ cả. Lòng tôi lại rạo rực. Hình ảnh Mẹ Đồng trinh trong nhà thờ nhập vào hình ảnh người đẹp Margaret. Tôi tự nhủ: “Ta bị đọa rồi! Ta điên rồi”. Và quyết định phải rời Thư viện ngay.
May thay, lúc ấy tôi ở gần cầu thang. Tôi phóng như bay xuống, bất chấp có bị té hay đổ đèn. Tôi lọt trở lại phòng thư tịch, nhưng không dám nấn ná ở đấy thêm, mà lao xuống cầu thang dẫn vào nhà ăn.

*
* *

Xuống đến đây, tôi ngừng lại, thở hổn hển. Ánh trăng rực rỡ chiếu qua cửa sổ, nên chẳng cần dùng đèn như khi qua các phòng và lối đi tối tăm trong Thư viện. Tuy vậy, tôi vẫn giữ đèn cháy cho yên tâm. Nhưng tôi vẫn thấy khó thở, nên định uống ít nước để lấy lại bình tĩnh. Vì bếp gần đấy nên tôi đi băng qua nhà ăn rồi nhẹ nhàng mở một cánh cửa dẫn vào gian thứ hai của tầng trệt trong Đại dinh.
Đến đây, thay vì bớt sợ, tôi lại thấy khiếp hãi hơn, vì tôi cảm nhận ngay có ai đó đang ở trong nhà bếp, gần lò bánh – hay ít ra cũng có một ánh đèn sáng trong góc đó. Hoảng sợ, tôi thổi tắt đèn của mình đi. Tôi sợ, nhưng đằng ấy cũng sợ, vì người kia cũng thổi đèn ngay. Nhưng vô ích, ánh trăng chiếu vào nhà bếp đủ sáng để soi lên nền nhà trước mặt tôi một vài hình bóng chập chờn.
Tôi sợ điếng người, tiến thoái lưỡng nan. Tôi nghe có tiếng lắp bắp và dường như có tiếng phụ nữ khe khẽ. Rồi từ trong cái đống hỗn độn gần miệng lò, lờ mờ hiện ra một bóng đen cục mịch. Hắn phóng ra, chạy ào về phía cánh cửa đang hé mở, rồi đóng sầm nó lại.
Tôi đứng lặng trên ngưỡng cửa giữa nhà ăn và nhà bếp, và còn một vật gì lờ mờ gần lò bánh cũng bất động. Một vật lờ mờ và nói thế nào nhỉ? – đang rên rỉ. Từ trong bóng tối vọng ra tiếng khóc than, nghe như nghẹn ngào, rấm rứt sợ hãi.
Cái sợ của người khác khiến kẻ đang sợ can đảm hơn bất kỳ thứ gì khác, nhưng không phải tôi tiến đến cái bóng ấy vì sợ hãi. Đúng hơn, đầu tôi tràn ngập một cảm giác ngây ngất như khi bị ảo giác trong Thư viện. Trong bếp tỏa ra một mùi gì giống giống cái mùi tôi đã hít phải trong Thư viện đêm hôm trước. Có lẽ không phải cùng một mùi, nhưng vì tôi quá căng thẳng nên nó cũng có tác dụng tương tự. Tôi ngửi thấy mùi hăng hắc của đủ loại gia vị làm nhiễm độc màng mũi lẫn cả đầu óc tôi nữa.
Trong khi lý trí tôi hét lên “quay lui”, bảo phải tháo chạy khỏi cái bóng rên rỉ kia, con yêu tinh mà Quỷ đã gọi đến cho tôi; thì trong tiềm thức tôi có một cái gì đó thúc tới, như thể muốn dự phần vào một điều nhiệm mầu.
Thế là tôi đến gần bóng đen và nhờ ánh trăng từ cửa sổ cao, tôi nhận ra đó là một phụ nữ đang run rẩy, một tay ghì chặt cái bọc vào ngực, vừa khóc vừa nhích dần về phía miệng lò.
Cầu Chúa, cầu Mẹ Đồng trinh, và tất cả các thánh thần trên trời phù hộ con thuật lại điều xảy ra khi ấy! Tôi chỉ muốn nói rằng một điều xấu đã xảy ra và đáng lẽ chẳng nên kể lại, để khỏi làm bàng hoàng cả tôi lẫn bạn đọc. Nhưng tôi đã quyết định phải kể lại toàn bộ sự thật của câu chuyện xa xưa kia. Vậy xin kể hầu các bạn một thanh niên đã rơi vào bẫy của Quỷ sứ như thế nào, để người đời sau nếu có gặp cảnh ấy có thể vượt qua được.
Vâng, đó là một phụ nữ, hay đúng hơn là một thiếu nữ. Vì ít khi được tiếp xúc với người khác phái, tôi không biết nàng độ tuổi bao nhiêu. Chỉ biết nàng rất trẻ, có lẽ khoảng đôi tám đôi chín hay đôi mươi gì đó. Tôi bàng hoàng cảm nhận cái thực thể con người toát ra từ nhân dáng đó. Đây không phải là một ảo giác, và dẫu sao tôi nghĩ đó là một thực thể tốt. Có lẽ vì nàng đang run lẩy bẩy như cánh chim non trong tuyết giá, đang than khóc sợ hãi tôi.
Nghĩ rằng bổn phận của mọi con chiên ngoan đạo là cứu vãn người đồng loại, tôi hết sức nhẹ nhàng tiến đến nàng và dùng tiếng La-tinh trong sáng bảo nàng chớ sợ, vì tôi là bạn chớ không phải là thù, chắc chắn không phải là kẻ thù nàng đang kinh hãi.
Tôi nghĩ có lẽ vì ánh mắt dịu dàng của tôi nên con người ấy đã trấn tĩnh lại và tiến đến tôi. Tôi thấy nàng không hiểu tiếng La-tinh của tôi, nên liền phản xạ nói bằng tiếng Đức bản xứ. Nàng vô cùng hoảng sợ, không hiểu vì những âm thanh đó chói tai, lạ lùng với dân địa phương vùng này, hay vì những âm thanh tôi phát ra nhắc nàng nhớ lại kinh nghiệm với binh sĩ xứ tôi chăng? Tôi bèn mỉm cười, nghĩ rằng ngôn ngữ của cử chỉ và nét mặt dễ truyền thông hơn từ ngữ, và thấy nàng lộ vẻ yên tâm. Nàng cũng cười đáp lại và nói vài từ gì đó.
Tôi chỉ hơi hơi hiểu thổ ngữ của nàng, nhưng trong giọng nói của nàng, tôi nhận ra những lời ngọt dịu, dường như nàng bảo tôi rằng: “Anh trẻ lắm, anh xinh trai lắm…”. Một tu sinh từ bé đến lớn sống trong chủng viện rất hiếm khi nghe ai nói đến vẻ đẹp của mình. Chúng tôi thường được răn là nhan sắc thì chóng phai và phải xem thường nó. Nhưng kẻ thù thì có vô số cạm bẫy, và tôi thú thật rằng lời khen tôi đẹp trai, dù có xảo trá đi nữa, sao nghe êm tai quá, khiến lòng tôi xao xuyến khôn nguôi. Đặc biệt vì cô gái vừa nói vừa vươn tay ra, các đầu ngón tay nàng mơn trớn đôi má nhẵn nhụi của tôi. Tôi sướng điên lên, nhưng khi ấy trong lòng chẳng cảm thấy một tí gì tội lỗi. Đấy chính là sức mạnh của Quỷ sứ khi nó thử thách và muốn đẩy ân đức ra khỏi tâm hồn chúng ta.
Đột nhiên, người con gái hiện ra trước mắt tôi như một trinh nữ đen đúa nhưng xinh đẹp. Nàng mặc một cái áo nhỏ nhắn bằng vải thô đã sờn chỉ, xẻ ngực hơi hở hang, cổ đeo một chuỗi hạt nhỏ bằng đá màu rất tầm thường. Đầu nàng vươn thằng trên chiếc cổ trắng ngần, mắt nàng trong như nước hồ thu, mũi nàng cao như ngọn tháp Li-băng, tóc màu tím huyền. Những bím tóc rủ xuống như một đàn dê, hàm răng như đàn cừu đi tắm về, tất cả đi sánh đôi, không con nào vượt con nào. Tôi không khỏi trầm trồ: “Trông kìa, em xinh tươi, người yêu của anh, trông kìa, em đẹp quá. Tóc em như đàn dê nằm dọc theo núi Gilead (3), môi em như sợi chỉ thắm, thái dương em hồng hồng như miếng lựu, cổ em như ngọn tháp của vua David treo hàng ngàn cái khiên”. Vừa sợ hãi vừa mê mẩn, tôi tự hỏi người con gái đang đứng trước mặt tôi là ai mà hiện lên như ánh bình minh, đẹp đẽ như vầng trăng, rạng rỡ như mặt trời và khủng khiếp như thiên binh vạn mã. (4)
Rồi người ấy tiến sát tôi hơn. Nàng ném cái bọc đen thui mà vẫn ôm khư khư trong lòng nãy giờ vào một góc rồi giơ tay vuốt ve gương mặt tôi, và nhắc lại lời ngợi khen ban nãy. Khi tôi còn đang hoang mang không biết nên chạy trốn hay nhích lại gần nàng, đầu còn đang giần giật như thể hồi kèn của Joshua sắp sửa giật sập bức tường Jericho, vừa sợ vừa khao khát chạm vào người nàng, thì nàng đã sung sướng mỉm cười, và ư ử rên lên như một nàng dê cái mãn nguyện. Nàng tháo dây cổ áo, rồi tuột nó ra khỏi thân, và trần truồng đứng trước tôi như Ê-va đứng trước A-dong trong vườn địa đàng. Tôi thầm thì lập lại những lời đã nghe Ubertino nói: “Bộ ngực thật đẹp, hơi nhô cao một cách vừa phải” (5), đôi nhũ hoa của nàng, hiện lên như đôi nai tơ đang nhai cỏ trong đám huệ tây thanh khiết, rốn nàng như một cốc rượu đầy ắp, vòm bụng nàng trắng ngần như bột.
Tôi thốt lên: “Ôi bầu trời sáng ngàn sao, ôi ánh lửa khép kín, nguồn cội của những khu vườn, kho báu thơm nức hương hoa và chất xức tẩm”. Rồi thân tôi quyện vào thân nàng lúc nào chẳng biết, người nàng ấm áp, tỏa ra một mùi thơm nồng tôi chưa hề biết. Tôi chợt nhớ câu: “Này các con, khi cuồng si, con người trở nên bất lực”. Cho dù việc đang xảy ra là cạm bẫy của kẻ thù, hay ân đức của Thượng đế đi nữa, tôi chỉ biết mình đang yếu đuối bất lực trước mãnh lực đang thôi thúc. Tôi đành la lên “Ôi ta kiệt sức rồi! Ta hiểu sao mình kiệt sức, nhưng lại không cảnh giác (6). Đôi môi nàng tỏa ra mùi thơm hoa hồng, bàn chân nàng mang dép quai trông đẹp tuyệt, cặp đùi rắn chắc, hai đầu gối là hai viên ngọc, công trình của những nghệ nhân khéo léo. Tôi thầm thì, ôi tình yêu, một giai nhân tuyệt vời, giam giữ cả những vị vua chúa.
Tôi ngã vào lòng nàng, rồi cả hai lăn xuống nền gạch trơ của nhà bếp. Không biết do tôi hay do nàng, chiếc áo dòng tuột khỏi thân tôi, và chẳng ai thẹn thùng nhìn thân thể người kia nữa. Chúng tôi hóa thân vào nhau.
Rồi nàng hôn lên môi tôi, môi nàng ngon ngọt hơn rượu, người nàng thơm ngào ngạt, cổ đeo chuỗi hạt trắng ngần, tai đeo hoa mơn mởn, em xinh đẹp biết bao, này người yêu ơi, em xinh đẹp biết bao, mắt em như mắt bồ câu, hãy để anh ngắm gương mặt của em, nghe em nói, giọng em du dương, mặt em quyến rũ, tim anh rộn ràng, hỡi người em bé bỏng, vì mắt em, vì xâu chuỗi em đeo, môi em mọng, miệng em thơm như sữa ngọt, như mật, hơi thở em thơm mùi táo, ngực em là hai chùm nho, vòm họng em là rượu nồng ngây ngất thấm vào tim yêu, chảy tràn qua răng môi anh. Nàng là ai, hỡi người con gái rạng rỡ như ánh bình mình, thanh khiết như ánh trăng, trong sáng như ánh dương, khủng khiếp như đoàn hùng binh rợp cờ xí?
Lạy Chúa, khi tâm hồn ngây ngất, phẩm hạnh duy nhất là được yêu người mình gặp, hạnh phúc cao cả nhất là nắm được cái hiện hữu… Tôi nghĩ những lời tiên tri cuối cùng đã thành hiện thực, khi nàng đổ trào lên tôi dòng thác ngọt ngào khôn tả, toàn thân tôi dường như biến thành một con mắt, có thể nhìn được phía sau, và tôi đột nhiên nhìn thấy rõ vạn vật chung quanh. Tôi hiểu rằng từ tình yêu đã phát sinh sự hợp nhất, sự dịu dàng, điều thiện, nụ hôn và sự viên mãn, như tôi đã từng nghe nói nhưng lại tưởng nói đến điều gì khác. Khi gần đến đỉnh khoái lạc, tôi thoáng nhớ rằng có lẽ đêm đó tôi đã bị con Quỷ dâm dục hớp hồn, con Quỷ bị đọa nay đã hiện nguyên hình quỉ quái trước một linh hồn đang ngây ngất hỏi: “Mi là ai” mà biết cách cướp linh hồn ta, cám dỗ thân xác ta. Nhưng tôi lập tức tin rằng điều tôi đắn đo mới chính thực quỷ quái, vì chẳng có gì tốt đẹp, thiêng liêng hơn điều tôi đang trải nghiệm, mà sự ngọt ngào cứ mỗi phút lại trào dâng thêm…
Giờ đây, khi viết lại những dòng này, miêu tả cái giây phút khoái cảm ấy mà tôi đã trải qua, tái sinh nó trên mảnh da này tay tôi còn run rẩy. Thôi, chúng ta hãy quay về với sứ mệnh thuật các sự kiện trong ngày, và tất cả nỗi bàng hoàng mình đã trót đắm chìm vào. Đấy, tôi đã kể các bạn nghe điều tôi nhớ lại vào dịp đó và đã để ngòi bút yếu mềm của tôi, người viết sử trung thành và chân thực, ngừng lại.
Tôi nằm, bên cạnh cô gái không biết trong bao lâu. Tay nàng xoa nhè nhẹ lên thân thể đẫm mồ hôi của tôi. Lòng tôi lâng lâng bồi hồi, như ánh lửa cuối cùng chập chờn tắt dần dưới đồng tro tàn, khi lửa ngọn đã tàn lụi. Tôi sẽ chẳng ngại ngần gọi một người được ban cho một kinh nghiệm tương tự như thế trong đời là một người hạnh phúc, mặc dù khoảng khắc này rất chóng vánh và hiếm hoi. Như thể mình không còn tồn tại, mình không biết mình là ai, mình cảm thấy thấp kém và gần biến vào hư vô. Cả tâm hồn tôi bị lôi cuốn đến nỗi đánh mất trí nhớ trong niềm hoan lạc; hẳn là sự rạng rỡ của vầng thái dương vĩnh cửu, niềm vui phát sinh từ đó khiến con người rộng mở, cao cả, phóng khoáng, còn vết nứt rộng mở mà con người mang trong chính mình sẽ chẳng còn khép lại dễ dàng nữa, vì đó là vết chém của gươm ái tình, và hạ giới này không có gì ngọt ngào và khủng khiếp hơn.
Lòng đắm chìm trong niềm vui khôn tả, tôi ngủ thiếp đi.

o0o

Hồi lâu sau, tôi mở mắt ra và ánh trăng đã mờ hơn, có lẽ bị mây che. Tôi duỗi tay ra nhưng không thấy cô gái đâu cả. Tôi quay đầu lại, nàng đã ra đi.
Khi người con gái đã thỏa mãn dục vọng và khao khát của tôi đi rồi, tôi mới bất ngờ nhận thấy dục vọng của mình là phù phiếm và nỗi khao khát là sa đọa. “Sau cuộc giao hoan, mọi thú vật đều thấy buồn” (7). Tôi biết mình đã phạm tội. Giờ đây sau bao nhiêu năm than van cay đắng sự lầm lạc của mình, tôi vẫn không tài nào quên đêm ấy tôi đã sung sướng biết bao và đối với Đấng Toàn năng, người đã tạo ra một điều tốt đẹp, tôi sẽ sai trái nếu không công nhận rằng giữa hai kẻ phạm tội đó đã xảy ra một việc mà chính bản chất nó cũng tốt đẹp. Có lẽ tuổi già hiện nay khiến tôi thấy thẹn thùng nhớ lại thuở thanh xuân tươi đẹp của mình. Đáng lẽ tôi phải hướng suy nghĩ của mình vào cái chết đang gần kề. Ngày ấy, còn là thanh niên, tôi đã không nghĩ đến cái chết, mà tôi khóc ngất đi vì tội lỗi của mình.
Tôi run rẩy đứng dậy, vì đã nằm quá lâu trên nền đá lạnh trong nhà bếp nên toàn thân tôi tê cứng. Tôi mặc quần áo vào, rồi lên cơn sốt. Tôi liếc vào góc, nhìn thấy cái bọc mà cô gái đã để lại khi bỏ chạy. Tôi cúi xuống xem xét: nó là một bọc vải, dường như lấy từ nhà bếp. Tôi mở ra, thoạt đầu không biết có gì ở bên trong, phần vì ánh sáng lờ mờ, phần vì hình thù mơ hồ của vật đó. Rồi tôi hiểu ra. Trước mắt tôi, giữa những cục máu và miếng thịt nhầy nhụa trăng trắng, hiện ra một quả tim to tướng, tuy chết rồi, nhưng những mạch máu rõ rệt vẫn còn thoi thóp đập.
Mắt tôi tối sầm lại, miệng đắng nghét. Tôi thét lên và ngã gục xuống.

Chú thích:
(1) “Historica fratris Dulcini Heresiarche
(2) “De Ta Fabula Narratur
(3) Ngọn núi ở nước Jordan, phía đông bắc Biển Chết.
(4) “Terribilis ut castrorum acies ordinata
(5) “Pulchra sunt ubera quae paululum supereminent et tument modice
(6) “O langueo, causam languoris video nec caveo!
(7) “Omne animal triste post coitum

ĐÊM

Adso đau khổ xưng tội với thầy William,
suy ngẫm về thân phận đàn bà
trong công cuộc tạo hóa.
Sau đó cậu phát hiện ra một tử thi.

Tôi tỉnh dậy thấy có người đang dấp nước lên mặt tôi. Đấy là thầy William, tay cầm đèn. Thầy đã kê dưới đầu tôi một vật gì đó.
– Chuyện gì thế, Adso? Ban đêm con đi lang thang ăn cắp đồ lòng trong nhà bếp à?
Tóm lại, thầy William thức dậy, tìm không thấy tôi bèn nghi tôi sắp thực hiện một việc liều lĩnh nào đó trong Thư viện. Khi men theo nhà bếp về phía Đại dinh, thầy thấy một bóng đen thoát ra khỏi cửa, chạy về phía vườn rau (chính là cô gái đang bỏ trốn, có lẽ vì nàng nghe có người đến). Thầy cố muốn biết đó là ai, liền chạy theo, nhưng bóng đen đã lao về phía bức tường ngoài và biến dạng. Sau khi lục soát mọi nơi, thầy William vào nhà bếp và thấy tôi đang ngất xỉu.
Vẫn còn hoảng sợ, tôi nói với thầy về cái bọc chứa quả tim và lúng búng suy diễn thêm về một án mạng khác thì thầy phá lên cười:
– Adso ơi, ai lại có trái tim to như thế? Đó là tim bò. Hôm nay, họ có mổ một con. Làm sao con có quả tim này?
Đến đây, lòng tràn đầy ăn năn và sợ hãi, tôi òa lên khóc và xin thầy làm phép xưng tội. Thầy nhận lời và tôi thú hết, không giấu gì cả.
Thầy William lắng nghe tôi xưng tội từ đầu đến đuôi, lộ vẻ khoan dung. Khi tôi thú xong, thầy nghiêm nghị bảo:
– Adso, quả thật con đã phạm tội ngược lại điều răn cấm giao hợp, và cũng ngược lại với bổn phận của một tu sinh. Con chỉ có một lý do để bào chữa là con đã rơi vào một tình huống mà ngay cả thánh cũng phạm tội. Thánh kinh đã nói nhiều về tội cám dỗ của đàn bà. Hàng Giáo phẩm đã nói: đàn bà như lửa cháy, còn sách cách ngôn, trong kinh Cựu ước có viết: đàn bà chiếm lấy linh hồn quý giá nhất của đàn ông và làm hư hỏng những con người mạnh mẽ nhất… Điều thầy muốn nói với con, Adso ạ, là đương nhiên con không được phép tái phạm nữa, nhưng nếu con đã lỡ phạm tội thì cũng không đến nỗi gớm ghiếc lắm đâu. Một tu sĩ cũng nên trải nghiệm qua đam mê xác thịt, ít nhất là một lần trong đời, để về sau, có thể khoan dung và thông cảm với những kẻ phạm tội mà mình sẽ an ủi và khuyên nhủ… thế đấy, Adso ạ, đó là việc ta không mong cầu trước khi nó xảy ra, nhưng nếu nó đã lỡ rồi thì chớ nên nguyền rủa nó quá. Thế nên hãy đến với Chúa và đừng bàn thêm gì về việc ấy nữa. Chớ nên suy nghĩ, đeo đẳng mãi một việc mà ta nên quên… – Đến đây, giọng thầy như dịu xuống vì một xúc cảm riêng. – Nếu có thể, hãy bàn xem sự kiện đêm qua có ý nghĩa gì? Cô gái ấy là ai và đến đây để gặp người nào?
– Con không biết, con không trông thấy người ở bên nàng.
– Đúng, nhưng chúng ta có thể suy từ nhiều dữ kiện chắc chắn để biết kẻ ấy là ai. Thứ nhất, kẻ ấy phải già và xấu, một người mà cô gái không hoan hỉ đến gần, đặc biệt, nếu như cô ta đẹp như con tả, dù thầy nghĩ rằng con sói nhỏ của thầy ăn món gì cũng thấy ngon cả.
– Tại sao lại già và xấu hở thầy?
– Vì cô gái không đến với kẻ ấy vì tình yêu mà vì một gói thức ăn thừa. Cô ta hẳn là một thôn nữ, vì đói đã đến đây, có lẽ không phải là lần đầu, để bán thân cho tu sĩ dâm dục nào đó để đổi lấy miếng ăn cho bản thân và gia đình.
– Một gái điếm à! – tôi hoảng sợ kêu lên.
– Một gái quê nghèo thôi, Adso ạ. Có lẽ cô ấy còn đàn em thơ phải nuôi. Một cô gái, mà nếu có điều kiện, sẽ dâng hiến cho tình yêu chớ không phải dục vọng, như cô đã làm đêm nay vậy. Quả thực, con đã kể rằng nàng bảo con trẻ đẹp, và vì tình yêu đã tặng không con cái mà cô ta có thể dùng để đổi lấy một quả tim hay vài cái phổi bò. Cô ta cảm thấy cao cả và đạo đức vì món quà mà mình đã tự hiến quá, đến nỗi bỏ chạy mà chẳng lấy theo thứ gì để đổi chác cả. Do đó, thầy mới nghĩ rằng người mà cô ấy đã so sánh với con không thể trẻ và đẹp trai được.
Tôi thú thật rằng dù lòng rất đỗi ăn năn, lời thầy giải thích vừa rồi khiến tôi vô cùng tự hào. Tôi yên lặng nghe thầy nói tiếp:
– Tu sĩ già nua, xấu xí ấy phải có cơ hội xuống làng tiếp xúc với nông dân vì một công việc gì liên quan đến chức vụ của mình. Hắn phải biết cách đưa người ra vào tu viện, và biết trong nhà bếp có bộ đồ lòng ấy. Cuối cùng, hắn hẳn phải có tính tiết kiệm, không muốn nhà bếp mất đi những thức ăn bổ béo hơn: nếu không, hắn đã đưa cho cô gái một miếng thịt bíp-tếch hay một miếng thịt nào ngon lành đã lọc lựa. Thế là con thấy hình ảnh của một người lạ mặt hiện lên rất rõ, và tất cả những đặc tính này đều thích hợp với một người mà thầy chẳng ngại ngần chi mà không định tên: Đó là viên quản hầm Remigio của chúng ta. Còn nếu ta lầm, đó là con người bí ẩn Salvatore, người xuất thân từ địa phương này nên có thể nói chuyện dễ dàng với dân trong vùng và biết cách thuyết phục cô gái làm theo ý mình, nếu con không đến.
Tôi hài lòng nói: – Tất cả đều đúng cả, nhưng giờ đây chúng ta biết được kẻ đó thì có ích gì chăng?
– Không, có ích rất nhiều. Câu chuyện trên có thể có hay không có liên hệ với các án mạng mà chúng ta đang quan tâm. Mặt khác, nếu quản hầm là một tu sĩ dòng Dolcino, thì gốc gác của gã sẽ giải thích cho hành động này, và ngược lại. Cuối cùng, chúng ta biết được rằng tu viện này là nơi hay xảy ra nhiều biến cố kỳ quặc về đêm. Và ai có thể nói chắc rằng quản hầm của chúng ta, hay Salvatore, những kẻ đi lại dễ dàng trong tu viện vào ban đêm, lại không biết nhiều điều liên quan đến các biến cố, nhưng chưa nói ra?
– Họ sẽ kể cho chúng ta biết chứ?
– Không, nếu chúng ta thông cảm bỏ qua cái xấu của họ. Nhưng, nếu chúng ta thực sự muốn biết điều gì, chúng ta có cách thuyết phục họ nói. Nói khác đi, khi cần, quản hầm và Salvatore là những người ta có thể dùng, xin Chúa tha cho chúng con tội lừa lọc này, cũng như Ngài đã tha thứ nhiều tội khác nữa – Thầy tinh quái nhìn tôi, và tôi không có lòng dạ nào để bình luận các quan điểm đúng của thầy.
– Chúng ta nên về ngủ, vì còn một canh nữa là đến Kinh sớm. Nhưng Adso ạ, thầy thấy con vẫn còn ray rứt, sợ sệt vì tội lỗi của con… Chẳng có gì tốt hơn là vào nhà thờ cầu nguyện một lát để trấn an tinh thần. Thầy đã giải tội cho con, nhưng chưa chắc đã được. Hãy đến xin Chúa chứng nhận – Rồi thầy đánh nhẹ lên đầu tôi, có lẽ vừa tỏ lòng trìu mến cha con đầy cương nghị vừa trừng phạt rất khoan dung. Hay có lẽ, thầy thèm muốn được như tôi, vì thầy là con người khao khát những kinh nghiệm mới lạ và sống động.
Chúng tôi trực chỉ nhà thờ theo lối cũ. Tôi nhắm mắt vội vã theo thầy, vì đêm đó những bộ xương nhắc nhở tôi quá hiển nhiên về thân phận cát bụi của mình và niềm tự hào về xác thịt là ngu xuẩn biết bao.
Khi đến gian giữa của giáo đường, chúng tôi thấy một bóng người trước bàn thờ chính. Tôi tưởng đó là Ubertino, nhưng hóa ra lại là Alinardo. Thoạt tiên Huynh không nhận ra chúng tôi, Huynh nói không ngủ được nên định thức đêm để cầu nguyện cho một tu sĩ trẻ vừa mất tích (Huynh thậm chí cũng không nhớ tên). Huynh cầu nguyện cho linh hồn Huynh ấy, nếu đã chết và cho thân xác, nếu đang nằm bệnh hoạn, cô đơn đâu đó. Huynh nói:
– Nhiều người chết quá, nhiều quá… Nhưng điều này đã được ghi trong Phúc âm. Hồi kèn thứ nhất vang lên thì mưa đá đổ xuống. Hồi kèn thứ hai, một phần ba biển hóa máu. Các con đã tìm thấy một xác chết trong mưa đá, một xác khác trong máu… Hồi kèn thứ ba báo hiệu rằng, một ngôi sao bùng cháy sẽ rơi xuống phần thứ ba của sông hồ. Nầy nhé, người tu sĩ thứ ba của chúng ta đã mất tích. Hãy sợ cho người thứ tư, vì phần thứ ba của mặt trời, mặt trăng và tinh tú, sẽ bị đập nát và trời sẽ tối đen như mực…
Khi ra khỏi cánh ngang của nhà thờ, thầy William tự hỏi không biết trong lời tu sĩ già ấy có chứa đựng sự thực nào không? Tôi vạch rõ:
– Nhưng nói như thế có nghĩa là cho rằng đầu óc quỉ quyệt của kẻ nào đó đã theo lời sách Mặc khải để sắp xếp ba cái chết. Nói như thế cũng cho rằng Berengar đã chết! Nhưng ngược lại, chúng ta biết Adelmo đã tự tử chết…
– Đúng. Nhưng cái chết của Adelmo có lẽ đã gợi ý cho chính đầu óc quỷ quái, bệnh hoạn đó cách sắp xếp hai cái chết sau theo một biểu tượng nào đó. Nếu thế, người ta sẽ tìm thấy Berengar trong một con sông hay dòng suối. Còn trong tu viện thì không có sông, suối nào để người chết đuối cả…
– Chỉ có nhà tắm thôi, – Tôi bất thần nhận xét.
– Adso! Nè, đó có thể là ý hay đấy. Nhà tắm!
– Nhưng chắc họ đã tìm ở đó rồi…
– Sáng nay, thầy thấy các tôi tớ đi lùng kiếm, họ mở cửa phòng tắm nhưng chỉ liếc nhìn vào mà không xem xét kỹ lưỡng. Họ không nghĩ sẽ tìm thấy một vật được dấu kỹ, mà chỉ tìm kiếm một thây người nằm kệch cỡm ở đâu đó, như xác Venantius trong vại máu vậy… chúng ta đến đó xem đi. Trời còn tối, nhưng đèn chúng ta vẫn rạng lắm.
Thế là chúng tôi đi, ung dung mở cửa vào nhà tắm, cạnh bệnh xá.
Những tấm màn dày ngăn các bồn tắm với nhau, tôi không nhớ có bao nhiêu. Các tu sĩ tắm gội ở đây, còn Severinus dùng nó như một phương pháp trị liệu, vì không có gì bồi dưỡng thể xác và tinh thần tốt hơn đi tắm. Trong góc có xây một lò sưởi để dễ dàng đun nước. Trong lò có tro mới và phía trước là một nồi lớn nằm đổ nhào. Nước có thể lấy từ bồn ở góc kia.
Chúng tôi nhìn vào những bồn tắm trống đầu tiên. Chỉ có bồn tắm cuối cùng có kéo màn là đầy nước, cạnh bồn là một đống áo quần. Thoạt nhìn, dưới ánh đèn, mặt nước trông phẳng lì, nhưng khi đèn soi gần hơn, chúng tôi thoáng thấy một xác chết trần truồng dưới đáy bồn. Chúng tôi từ từ kéo xác ra: Berengar. Thầy William nói xác này quả thật có bộ mặt của người chết đuối. Mặt mũi chương phù. Thân hình trắng bệch và nhão nhẹt, không có lông, trông như thân thể một phụ nữ trừ bộ phận sinh dục gớm ghiếc ỉu sìu. Tôi đỏ mặt, rùng mình. Tôi làm dấu thánh giá còn thầy William làm phép trên xác.

nguồn :vnthuquan.net

28/04/2010

CÕI CHẾT – JAMES JOYCE

Filed under: TIỂU THUYẾT — nguyenthanhhien21 @ 15:42

Chương 1

Lily, cô con gái của người quản gia tiếp khách không ngớt. Treo nón mũ và áo choàng của người này chưa xong chuông cửa đã reo, cô phải vội chạy ra mở cửa cho một người khách khác. Cũng may Lily không phải lo tiếp các bà. Dì Kate và dì Julia đã cho biến cải một phòng tắm trên gác làm chỗ để nón mũ cho phái nữ và lo luôn việc tiếp khách. Dì Kate và dì Julia cười nói tíu tít với khách, thỉnh thoảng ngoái cổ xuống thang hỏi Lily ai vừa tới.

Dạ vũ hằng năm của nhà họ Morkan là một dịp vui lớn trong vùng. Ai cũng đến tham dự. Họ hàng bà con ở xa về, bạn bè thân thiết, thành viên trong ca đoàn của dì Julia, học trò lớn tuổi của dì Kate và có cả học trò nhỏ tuổi hơn của Mary Jane, cháu cưng của hai bà. Ðêm dạ vũ năm nào cũng rất thành công, mỗi năm một kiểu cách riêng, ngay cả sau khi Pat, người em trai độc nhất của hai bà chết, Kate và Julia bỏ ngôi nhà xinh xắn ở Stoney Batter dọn về một ngôi nhà nhỏ hơn trên đảo Usher thuê của ông Fulham để nuôi Mary Jane. Tính ra cũng gần 30 năm, khi Mary Jane còn là một cô gái thích mặt váy ngắn nổi tiếng trong vùng nhờ tài chơi đàn ống ở nhà thờ. Tốt nghiệp trường mỹ thuật, Mary Jane mở lớp dạy nhạc. Học trò của cô thuộc các gia đình quí phái trong vùng như Kingstown và Dalkey. Tuy đã lớn tuổi hai người cô của Mary Jane cũng được mọi người chú ý nhờ hát hay và giỏi âm nhạc. Julia dẫn đầu giọng cao trong ban nhạc Adam và Eve. Kate, sức khỏe kém hơn dạy piano cho những người mới học trong một phòng nhỏ phía sau nhà. Lily lo việc nhà cửa và nấu nướng. Ba cô cháu sống không phô trương nhưng biết chọn món ăn và hơi cầu kỳ một chút: thịt thăn bò hảo hạng, trà ướp hoa lài và bia đen đựng trong chai. Lily biết ý chọn thức ăn cẩn thận nên hợp tính với ba cô chủ. Nói chung ba cô chủ cũng dễ chìu, miễn là đừng có thói cãi lại tay đôi với chủ.

Ðêm dạ vũ ba cô chủ có khó tính đòi hỏi này nọ một chút cũng dễ hiểu. Hơn mười giờ rồi mà chưa thấy vợ chồng Gabriel đến. Còn Freddy Malins, sợ nhất là uống rượu đâu ngà ngà say mới đến. Mấy bà chủ ngại học trò của Mary Jane thấy Freddy Malins lúc chàng say, lúc say chàng ta ăn nói rất bừa bãi. Freddy Malins thường đến trễ, nhưng không biết sao hôm nay Gabriel cũng trễ. Cách hai ba phút hoặc Kate, hoặc Julia ngoái cổ xuống lầu hỏi Lily Gabriel hay Freddy đã tới chưa.

– Chào ông Conroy, Lily vừa mở cửa vừa chào Gabriel, dì Kate dì Julia tưởng ông bà không tới được, và xin chào bà Conroy.

– Tôi cũng tưởng không tới được, Gabriel hóm hỉnh nhìn vợ trả lời, mấy dì đâu có biết bà vợ tôi sửa soạn sắc đẹp mất ba giờ đồng hồ.

Gabriel đứng nơi ngưỡng cửa phủi tuyết dính vào giày, trong khi Lily dẫn bà vợ đến chân cầu thang nói vọng lên trên.

– Dì Kate, bà Conroy đã đến.

Kate và Julia vội chạy xuống thang lầu hôn bà Conroy rối rít, nói tưởng bà ta bị tuyết chôn rồi và hỏi Gabriel có đến không.

– Tôi đến có trễ lắm đâu, dì Kate. Dì lên trước đi, tôi sẽ theo ngay, vừa nói bà Conroy vừa gọi Gabriel nhanh lên.

Gabriel tiếp tục phủi tuyết dính trên vai áo choàng và mũi giày trong khi ba người phụ nữ bước lên phòng cất áo mũ, vừa cười vừa nói oang oang. Gióù lạnh buốt lùa vào phòng qua khe cửa vừa đóng.

– Tuyết lại rơi phải không, thưa ông Conroy… Lily hỏi.

Cô đi trước vào phòng nhỏ bên cạnh dùng để vắt áo mũ, sẵn sàng giúp Gabriel cởi chiếc áo choàng. Gabriel mĩm cười cung cách xưng hô của Lily, chàng ngước nhìn cô gái duyên dáng. Lily thon nhỏ, đang độ nẩy nở, tóc vàng, nước da ngăm ngăm. Ánh sáng bập bùng nơi lò sưởi tỏa ra làm nước da cô ngăm hơn. Gabriel biết Lily từ hồi cô còn là một cô bé tí xíu hay ngồi dựa vào bậc thang gác gỗ chơi búp bê.

– Vâng, cô Lily, tuyết lại xuống, ít nhất suốt đêm nay. Gabriel ngước nhìn trần nhà rung rinh theo bước chân trên sàn phòng nhảy trên lầu, lắng nghe tiếng đàn piano một lúc rồi quay nhìn Lily đang xếp áo choàng của chàng đặt lên kệ gỗ.

– Cô còn đi học không Lily… Gabriel thân mật hỏi.

– Thưa ông, không. Năm nay tôi đã nghỉ học.

– Gabriel vui vẻ, vậy chúng tôi sắp được ăn cưới của cô với người thanh niên trẻ tuổi đó rồi.

Lily ngoái nhìn Gabriel, trả lời giọng không vui.

– Ðàn ông bây giờ chỉ biết ba hoa để chiếm đoạt thôi, thưa ông.

Gabriel biết mình lỡ lời. Chàng tránh đôi mắt của Lily, cúi xuống dùng chiếc khăn quàng cổ đập mạnh vào đôi giày da còn bám tuyết.

Gabriel còn trẻ, nước da như sạm nắng, lưỡng quyền cao nhô ra thi đua với chiếc trán vồ điểm những vết đỏ không hình dáng. Ðôi mắt sáng như thấu suốt mọi chi tiết chung quanh ẩn dưới đôi kính gọng vàng lóng lánh. Mái tóc đen dày chải lật ra sau, nằm hai bên một đường ngôi ở giữa, uốn cong lên dưới vành mũ.

Phủi đôi giày thật bóng xong, Gabriel đứng lên kéo thẳng chiếc áo gi – lê trên thân hình đẫy đà, xong lấy trong túi một đồng dúi vào tay Lily.

– Cô Lily, tôi có chút ít này, mùa Giáng sinh đến rồi, vừa nói vừa rảo bước đến bậc thang dẫn lên lầu.

– Lily vừa chạy theo Gabriel vừa nói, không, thưa ông, tôi không nhận đâu.

– Gabriel đi như muốn chạy vừa khoác tay ra sau vừa bảo, mùa Giáng sinh, mùa Giáng sinh mà cô Lily.

Thấy Gabriel đã bước lên mấy bậc thang Lily đành nói với theo.

– Cám ơn ông vậy.

Bản đàn khiêu vũ chưa dứt, Gabriel đứng đợi ngoài cửa lắng tai nghe tiếng động nhè nhẹ trên sàn. Gabriel còn áy náy về thái độ của Lily lúc nãy, hai tay sửa áo và nơ cổ để cố quên. Chàng rút trong túi áo gi – lê một mảnh giấy ghi đại ý những gì chàng sẽ phát biểu trong bữa cơm hôm nay. Chàng ghi vài ý của Robert Browning nhưng do dự không biết có nên dùng không, sợ cử tọa không hiểu. Nhắc đến Shakespeare hay Melodies chắc ai cũng biết. Nghe tiếng chân nhảy trên sàn, Gabriel đoán biết đa số khách không thuộc lớp tuổi và giáo dục của ông. Ðem văn thơ nói chuyện với họ là một sự lố bịch và họ có thể nghĩ ông muốn khoe sự hiểu biết của ông. Ông sẽ thất bại với giới trẻ như câu hỏi vô ý tứ vừa rồi với Lily. Ông nghĩ những gì đã soạn sẵn không dùng được.

Vừa lúc đó hai bà dì và vợ ông từ phòng vắt áo của các bà bước ra. Hai dì trộảng tuỗi, ăn mặt đúng cách. Dì Julia cao hơn dì Kate mấy phân, tóc bạc phủ xuống quá vành tai, da mặt trắng, sậm hơn tóc, vết nhăn trông rõ trên khuôn mặt rộng. Dì còn khỏe, lưng thẳng, nhưng đôi mắt không nhanh nhẹn, đôi môi trề làm cho dì có dáng dấp của một phụ nữ không biết mình đang ở đâu và làm gì. Dì Kate tuy không khỏe bằng nhưng sắc sảo hơn. Khuôn mặt còn đầy sức sống dù có những vết nhăn, mái tóc vẫn còn giữ được màu nâu của tuổi trẻ, quấn theo kiểu phụ nữ lớn tuổi.

Hai bà vui mừng hôn Gabriel. Gabriel là cháu cưng của hai bà, con trai của chị Ellen đã qua đời. Bà Ellen làm dâu dòng họ Conroy giàu có ở Port & Docks.

– Gretta nói với dì hôm nay cháu sẽ không dùng xe ngựa về khách sạn phải không, dì Kate hỏi.

– Dạ phải, Gabriel vừa đáp vừa nhìn vợ, nhớ năm trước ngán quá phải không em… Chắc dì còn nhớ Gretta đã bị lạnh như thế nào. Cửa xe kêu lạch cạch suốt đoạn đường, và sau khi qua khỏi Merrion gió đông lùa vào xe lạnh không chịu được. Vui thì có vui, nhưng Gretta sau đo bị cảm cúm.

Dì Kate vừa nghe vừa gật gù.

– Gabriel, nhưng cũng vậy thôi. Cẩn thận là tốt, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng cẩn thận được. Dì Kate nói.

– Nhưng với Gretta, Gabriel nói, nếu để tùy ý thì trời tuyết cũng vẫn muốn đi bộ thôi.

Gretta cười, tiếp lời Gabriel.

– Dì Kate, đừng để ý những gì ảnh nói. Ảnh rất nhiều chuyện. Ảnh bắt Tom đeo kính mầu lục ban đêm, tập tạ và bắt Eve ăn cháo bắp trộn sữa. Tội nghiệp Eva, thấy cháo đã muốn ói nói gì đến ăn. Chưa hết, nếu dì đoán được ảnh muốn cháu ăn mặc như thế nào. Ảnh bảo cháu mang ủng mỏng bọc ngoài đôi giày. Ảnh nói trời tuyết trên lục địa ai cũng dùng. Mang ủng mỏng bọc giày thì còn gì là đôi chân của phụ nữ. Hôm nay ảnh bắt cháu mang, cháu nhất định không mang. Cứ đà này ảnh sẽ mua cho cháu một bộ đồ thợ lặn để dùng khi trời mưa.

Vừa nói Gretta vừa cưới ngất nhìn chồng đang nhìn nàng dắm đuối từ trang phục đến khuôn mặt, mái tóc. Hai bà dì cũng cười thích thú với lối nói diễu cợt của Gretta.

– Gretta, dì Kate bỗng hỏi, mấy đứa nhỏ ở nhà một mình cháu có lo không…

– Dạ, một đêm thì không sao. Hơn nữa còn có Bessie coi tụi nó.

– Dì hỏi để yên bụng thôi, dì Kate nói. Không gì tốt bằng có một người giúp việc tin cậy. Ở đây dì có Lily. Có điều gần đây không biết vì sao cô ta hơi đổi tính.

Gabriel định hỏi thêm chuyện đó, bỗng thấy dì Kate ngừng nói ngoái cổ xuống cầu thang nhìn Julia đang chạy xuống lầu. Dì hỏi, Julia, Julia em đi đâu vậy. Cái gì đó…

Julia bước lên, không vội vã, trả lời:

– Freddy tới

Vào lúc đó có tiếng vỗ tay vọng ra từ phòng khiêu vũ. Tiếng đàn piano kết thúc bản nhạc vanxơ. Cửa phòng dạ vũ mở, nhiều cặp nam nữ bước ra. Dì Kate kéo Gabriel ra một bên ghé vào tai dặn dò:

– Gabriel, cháu giúp dì xuống tiếp Freddy. Nếu thấy hắn say đừng cho hắn lên, phiền lắm. Dì chắc hắn say.

Gabriel đứng trên bậc thang nghiêng tai vào tay vịn cầu thang để nghe cho rõ. Có tiếng hai người đang nói chuyện với nhau dưới lầu. Nhận ra tiếng cười của Freddy Malins, Gabriel vội vã chạy xuống, đế giày ròn rã trên bậc thang.

– Có Gabriel ở đây dì yên tâm, bà Kate nói với Gretta. Quay sang Julia, Kate nói, cô Daly và cô Power đang khát nước. Cám ơn Daly, cô đàn bản vanxơ hay quá. Cô làm cho buổi dạ vũ thêm phần giá trị.

Một người đàn ông cao lớn da mặt nhăn, ngăm ngăm đen, bộ râu cứng đã ngả màu, từ phòng dạ vũ bước ra với một người phụ nữ, nói với dì Kate.

– Bà Morkan, chúng tôi có thể dùng nước giải khát không…

– Dì Kate nói với Julia, đây là ông Browne và cô Furlong. Em đưa họ và các cô Daly, Power vào phòng giải khát luôn.

– Tôi là người đàn ông của phụ nữ, ông Browne nói, môi mím chặt làm bộ râu dựng lên như bàn chải, cười toe toét làm nổi bật thêm các vết nhăn trên mặt. Bà Morkan, bà có biết tại sao phụ nữ thích tôi không…

Chưa nói hết câu ông Browne thấy dì Kate bỏ đi chỗ khác, ông vội đưa ba người phụ nữ vào phòng giải khát. Giữa phòng có hai bàn hình vuông kê sát nhau. Dì Julia và người quản gia đang trải và vuốt thẳng tấm khăn bàn. Góc phòng có một bàn nhỏ để một chồng đĩa, li, dao, muỗng, nỉa. Trên cây đàn piano sát tường có thịt nguội và thức uống, rượu li – cơ, rượu vang, nước ngọt và bánh. Gần đó hai người trẻ tuổi đứng uống nước ngọt trước một bàn nhỏ khác.

Chương 2

Ông Browne đưa ba người phụ nữ đến chỗ để nước uống và rượu. Ba người phụ nữ nói không uống được rượu, ông Browne mở ba chai nước chanh lịch sự mời. Xong tự rót đầy một ly whiskey, nhắp nhắp thử rượu rồi nốc cạn ly. Hai người trẻ tuổi nhìn ông Browne ra vẻ thán phục.

– Xin đừng lấy làm lạ, ông vừa cười vừa nói, bác sĩ bảo whiskey là thuốc của tôi.

Ba người phụ nữ ngặc nghẹo cười theo ra chiều khoái trá. Một cô bạo dạn hỏi:

– Này ông Browne, ông nói vậy chớ chẳng có bác sĩ nào viết toa như vậy phải không…

– Chưa chắc, cũng tùy bác sĩ thôi, ông Browne trả lời.

Ông Browne vừa nói vừa dí mặt nóng hổi gần mặt mấy người phụ nữ trẻ tuổi, giọng nói thuộc giới hạ lưu Dublin làm ba người phụ nữ thấy chột dạ không ai muốn trả lời. Cô Furlong, một người học trò của Mary Jane hỏi cô Daly bản nhạc vanxơ cô vừa đàn là bản gì, và ông Browne cảm thấy bị bỏ rơi quay sang nói chuyện với hai thanh niên trẻ tuổi.

Một phụ nữ hồng hào, mặc một chiếc áo ngắn sặc sỡ bước vào phòng vỗ tay nói lớn:

– Ai muốn nhảy quadri, ai muốn nhảy quadri…

– Chúng ta cần hai nam và ba nữ, Mary Jane. Dì Kate theo sau dặn với.

– Ðây rồi, ông Bergin và ông Kerrigan, Mary Jane vui mừng nói, ông Kerrigen, ông nhảy với cô Power nhé… Còn cô Furlong, tôi giới thiệu cô nhảy với ông Bergin, như vậy tạm đủ rồi.

– Chưa đủ Mary Jane, cần ba nữ lận.

Trong khi Bergin và Kerrigan mời cô Power và Furlong vào phòng khiêu vũ, Mary Jane hỏi cô Daly.

– Cô Daly, cô đã đánh hai bản đàn mệt rồi tôi không dám mời, nhưng hôm nay thiếu phụ nữ, cô nhảy quadri nhé…

– Không sao đâu, tôi còn sức mà, cô Morkan.

– Tôi có một bạn nhảy lý tưởng cho cô, ông Bartell D’Arcy, người hát giọng cao trong ban nhạc. Nhưng ông ta sẽ hát sau. Cả thành phố Dublin này đang nói về ông ta.

– Giọng của ông D’Arcy thì tuyệt, dì Kate phụ họa.

Nghe piano trổi nhạc Mary Jane dẫn mọi người bước nhanh ra khỏi phòng. Họ vừa ra dì Julia bước vào, vừa đi vừa ngoái nhìn phía thang lầu.

– Gì vậy Julia… Dì Kate hỏi có vẻ lo lắng. Ai vậy…

Julia, hai tay ôm một chồng giấy lau tay, quay nhìn dì Kate, hơi ngạc nhiên về câu hỏi của chị.

– Có gì đâu Kate. Freddy tới và Gabriel đang mời ông ta lên.

Ngay lúc đó Gabriel và Freddy Malins bước vào. Freddy Malins, trạc bốn mươi, thân hình chắc chắn như Gabriel, đôi vai gọn. Mặt đầy, da hơi tái, mũi thấp nằm giữa hai trái tai đỏ ửng. Dáng dấp hơi thô, trán cong núp sau đôi lông mày rậm, môi mọng hơi trề. Mí mắt lớn che một phần đôi mắt và bộ tóc thưa lộn xộn làm cho ông ta như người buồn ngủ. Freddy đang khoái chí cười kể một câu chuyện gì đó cho Gabriel, vừa dùng lưng bàn tay trái dụi mắt.

– Chào Freddy, dì Julia nói.

Freddy Malins đáp lễ dì Julia cho có lệ vì giọng vốn khó nghe, bước nhanh băng qua phòng đến nơi ông Browne đang đứng, nhìn ông ta vừa cười, vừa kể lại câu chuyện vui vừa kể cho Gabriel nghe.

– Hôm nay Freddy không say lắm phải không… Dì Kate hỏi Gabriel.

– Chút chút thôi, Gabriel trả lời.

– Không đến nổi gì đâu, dì Kate nói tiếp. Trước ngày đầu năm vừa rồi mẹ anh đã bắt anh thề không uống rượu. Nhưng thôi, Gabriel mình vào phòng nhảy đi cháu.

Trước khi rời phòng với Gabriel, dì Kate nhíu mày ra hiệu cho ông Browne và đưa ngón tay qua lại. Ông Browne hiểu ý gật đầu. Dì Kate vừa ra khỏi ông Browne quay sang nói với Freddy.

– Tôi sẽ mời anh uống một li nước chanh cho khỏe.

Freddy khoát tay từ chối, muốn kể tiếp câu chuyện đang kể, trong khi ông Browne nhắc Freddy sửa lại vạt áo gi – lê vừa rót đưa tận tay Freddy một ly nước chanh đầy. Không tỏ ý quan tâm, Freddy đưa tay trái cầm ly nước chanh, tay phải sửa lại vạt áo cho ngay. Ông Browne tự rót cho mình một ly whiskey trong khi Freddy Malins đặt vội ly nước chanh đầy chưa đụng môi xuống bàn đưa lưng bàn tay dụi mắt, giọng khàn khàn cười thích thú kết thúc câu chuyện.

Phòng dạ vũ chật ních. Gabriel không chú ý thưởng thức bản đàn Academy Mary Jane đang dạo, từng đoạn từng khúc như lên thác xuống ghềnh. Gabriel thích âm nhạc, nhưng bản Academy không mang lại cho ông một giai điệu gợi nhớ nào, và ông ta nghĩ thính giả trong phòng cũng vậy, mặc dù chính họ đã yêu cầu Mary Jane dạo một bản đàn. Bốn người trẻ tuổi bên phòng giải khát đi sang, dừng lại nghe tiếng đàn, rồi sau vài phút chia nhau từng cặp tiến ra sàn nhảy. Hình như không ai để ý đến nhạc ngoại trừ Mary Jane đôi bàn tay thoăn thoắt trên phím đàn và dì Kate đứng bên cạnh lật từng trang nhạc cho Mary Jane.

Tránh ánh sáng phản chiếu xuống sàn bóng nhoáng từ chùm đèn treo trên trần nhà Gabriel ngước mắt nhìn mấy bức tranh lông treo phía trên cây đàn piano. Một bức minh họa Juliet đứng trên bao lơn tình tự với Romeo tả trong cuốn Romeo và Juliet treo bên cạnh một bức khác minh họa hai vị hoàng tử bị giết trong cuốn Tower, cả hai do dì Julia thực hiện bằng len mầu đỏ, xanh và nâu lúc dì còn là một cô gái. Có lẽ vào thời đó ở trường người ta dạy các nữ sinh thực hiện những tác phẩm như vậy, vì có một năm nhân sinh nhật mẹ chàng làm cho chàng một chiếc áo gi – lê bằng nhung tím, trên có mấy đầu chồn bằng lông nho nhỏ viền bằêng sa – tanh màu nâu, đơm nút mầu xanh lá dâu. Gabriel lấy làm lạ không hiểu sao mẹ chàng không có khiếu âm nhạc vẫn được dì Kate xem là người thừa kế tinh hoa của nhà họ Morkan. Dì Kate và dì Julia lúc nào cũng tự hào về người chị nghiêm khắc của mình. Gabriel nhìn kỹ bức hình của mẹ gắn trên một khung gỗ bóng nhoáng treo gần đó. Bà ngồi một tay đỡ một cuốn sách mở trên đầu gối, tay kia chỉ một cái gì trên trang giấy cho Constantine mặc quân phục đang quì bên cạnh chăm chú nhìn. Bà đích thân chọn tên cho các con vì bà rất quan tâm đến truyền thống của dòng họ. Nhờ bà Constantine trở thành phó mục sư địa hạt Balbriggan và Gabriel tốt nghiệp được tại đại học Hoàng gia. Một kỷ niệm không vui khi Gabriel nhớ lại sự phản đối của mẹ đối với hôn nhân của chàng. Những lời mẹ nói về Gretta chàng vẫn còn nhớ. Có lần bà cho Gretta chỉ là một cô gái quê nhí nhảnh đa tình, và đến nay Gabriel vẫn khó đồng ý với mẹ. Chính Gretta là người đã tận tụy chăm sóc bà trong những ngày tháng dài bà nằm trên giường bệnh tại nhà ở Monktown trước khi qua đời.

Gabriel biết bản đàn sắp dứt, Mary Jane đang đạo lại đoạn mở đầu, lòng chàng dịu lại. Mary Jane kết thúc bản đàn, cung điệu vút lên cao đột nhiên xuống thấp rồi tắt hẳn. Tiếng vỗ tay vang dội trong khi Mary Jane thoải mái đậy nắp đàn đứng dậy bước ra khỏi phòng. Mấy người trẻ tuổi nãy giờ ở bên phòng giải khát vừa trở lại phụ họa vỗ tay ròn rã nhất.

Bản nhạc tới Gabriel được xếp nhảy với cô Ivors. Ivors là một phụ nữ trẻ tuổi ăn nói tự nhiên đến độ không giữ gìn, mặt tàn nhang và đôi mắt nâu sắc sảo. Cô không mặc áo ngắn phủ lên trên chiếc áo đầm như các phụ nữ khác làm hiện rõ một con bướm nhựa to tướng gắn trước cổ áo.

Ðiệu vũ vừa bắt đầu Ivors đột ngột nói với Gabriel.

– Tôi có một câu đố cho anh.

– Cho tôi… Gabriel hỏi.

Cô Ivors gật đầu một cách quan trọng.

– Gì vậy… Gabriel nhìn Ivors cười, nghiêm nghị

– Ai là G. C…. Ivors trả lời, nhìn thẳng vào mắt Gabriel.

Gabriel hơi nóng mặt, cau mày định tỏ ý không hiểu câu hỏi của Ivors thì Ivors nói một hơi.

– Ông Amy ngây thơ ơi! Tôi biết tỏng anh viết cho tờ Daily Express. Anh không thấy ngượng sao…

– Tại sao tôi phải ngượng, Gabriel hỏi, mắt chớp nhanh, cố gắng giữ nụ cười trên môi.

– Vâng. Tôi thì rất ngượng cho anh, cô Ivors thẳng thừng trả lời. Anh mà lại viết cho một tờ báo lá cải như vậy. Tôi không thể nghĩ anh là người Ái nhĩ lan.

Vẻ lúng túng hiện trên nét mặt Gabriel. Ðúng, chàng có phụ trách mục văn học mỗi ngày Thứ tư cho tờ The Daily New, mỗi kỳ mười lăm bản Anh. Nhưng không vì vậy mà chàng không phải là người Ái nhĩ lan. Sách tòa báo gởi đến cho chàng để phê bình giá trị hơn mười lăm đồng mỗi kỳ nhiều. Chàng không quên cảm giác khoái trá khi nhìn những chiếc bìa sách mới tinh và lật những trang chữ còn thơm mùi giấy ở nhà in. Hằng ngày sau giờ dạy họĩc Gabriel hay tạt qua mấy tiệm sách cũ bên bờ sông từ tiệm Hickey’s trên đường Bachelor’s Walk, tiệm Webb’s, tiệm Massey’s cho đến tiệm O’Clohussey nằm một con đường nhỏ khác. Gabriel không biết nên trả lời Ivors sao. Gabriel muốn nói văn học trên chính trị. Nhưng hai người vốn là bạn lâu năm, từ những ngày học ở đại học, nay cùng đi dạy, Gabriel không muốn dùng lời lẽ quan trọng với Ivors. Gabriel tiếp tục chớp mắt, giữ nụ cười vô thưởng vô phạt và trả lời đại khái chàng không thấy có gì là chính trị khi phụ trách một mục phê bình văn học.

Ðến lúc cần xoay mình theo điệu vũ, Gabriel vẫn còn bối rối. Cô Ivors vội nắm chặt bàn tay của Gabriel nói một cách thân mật.

– Tôi chỉ nói đùa thôi. Nào hãy chuẩn bị.

Xoay xong, Ivors kể chuyện bàn tán ở trường đại học và tại sao cô biết chuyện viết phê bình văn học của Gabriel làm Gabriel thấy dễ chịu. Một người bạn cho cô xem một bài nhận định về thơ Browning và cô đoán biết ngay ai là tác giả. Ivors nói cô thích bài phê bình đó. Bỗng cô Ivors đổi đề tài.

– Này anh Connor. Mùa hè này có ra mũi Aran chơi không… Chúng tôi ra nghỉ hè ở đó một tháng. Mùa hè Ðại tây dương đẹp lắm. Anh nên đi. Ông Clancy cũng đến, và các ông Kilkelly, Kathleen Kearney. Nếu Gretta cùng đi với anh thì tuyệt. Gretta người vùng Galway phải không…

– Hình như vậy, Gabriel đáp gọn lỏn.

– Ðến nghe, hứa đi, vừa nói Ivors vừa đặt bàn tay ấm áp của cô trên cánh tay của Gabriel để thuyết phục.

– Rất tiếc, tôi đã có một chương trình nghỉ hè.

– Anh đi đâu… Ivors hỏi.

– Cô biết năm nào tôi và một số bạn cũng đi một vòng du lịch bằng xe đạp.

– Nhưng đi đâu… Ivors nhắc lại câu hỏi.

– Thường chúng tôi đi Pháp, Bĩ hay Ðức, Gabriel miễn cưỡng trả lời.

– Tại sao anh đi Pháp và Bĩ, cô Ivors nói, trong khi nước mình có biết bao chỗ đáng xem.

– Ðúng vậy, Gabriel trả lời, nhưng một phần để học thêm ngoại ngữ, một phần để thay đổi không khí.

– Còn tiếng Ái nhĩ lan, ngôn ngữ của chúng ta thì sao, cũng cần được trau dồi vậy… Ivors hỏi.

– Ồ, Gabriel đáp, nếu lý luận như cô thì tôi phải thành thật nói rằng tiếng Ái nhĩ lan không phải là ngôn ngữ của tôi.

Nhận thấy những người đang nhảy bên cạnh chú ý đến câu chuyện giữa hai người Gabriel lúng túng nhìn chung quanh, cố giữ thái độ bình thản mặc dù trán ông bừng nóng.

– Anh cũng có một quê hương, Ivors tiếp tục tấn công, một dân tộc, một xứ sở mà anh chưa biết được nhiều.

– Nói thật với cô, Gabriel trở nên khó chịu, tôi chán quê hương của tôi lắm rồi, chán lắm.

– Tại sao… Ivors hỏi

Gabriel không trả lời, người nóng ran.

– Tại sao… Ivors gặng hỏi

Thấy Gabriel không muốn trả lời, cô Ivors nói, giọng làm hòa

– Lẽ dĩ nhiên, anh không có câu trả lời thỏa đáng.

Chương 3

Không muốn Ivors thấy mình bực mình, Gabriel giả vờ chú ý nghe nhạc và nhảy một cách thích thú, tránh đôi mắt soi mói của Ivors. Khi điệu nhạc đổi đoàn người khiêu vũ nắm tay nhau thành một vòng tròn Ivors nắm chặt bàn tay Gabriel và nhìn chàng đấu dịu cho đến khi Gabriel hiểu ý mĩm cười. Nhạc lại đổi, vòng tròn trở thành từng cặp trên sàn, Ivors nhón chân nói nhỏ vào tai Gabriel

– Anh chỉ là một người Anh trên đất Ái nhĩ lan!

Bản nhạc dứt, Gabriel bước đến nói chuyện với mẹ Freddy Malins đang ngồi ở một góc phòng. Bà đã già, người nhỏ con, thân hình chắc chắn, mái tóc trắng như tuyết. Khi bà nói, lời chập vào nhau giọng khàn khàn như Freddy. Có người cho bà biết hôm nay Freddy có mặt và không say lắm. Gabriel hỏi thăm bà đi qua eo biển có say sóng không. Bà ở với gia đình cô con gái tại Glasgow, mỗi năm về Dublin thăm một lần. Bà nói biển đẹp và ông thuyền trưởng đối đãi rất lịch sự với bà. Bà tả ngôi nhà xinh đẹp của con gái ở Glagow và các bạn của con bà. Bà vui miệng kể chuyện này sang chuyện khác không ngừng làm Gabriel thấy vui lây quên sự bực mình với cô Ivors mấy phút trước. Ivors vốn là một phụ nữ dễ thương, nhưng cái gì cũng có lúc. Gabriel nghĩ, đáng ra chàng không nên trả lời cô như vậy. Nhưng cô ta đâu có quyền xem mình là “một người Anh trên đất Ái nhĩ lan” trước mặt người khác dù là nói đùa. Cô không coi mình ra gì, cật vấn và nhìn mình bằng đôi mắt xoi mói.

Gabriel thấy vợ lách giữa mấy cặp đang nhảy vanxơ tiến về phía chàng. Ðến gần nàng nói khẻ.

– Gabriel, dì Kate hỏi anh có muốn cắt thịt ngỗng như thường lệ không. Cô Daly cắt đùi thịt lợn ướp khô, còn em cắt bánh put – đinh.

– Ðược, được, Gabriel trả lời.

– Sau bản vanxơ này dì Kate sẽ nhờ mấy người trẻ tuổéi chuẩn bị phòng ăn.

– Em có nhảy không… Gabriel hỏi

– Có. Anh không thấy em nhảy sao… Anh trao đổi gì có vẻ gay cấn với Molly Ivors vậy…

– Có gì gay cấn đâu. Sao em hỏi vậy… Ivors có nói gì với em hả…

– Ðại ý như vậy, Gretta lảng sang chuyện khác, em đang thuyết phục ông D’Arcy hát. Em nghĩ ông ta quá tự hào giọng hát của mình.

– Anh không tranh luận gì với cô ta cả, Gabriel trở lại câu chuyện, cô ta mời chúng ta về miền tây Ái nhĩ lan chơi và anh cho biết anh không đi được.

Gretta vỗ tay thích thú.

– Ði đi anh. Em muốn có dịp về thăm Galway.

– Em muốn đi thì đi, anh không đi được, Gabriel lạnh nhạt trả lời

Gretta nhìn chồng một giây, rồi quay qua nói với bà Malins

– Thôi, tôi xin để ông chồng yêu quí của tôi hầu chuyện bà.

Nói xong Gretta lách qua sàn nhảy đầy người bước ra khỏi phòng. Bà Marlins không tỏ ý quan tâm đến Gretta, tiếp tục nói về cảnh đẹp ở Scotland cho Gabriel nghe. Năm nào con rễ bà cũng mời gia đình bà lên Scotland nghỉ hè và đi câu cá. Rễ bà câu cá rất giỏi. Có hôm ảnh câu được một con cá lớn mấy người đàn ông ở cùng khách sạn đã nấu một bữa ăn rất ngon.

Gabriel chỉ nghe bà nói cho có chuyện. Khách sắp dùng cơm tối, chàng nghĩ đến bài nói chuyện, nói gì và trích dẫn gì. Thấy Freddy Malins đến nói chuyện với mẹ Gabriel nhường ghế cho Freddy, bước đến khung cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Sàn nhảy đã vắng, một số khách nhảy đã thấm mệt đứng thành từng nhóm nói chuyện với nhau. Phòng giải khát bên cạnh đang được dọn dẹp, tiếng bát đĩa dao nghe lách cách sau lưng. Gabriel đưa ngón tay gõ gõ vào kính cửa sổ. Bên ngoài trời lạnh, yên tĩnh, thật nên thơ. Ước gì lúc này được tự do thả bộ dọc bờ sông, ra phía công viên nhìn tuyết phủ trên cành cây và nhìn chiếc mũ tuyết trắng lớn trên pho tượng tướng Wellington. Ðược ở ngoài đó lúc này thích hơn ở đây ăn cơm nhiều.

Gabriel nghĩ đến mấy điểm chính của bài nói chuyện: tính hiếu khách của người Ái nhĩ lan, những kỷ niệm đau buồn của đất nước, trích dẫn Browning… Gabriel lẩm bẩm câu văn chàng viết trong mục phê bình văn học mới đây: “Ðọc thơ ông như nghe một điệu nhạc bi hùng làm tâm hồn người nghe trăn trở. ” Ivors khen hay. Cô ta khen thật không… Ivors có một đời sống cho riêng cô không hay chỉ sống để rao giảng điều cô ta tin tưởng… Giữa hai người chưa hề có chuyện bất hòa cho đến hôm nay. Gabriel thấy khó chịu khi nghĩ đến chốc nữa đây Ivors sẽ nhìn chàng chòng chọc với đôi mắt nghi ngờ khi chàng nói. Có thể cô ta mong chàng làm cho cử tọa thất vọng. Một ý nghĩ thoáng qua làm Gabriel can đảm. Chàng sẽ gián tiếp nhắc đến dì Kate và dì Julia, thí dụ như: Thưa quí vị, không phải thế hệ trước chúng ta lúc nào cũng hoàn hảo nhưng theo tôi họ có một số đức tính như hiếu khách, trào phúng và nhân bản mà thế hệ trẻ chúng ta hôm nay thiếu. Câu đó dành cho Ivors, nghĩ đến đó Gabriel thấy khoái trá, chàng không quan tâm đến việc hai bà dì của chàng chỉ là hai người đàn bà tầm thường thôi.

Gabriel chú ý đến tiếng rì rào quanh mình. Ông Browne đang đưa dì Julia bước vào phòng. Tay dì dựa vào cánh tay của ông Browne, miệng mĩm cười, đầu ngẩng cao tự tin. Cử tọa vỗ tay khuyến khích cho đến khi dì Julia đến gần bên cây đàn piano. Mary Jane ngồi vào chiếc ghế trước cây đàn, dì Julia nghiêm trang quay về phía cử tọa bắt đầu thử giọng trong khi tiếng rì rào trong phòng tắt dần chờ đợi. Gabriel nhận ra điệu nhạc. Ðó là bài Arrayed for the Bridal rất ưa thích của dì Julia. Giọng hát của dì âm vang trong căn phòng mang sức sống đến cho bài hát ngay từ lúc bắt đầu với giọng hát mạnh mẽ trong trẻo, và mặc dù dì hát nhanh dì không nuốt một âm nhỏ nào. Không nhìn dì, chỉ nghe giọng hát người nghe có cảm tưởng như đang bay bổng giữa từng mây một cách an toàn đầy khoái cảm. Gabriel nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng cùng với cử tọa khi bài hát vừa dứt. Từ phòng giải khát tiếng vỗ tay tiếp sức nổ như pháo ran. Sự tán thưởng của cử tọa làm khuôn mặt dì Julia ửng hồng khi dì cúi xuống khép tập nhạc bìa da đã cũ trên có khắc hai chữ đầu tên dì. Freddy Malins nghiêng nghiêng đầu thưởng thức khi nghe hát vẫn còn vỗ tay một mình khi tiếng vỗ tay trong phòng đã tắt vừa bày tỏ sự thán phục với mẹ trong khi bà Malins gật gật đầu đồng ý. Sau cùng, Freddy thôi vỗ tay tiến đến bên dì Julia hai tay cầm đôi tay dì và lắp bắp nói không thành lời.

– Tôi vừa nói với mẹ tôi tôi chưa bao giờ nghe dì hát hay như hôm nay, chưa bao giờ! Dì có tin tôi không… Ðó là sự thật. Tôi nói với danh dư, ĩ đó là sự thật. Tôi chưa bao giờ nghe giọng của dì có hồn và trong trẻo như hôm nay, chưa bao giờ!

– Dì Julia cười thỏa mãn, nói vài lời cám ơn và rút đôi bàn tay ra khỏi đôi bàn tay của Freddy. Ông Browne đến gần dì Julia, khoác cánh tay phải qua lưng dì như cung cách của một người trình hàng cho khách.

– Xin giới thiệu, Julia Morkan, một khám phá mới của tôi.

Nói xong, ông Browne thích thú cười một mình. Freddy ngoảnh nhìn ông Browne nói,

– Anh Browne, công bình mà nói khám phá của anh không có gì đặc sắc. Từ trước đến nay tôi chưa nghe dì Julia hát hay bằng một nửa hôm nay. Và đó là một sự thật không ai có thể chối cãi.

– Tôi đồng ý, ông Browne nói, giọng hát của dì Julia càng ngày càng có sức lôi hút.

Dì Julia nhún vai, nói một cách tự hào

– Nếu nói về giọng hát, ba mươi năm trước cũng chưa có ai chê giọng tôi.

– Tôi thường nói với Julia, dì Kate lên tiếng một cách dứt khoát, Julia đã phí phạm quá nhiều thì giờ với ca đoàn.

Dì Kate nhìn mọi người tìm sự đồng tình trong khi dì Julia nhìn phía trước một cách bâng quơ, môi hé cười như nhớ lại những năm tháng cũ.

– Dì Kate nói tiếp, đáng ra người ta không nên khai thác Julia như vậy, hát cho ca đoàn ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác. Ngày lễ Giáng sinh hát từ sáu giờ sáng. Và để làm gì…

– Không phải để vinh danh Chúa sao Cô Kate… Mary Jane hỏi, quay mình trên chiếc ghế đang ngồi, nhỏ nhẹ mĩm cười.

– Cô biết vì nhân danh Chúa, nhưng cô thấy phụ nữ hát suốt đời sau cùng đức Giáo hoàng vẫn trọng phái nam hơn. Cứ cho rằng đức Giáo hoàng làm theo luật giáo hội, nhưng không công bằng, Mary Jane, không đúng.

Dì Kate còn muốn bênh em vì đó là chuyện dì ấm ức từ lâu, nhưng Mary Jane dịu dàng nói lảng sang chuyện khác khi thấy mấy người vừa nhảy xong bước vào phòng.

– Dì Kate, dì có biết dì làm phật lòng ông Browne không… Ông ta tin khác.

Dì Kate quay lại nhìn ông Browne đang cười ngất vì nghe người ta bàn đến cách tổ chức tôn giáo của mình, vội vàng nói

– Tôi không muốn nói đức Giáo hoàng sai. Tôi là một phụ nữ tầm thường không có quyền nghĩ vậy. Nhưng trong đời sự biết ơn và sự lịch sự tối thiểu là điều cần phải giữ. Nếu tôi là Julia tôi sẽ nói thẳng với các Cha như vậy.

– Thôi, dì Kate! Mary Jane nói, ai cũng đang đói bụng, và khi đói người ta dễ nổi cáu.

– Và khi khát người ta cũng dễ nổi cáu như đói, ông Browne chêm vào.

– Vậy nên đi ăn cái đã, Mary Jane nói, sau sẽ tranh luận tiếp.

Trước cửa phòng giải khát đã dọn thành phòng ăn Gabriel thấy vợ và Mary Jane đang thuyết phục cô Ivors ở lại dùng cơm. Nhưng Ivors đã đội mũ và đang gài nút áo choàng không muốn ở lại. Cô không thấy đói và đã trễ đối với cô.

– Chỉ mười phút thôi, Molly, bà Conroy nói, không trễ giờ của cô đâu.

– Ăn một cái gì đi, Mary Jane nói, sau khi đã nhảy nhiều như vậy.

– Tôi xin lỗi, cô Ivors nói, tôi không ở lại được.

– Tôi nghĩ cô không được vui hôm nay, Mary Jane nói một cách thất vọng.

– Vui hơn thường lệ là đằng khác, Ivors nói, nhưng tôi phải đi thôi.

– Nhưng cô về bằng gì… Bà Conroy hỏi.

– Chỉ đi hai bước dọc bờ sông là tới.

Do dự một chút, Gabriel nói,

– Cô Ivors, nếu cô phải về, tôi xin phép được đưa cô về nhà.

– Xem như tôi không nghe đề nghị của anh, Ivors nói lớn, nửa đùa nửa nghiêm trang. Xin quí vị dùng cơm ngon miệng và đừng quan tâm tới tôi. Tôi tự lo được.

– Cô thật là một người phụ nữ khó hiểu, Molly, bà Conroy thẳng thắn nói.

– Xin chào tất cả mọi người, cô Ivors bật cười thốt lên lời chào bằng tiếng Ái nhĩ lan và chạy nhanh xuống thang lầu.

Mary Jane nhìn theo Ivors hơi thắc mắc, trong khi bà Conroy nghiêng mình trên tay dựa cầu thang chờ nghe tiếng cửa mở. Gabriel tự hỏi không biết có phải vì chàng đề nghị đưa về mà Ivors vội vàng như vậy. Nhưng Ivors không tỏ vẻ bực mình, cô cười vui vẻ khi ra về đôi mắt nhìn thẳng vào các bậc thang như chẳng bận tâm điều gì.

Vào lúc đó đì Kate từ phòng ăn bước ra khoát tay hỏi một cách vội vàng.

– Gabriel đâu rồi… Thực khách chờ mà không thấy ai cắt ngỗng cả.

– Tôi đây! Gabriel hăng hái lên tiếng tưởng chừng sẵn sàng cắt bao nhiêu con ngỗng cũng được. Nói xong, Gabriel nhanh nhẹn buớc vào phòng ăn.

Một con ngỗng nướng vàng rực nằm ở một đầu bàn, đầu kia một đùi lợn muối đã bóc da, phía dưới còn dính giấy đặt trên một cái rá, trên rắc rau thơm, hạt tiêu nghiền nhỏ và các mẫu bánh mì dòn, bên cạnh là một đĩa lớn thịt bò ướp cay hình tròn đã được cắt thánh từng lát. Trên bàn giữa hai thức ăn chính là các thức phụ: hai tảng thạch, một đỏ một vàng đúc hình dáng một tu viện, một đĩa lớn đựng nhiều miếng bánh fờ – lăng, một hũ mức mầu đỏ, một đĩa hình lá cây mầu xanh trên có nhiều chùm nho tím và hột hạnh đào lột vỏ.

Gabriel mạnh dạn ngồi xuống ở đầu bàn, một tay đặt lưỡi dao đúng vị trí, tay kia đẩy mạnh nĩa để giữ con ngỗng quay không di chuyển được, và cắt từng lát thịt thơm phức. Gabriel thấy hứng thú làm một việc chàng quen làm, trước chiếc bàn đầy thức ăn và mọi người đang chờ đợi.

– Cô Furlong, Gabriel hỏi, cô muốn cánh hay thân.

– Cho tôi một lát nhỏ nơi thân.

– Còn cô Higgins…

– Cám ơn ông Conroy, tôi không ăn thịt ngỗng.

Chương 3

Không muốn Ivors thấy mình bực mình, Gabriel giả vờ chú ý nghe nhạc và nhảy một cách thích thú, tránh đôi mắt soi mói của Ivors. Khi điệu nhạc đổi đoàn người khiêu vũ nắm tay nhau thành một vòng tròn Ivors nắm chặt bàn tay Gabriel và nhìn chàng đấu dịu cho đến khi Gabriel hiểu ý mĩm cười. Nhạc lại đổi, vòng tròn trở thành từng cặp trên sàn, Ivors nhón chân nói nhỏ vào tai Gabriel

– Anh chỉ là một người Anh trên đất Ái nhĩ lan!

Bản nhạc dứt, Gabriel bước đến nói chuyện với mẹ Freddy Malins đang ngồi ở một góc phòng. Bà đã già, người nhỏ con, thân hình chắc chắn, mái tóc trắng như tuyết. Khi bà nói, lời chập vào nhau giọng khàn khàn như Freddy. Có người cho bà biết hôm nay Freddy có mặt và không say lắm. Gabriel hỏi thăm bà đi qua eo biển có say sóng không. Bà ở với gia đình cô con gái tại Glasgow, mỗi năm về Dublin thăm một lần. Bà nói biển đẹp và ông thuyền trưởng đối đãi rất lịch sự với bà. Bà tả ngôi nhà xinh đẹp của con gái ở Glagow và các bạn của con bà. Bà vui miệng kể chuyện này sang chuyện khác không ngừng làm Gabriel thấy vui lây quên sự bực mình với cô Ivors mấy phút trước. Ivors vốn là một phụ nữ dễ thương, nhưng cái gì cũng có lúc. Gabriel nghĩ, đáng ra chàng không nên trả lời cô như vậy. Nhưng cô ta đâu có quyền xem mình là “một người Anh trên đất Ái nhĩ lan” trước mặt người khác dù là nói đùa. Cô không coi mình ra gì, cật vấn và nhìn mình bằng đôi mắt xoi mói.

Gabriel thấy vợ lách giữa mấy cặp đang nhảy vanxơ tiến về phía chàng. Ðến gần nàng nói khẻ.

– Gabriel, dì Kate hỏi anh có muốn cắt thịt ngỗng như thường lệ không. Cô Daly cắt đùi thịt lợn ướp khô, còn em cắt bánh put – đinh.

– Ðược, được, Gabriel trả lời.

– Sau bản vanxơ này dì Kate sẽ nhờ mấy người trẻ tuổéi chuẩn bị phòng ăn.

– Em có nhảy không… Gabriel hỏi

– Có. Anh không thấy em nhảy sao… Anh trao đổi gì có vẻ gay cấn với Molly Ivors vậy…

– Có gì gay cấn đâu. Sao em hỏi vậy… Ivors có nói gì với em hả…

– Ðại ý như vậy, Gretta lảng sang chuyện khác, em đang thuyết phục ông D’Arcy hát. Em nghĩ ông ta quá tự hào giọng hát của mình.

– Anh không tranh luận gì với cô ta cả, Gabriel trở lại câu chuyện, cô ta mời chúng ta về miền tây Ái nhĩ lan chơi và anh cho biết anh không đi được.

Gretta vỗ tay thích thú.

– Ði đi anh. Em muốn có dịp về thăm Galway.

– Em muốn đi thì đi, anh không đi được, Gabriel lạnh nhạt trả lời

Gretta nhìn chồng một giây, rồi quay qua nói với bà Malins

– Thôi, tôi xin để ông chồng yêu quí của tôi hầu chuyện bà.

Nói xong Gretta lách qua sàn nhảy đầy người bước ra khỏi phòng. Bà Marlins không tỏ ý quan tâm đến Gretta, tiếp tục nói về cảnh đẹp ở Scotland cho Gabriel nghe. Năm nào con rễ bà cũng mời gia đình bà lên Scotland nghỉ hè và đi câu cá. Rễ bà câu cá rất giỏi. Có hôm ảnh câu được một con cá lớn mấy người đàn ông ở cùng khách sạn đã nấu một bữa ăn rất ngon.

Gabriel chỉ nghe bà nói cho có chuyện. Khách sắp dùng cơm tối, chàng nghĩ đến bài nói chuyện, nói gì và trích dẫn gì. Thấy Freddy Malins đến nói chuyện với mẹ Gabriel nhường ghế cho Freddy, bước đến khung cửa sổ, nhìn ra bên ngoài. Sàn nhảy đã vắng, một số khách nhảy đã thấm mệt đứng thành từng nhóm nói chuyện với nhau. Phòng giải khát bên cạnh đang được dọn dẹp, tiếng bát đĩa dao nghe lách cách sau lưng. Gabriel đưa ngón tay gõ gõ vào kính cửa sổ. Bên ngoài trời lạnh, yên tĩnh, thật nên thơ. Ước gì lúc này được tự do thả bộ dọc bờ sông, ra phía công viên nhìn tuyết phủ trên cành cây và nhìn chiếc mũ tuyết trắng lớn trên pho tượng tướng Wellington. Ðược ở ngoài đó lúc này thích hơn ở đây ăn cơm nhiều.

Gabriel nghĩ đến mấy điểm chính của bài nói chuyện: tính hiếu khách của người Ái nhĩ lan, những kỷ niệm đau buồn của đất nước, trích dẫn Browning… Gabriel lẩm bẩm câu văn chàng viết trong mục phê bình văn học mới đây: “Ðọc thơ ông như nghe một điệu nhạc bi hùng làm tâm hồn người nghe trăn trở. ” Ivors khen hay. Cô ta khen thật không… Ivors có một đời sống cho riêng cô không hay chỉ sống để rao giảng điều cô ta tin tưởng… Giữa hai người chưa hề có chuyện bất hòa cho đến hôm nay. Gabriel thấy khó chịu khi nghĩ đến chốc nữa đây Ivors sẽ nhìn chàng chòng chọc với đôi mắt nghi ngờ khi chàng nói. Có thể cô ta mong chàng làm cho cử tọa thất vọng. Một ý nghĩ thoáng qua làm Gabriel can đảm. Chàng sẽ gián tiếp nhắc đến dì Kate và dì Julia, thí dụ như: Thưa quí vị, không phải thế hệ trước chúng ta lúc nào cũng hoàn hảo nhưng theo tôi họ có một số đức tính như hiếu khách, trào phúng và nhân bản mà thế hệ trẻ chúng ta hôm nay thiếu. Câu đó dành cho Ivors, nghĩ đến đó Gabriel thấy khoái trá, chàng không quan tâm đến việc hai bà dì của chàng chỉ là hai người đàn bà tầm thường thôi.

Gabriel chú ý đến tiếng rì rào quanh mình. Ông Browne đang đưa dì Julia bước vào phòng. Tay dì dựa vào cánh tay của ông Browne, miệng mĩm cười, đầu ngẩng cao tự tin. Cử tọa vỗ tay khuyến khích cho đến khi dì Julia đến gần bên cây đàn piano. Mary Jane ngồi vào chiếc ghế trước cây đàn, dì Julia nghiêm trang quay về phía cử tọa bắt đầu thử giọng trong khi tiếng rì rào trong phòng tắt dần chờ đợi. Gabriel nhận ra điệu nhạc. Ðó là bài Arrayed for the Bridal rất ưa thích của dì Julia. Giọng hát của dì âm vang trong căn phòng mang sức sống đến cho bài hát ngay từ lúc bắt đầu với giọng hát mạnh mẽ trong trẻo, và mặc dù dì hát nhanh dì không nuốt một âm nhỏ nào. Không nhìn dì, chỉ nghe giọng hát người nghe có cảm tưởng như đang bay bổng giữa từng mây một cách an toàn đầy khoái cảm. Gabriel nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng cùng với cử tọa khi bài hát vừa dứt. Từ phòng giải khát tiếng vỗ tay tiếp sức nổ như pháo ran. Sự tán thưởng của cử tọa làm khuôn mặt dì Julia ửng hồng khi dì cúi xuống khép tập nhạc bìa da đã cũ trên có khắc hai chữ đầu tên dì. Freddy Malins nghiêng nghiêng đầu thưởng thức khi nghe hát vẫn còn vỗ tay một mình khi tiếng vỗ tay trong phòng đã tắt vừa bày tỏ sự thán phục với mẹ trong khi bà Malins gật gật đầu đồng ý. Sau cùng, Freddy thôi vỗ tay tiến đến bên dì Julia hai tay cầm đôi tay dì và lắp bắp nói không thành lời.

– Tôi vừa nói với mẹ tôi tôi chưa bao giờ nghe dì hát hay như hôm nay, chưa bao giờ! Dì có tin tôi không… Ðó là sự thật. Tôi nói với danh dư, ĩ đó là sự thật. Tôi chưa bao giờ nghe giọng của dì có hồn và trong trẻo như hôm nay, chưa bao giờ!

– Dì Julia cười thỏa mãn, nói vài lời cám ơn và rút đôi bàn tay ra khỏi đôi bàn tay của Freddy. Ông Browne đến gần dì Julia, khoác cánh tay phải qua lưng dì như cung cách của một người trình hàng cho khách.

– Xin giới thiệu, Julia Morkan, một khám phá mới của tôi.

Nói xong, ông Browne thích thú cười một mình. Freddy ngoảnh nhìn ông Browne nói,

– Anh Browne, công bình mà nói khám phá của anh không có gì đặc sắc. Từ trước đến nay tôi chưa nghe dì Julia hát hay bằng một nửa hôm nay. Và đó là một sự thật không ai có thể chối cãi.

– Tôi đồng ý, ông Browne nói, giọng hát của dì Julia càng ngày càng có sức lôi hút.

Dì Julia nhún vai, nói một cách tự hào

– Nếu nói về giọng hát, ba mươi năm trước cũng chưa có ai chê giọng tôi.

– Tôi thường nói với Julia, dì Kate lên tiếng một cách dứt khoát, Julia đã phí phạm quá nhiều thì giờ với ca đoàn.

Dì Kate nhìn mọi người tìm sự đồng tình trong khi dì Julia nhìn phía trước một cách bâng quơ, môi hé cười như nhớ lại những năm tháng cũ.

– Dì Kate nói tiếp, đáng ra người ta không nên khai thác Julia như vậy, hát cho ca đoàn ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác. Ngày lễ Giáng sinh hát từ sáu giờ sáng. Và để làm gì…

– Không phải để vinh danh Chúa sao Cô Kate… Mary Jane hỏi, quay mình trên chiếc ghế đang ngồi, nhỏ nhẹ mĩm cười.

– Cô biết vì nhân danh Chúa, nhưng cô thấy phụ nữ hát suốt đời sau cùng đức Giáo hoàng vẫn trọng phái nam hơn. Cứ cho rằng đức Giáo hoàng làm theo luật giáo hội, nhưng không công bằng, Mary Jane, không đúng.

Dì Kate còn muốn bênh em vì đó là chuyện dì ấm ức từ lâu, nhưng Mary Jane dịu dàng nói lảng sang chuyện khác khi thấy mấy người vừa nhảy xong bước vào phòng.

– Dì Kate, dì có biết dì làm phật lòng ông Browne không… Ông ta tin khác.

Dì Kate quay lại nhìn ông Browne đang cười ngất vì nghe người ta bàn đến cách tổ chức tôn giáo của mình, vội vàng nói

– Tôi không muốn nói đức Giáo hoàng sai. Tôi là một phụ nữ tầm thường không có quyền nghĩ vậy. Nhưng trong đời sự biết ơn và sự lịch sự tối thiểu là điều cần phải giữ. Nếu tôi là Julia tôi sẽ nói thẳng với các Cha như vậy.

– Thôi, dì Kate! Mary Jane nói, ai cũng đang đói bụng, và khi đói người ta dễ nổi cáu.

– Và khi khát người ta cũng dễ nổi cáu như đói, ông Browne chêm vào.

– Vậy nên đi ăn cái đã, Mary Jane nói, sau sẽ tranh luận tiếp.

Trước cửa phòng giải khát đã dọn thành phòng ăn Gabriel thấy vợ và Mary Jane đang thuyết phục cô Ivors ở lại dùng cơm. Nhưng Ivors đã đội mũ và đang gài nút áo choàng không muốn ở lại. Cô không thấy đói và đã trễ đối với cô.

– Chỉ mười phút thôi, Molly, bà Conroy nói, không trễ giờ của cô đâu.

– Ăn một cái gì đi, Mary Jane nói, sau khi đã nhảy nhiều như vậy.

– Tôi xin lỗi, cô Ivors nói, tôi không ở lại được.

– Tôi nghĩ cô không được vui hôm nay, Mary Jane nói một cách thất vọng.

– Vui hơn thường lệ là đằng khác, Ivors nói, nhưng tôi phải đi thôi.

– Nhưng cô về bằng gì… Bà Conroy hỏi.

– Chỉ đi hai bước dọc bờ sông là tới.

Do dự một chút, Gabriel nói,

– Cô Ivors, nếu cô phải về, tôi xin phép được đưa cô về nhà.

– Xem như tôi không nghe đề nghị của anh, Ivors nói lớn, nửa đùa nửa nghiêm trang. Xin quí vị dùng cơm ngon miệng và đừng quan tâm tới tôi. Tôi tự lo được.

– Cô thật là một người phụ nữ khó hiểu, Molly, bà Conroy thẳng thắn nói.

– Xin chào tất cả mọi người, cô Ivors bật cười thốt lên lời chào bằng tiếng Ái nhĩ lan và chạy nhanh xuống thang lầu.

Mary Jane nhìn theo Ivors hơi thắc mắc, trong khi bà Conroy nghiêng mình trên tay dựa cầu thang chờ nghe tiếng cửa mở. Gabriel tự hỏi không biết có phải vì chàng đề nghị đưa về mà Ivors vội vàng như vậy. Nhưng Ivors không tỏ vẻ bực mình, cô cười vui vẻ khi ra về đôi mắt nhìn thẳng vào các bậc thang như chẳng bận tâm điều gì.

Vào lúc đó đì Kate từ phòng ăn bước ra khoát tay hỏi một cách vội vàng.

– Gabriel đâu rồi… Thực khách chờ mà không thấy ai cắt ngỗng cả.

– Tôi đây! Gabriel hăng hái lên tiếng tưởng chừng sẵn sàng cắt bao nhiêu con ngỗng cũng được. Nói xong, Gabriel nhanh nhẹn buớc vào phòng ăn.

Một con ngỗng nướng vàng rực nằm ở một đầu bàn, đầu kia một đùi lợn muối đã bóc da, phía dưới còn dính giấy đặt trên một cái rá, trên rắc rau thơm, hạt tiêu nghiền nhỏ và các mẫu bánh mì dòn, bên cạnh là một đĩa lớn thịt bò ướp cay hình tròn đã được cắt thánh từng lát. Trên bàn giữa hai thức ăn chính là các thức phụ: hai tảng thạch, một đỏ một vàng đúc hình dáng một tu viện, một đĩa lớn đựng nhiều miếng bánh fờ – lăng, một hũ mức mầu đỏ, một đĩa hình lá cây mầu xanh trên có nhiều chùm nho tím và hột hạnh đào lột vỏ.

Gabriel mạnh dạn ngồi xuống ở đầu bàn, một tay đặt lưỡi dao đúng vị trí, tay kia đẩy mạnh nĩa để giữ con ngỗng quay không di chuyển được, và cắt từng lát thịt thơm phức. Gabriel thấy hứng thú làm một việc chàng quen làm, trước chiếc bàn đầy thức ăn và mọi người đang chờ đợi.

– Cô Furlong, Gabriel hỏi, cô muốn cánh hay thân.

– Cho tôi một lát nhỏ nơi thân.

– Còn cô Higgins…

– Cám ơn ông Conroy, tôi không ăn thịt ngỗng.

Chương 4

Trong khi Gabriel và Daly chuyền cho khách các đĩa thịt ngỗng quay, đùi heo ướp muối, thịt bò ướp cay, Lily đi từ người này đến người khác mời khoai tây nghiền nát còn nóng hỗi đặt trên một cái mâm nhỏ lót giấy trắng. Món ăn này do ý của Mary Jane. Lúc đầu Mary Jane định mời khách ăn thịt ngỗng với nước lèo làm bằng táo nghiền, nhưng dì Kate nói ăn ngỗng quay không cũng ngon chán. Mary Jane săn sóc mấy người học trò, trong khi dì Kate và Julia mở bia và nước suối mời khách. Ðàn ông uống bia, các bà các cô uống nuớc suối. Trong phòng ăn tiếng cười tiếng nói chen lẫn lời mời mọc lẫn nhau, xin thức này thức khác, tiếng dao nĩa chạm nhau, tiếng mở nút chai nhộn nhịp. Gabriel vẫn chưa ăn, bắt đầu cắt vòng thứ hai. Một số người yêu cầu chàng ăn cái gì trước khi cắt tiếp. Gabriel chưa muốn ăn, nhưng chìu ý mọi người, chàng chỉ nốc một ngụm bia cho đả khát. Mary Jane yên lặng ngồi ăn, nhưng dì Kate và Julia vẫn đi từ bàn này sang bàn khác mời khách, thỉnh thoảng bảo nhau làm những điều không cần thiết. Ông Browne và Gabriel khẩn khoản mời hai dì ăn, nhưng hai dì nói còn nhiều thì giờ. Freddy Malins không chịu được đứng dậy nhẹ nhàng kéo dì Kate đến một chiếc ghế trống ấn dì ngồi xuống làm mọi người cười ồ.

Khi ai nấy đã no, Gabriel cười hỏi:

– Ai thích ăn các thức nhồi bụng ngỗng cho tôi biết.

Nhiều người lên tiếng yêu cầu Gabriel ăn đi đừng lo cho khách nữa, và cô Lily mang đến cho Gabriel ba củ khoai tây cô để dành cho chàng.

– Cám ơn quí vị, Gabriel giọng thân mật, bây giờ xin quí vị quên tôi đi trong một chốc lát.

Gabriel ngồi ăn ở một chỗ trống Lily vừa dọn, trong khi câu chuyện về buổi nhạc kịch ở rạp hát hoàng gia đang được bàn cãi sôi nổi. Bartell D’Arcy, người hát giọng cao trong buỗi dạ vũ hôm nay, một thanh niên da ngăm đen, có một bộ râu tỉa gọn gàng, hết lời khen ngợi người nữ ca sĩ giọng trầm, nhưng cô Furlong cho rằng cô ấy hát cũng thường thôi. Freddy Malins khen người ca sĩ da đen đóng vai tù trưởng có một giọng tuyệt vời ông chưa từng nghe.

– Anh nghe hắn hát bao giờ chưa… Malins hỏi Bartell D’Arcy ngồi đối diện qua chiếc bàn ăn.

– Chưa, ông Bartell D’Arcy trả lời không chút do dự.

– Tôi hỏi, Malins giải thích, vì tôi muốn biết ý của anh đối với giọng hát của hắn. Giọng của hắn thật là hay.

– Ai cũng muốn tìm cái hay và cái đẹp, ông Browne nói, giọng làm hòa.

– Tại sao hắn không thể hát hay, Freddy Malins cao giọng hỏi, hay chỉ vì hắn là người da đen duy nhất trong buổi nhạc kịch…

Không ai trả lời câu hỏi của Malins, và Mary Jane xoay trọng tâm cuộc thảo luận về đề tài nhạc kịch. Một người học trò gởi cho cô một vé xem vỡ nhạc kịch Mignon. Vỡ nhạc kịch thật hay làm cô nhớ đến Georgina Burns. Ông Browne kể chuyện xa hơn về các đoàn nhạc kịch người Ý trước kia thường đến trình diễn ở Dublin như Tietjens, Ilma de Murzka, Campanini, the Great Trebella, Giulini, Ravella và Aramburo. Ông ta nói nếu nói ca hát thì những ngày xa xưa đó mới thật có ca hát ở thành phố này. Ông Browne kể rằng hồi đó tối nào rạp hát Old Royal cũng chật ních người, và có một đêm một nam ca sĩ Ý hát năm lần bản Let Me Like a Soldier Fall mà đến lần thứ năm khán giả vẫn còn vỗ tay, và nhiều buổi nhạc kịch hấp dẫn đến nổi mấy người thanh niên coi trật tự nhà hát thay ngựa dích thân kéo đào hát chính về khách sạn. Tại sao bây giờ người ta không diễn các tuồng đại nhạc kịch như Dinorah, Lucrezia Borgia nữa… Ôâng Browne hỏi, và tự trả lời, vì không có ai có giọng tốt như ngày đó.

– Cũng không chắc lắm, ông Bartell D’Arcy nói, tôi thấy bây giờ vẫn có nhiều ca sĩ có tài.

– Ở đâu… Ông Browne hỏi một cách thách thức.

– Ở Luân Ðôn, Ba Lê, Milan, ông Bartell D’Arcey từ tốn nói. Thí dụ ca sĩ Caruso, giỏi đấy chứ, nếu không muốn nói giỏi hơn các ca sĩ trước đây.

– Có thể, ông Browne trả lời, nhưng tôi nghi lắm.

– Trả giá nào để nghe Caruso hát tôi cũng trả, Mary Jane chen vào.

– Ðối với tôi, dì Kate nói, tay với lấy một chiếc xương ngỗng còn dính tí thịt, bây giờ chỉ có một giọng cao đáng gọi là giọng chuông vàng, nhưng chắc chưa ai nghe đâu.

– Ai đó bà Morkan… Bartell D’Arcey lễ phép hỏi.

– Tên ông ta là Parkinson, dì Kate nói. Lúc còn trẻ ông Parkinson có một giọng hát thiên phú.

– Cũng lạ, Bartell D’Arcy nói, tôi chưa hề nghe danh ông ta.

– Vâng, vâng, bà Morkan nói đúng, Browne phụ họa, tôi có nghe Parkinson hát khi ông đã già, đối với tôi ông thuộc thế hệ trước.

– Ðó mới là giọng tươi vui, trong sáng, ngọt lịm của người Anh, dì Kate nói một cách phấn khởi.

Gabriel ăn xong, đĩa bánh put – đinh được mang qua bàn chính, tiếng nĩa muỗng lẻng kẻng chạĩm nhau. Gretta nhanh nhẹn xén bánh ra đĩa đẩy ra đầu bàn, Mary Jane bỏ thêm vào dĩa hoặc trái mâm xôi hoặc thạch hoặc bánh fơ – lăng và mức trái cây rồi mời từng người khách. Bánh put – đinh dì Julia làm, và thực khách khen không tiếc lời. Dì nói nếu vàng chút nữa thì ngon hơn.

Gabriel cữ ngọt, lấy một đĩa cần tây. Freedy Malins ăn cần tây với bánh put – đinh. Malins đang chữa bệnh và người ta nói ăn cần tây bổ máu. Mẹ của Malins, nãy giờ im lặng, nói tuần tới con trai bà đi chơi núi Mellray, và mọi người quay qua nói về núi Malleray, nào không khí trong lành, các tu sĩ tin lành hiếu khách, cho đủ thứ mà không bao giờ xin đóng góp.

– Quí vị có nghĩ rằng, Browne lên tiếng, bất cứ ai cũng có thể đến tu viện đó như đến một khách sạn, xài cho đả rồi đi không trả một xu nào sao…

– Ô, không, ai cũng có tặng một số tiền nào đó cho tu viện trước khi về, Mary Jane nói

– Ước gì Giáo hội chúng ta có một cơ sở như vậy. Ông Browne nói một cách thành thật.

Nghe nói chuyện dòng đó tu câm không được nói, tối ngủ trong quan tài gỗ và hai giờ sáng phải thức dậy ông Browne rất ngạc nhiên, hỏi làm vậy để làm gì…

– Ðó là luật của dòng tu, dì Kate trả lời không thắc mắc.

– Vâng, nhưng tại sao… Ôâng Browne hỏi.

Dì Kate lặp lại rằng đó là luật, thế thôi. Thấy ông Browne còn ấm ức Freddy Malins giải thích thêm rằng các tu sĩ tu khổ hạnh để chịu tội thay cho người khác ở ngoài đời. Lời giải thích có lẽ không ổn đối với ông Browne nên ông ta cười nói.

– Chịu tội thay người khác là một hảo ý, nhưng ngủ trên giường hay ngủ trong quan tài thì khác nhau ở chỗ nào…

– Cái quan tài, Mary Jane nói, nhắc người tu sĩ nhớ đến ngày chết.

Bàn ăn im lặng vì câu chuyện vừa tế nhị vừa u ám. Mọi người nghe rõ tiếng bà Malins thì thầm vào tai của người bạn ngồi cạnh.

– Mấy người tu sĩ đó tốt lắm, họ dâng tất cả cho Chúa.

Nho, hạnh đào, sung, táo, cam, chô cô la và kẹo được dọn ra, và dì Julia hỏi thực khách dùng rượu póc – tô gốc Bồ Ðào Nha hay rượu sê – ri gốc Tây Ban Nha. Ông Bartell D’Arcy định từ chối vì không uống được hai thứ đó, một người ngồi bên cạnh thúc cùi chỏ vào hông D’Arcy, rồi nghiêng mình nói nhỏ gì đó, ông Bartell D’Arcy đổi ý đưa li lấy một li đầy. Li rượu chót vừa đượĩc rót đầy, mọi người ngừng nói chuyện im lặng chờ đợi. Chỉ còn vài tiếng ho dè dặt và tiếng động chân ghế sửa lại thế ngồi. Ba thanh niên ngồi cạnh nhau bên phải Gabriel gõ tay vào bàn ra hiệu. Căn phòng im bặt tiếng. Gabriel đẩy ghế ra sau lưng đứng dậy. Dựa mười ngón tay trên tấm vãi bàn, Gabriel mĩm cười vẻ lo âu. Thấy bao nhiêu con mắt đổ vào mình Gabriel lảng nhìn cây đèn treo giữa trần nhà. Có tiếng đàn piano điệu vanxơ, và Gabriel nghe tiếng chân dìu nhau nhè nhẹ trên sàn phòng bên cạnh. Chàng tưởng tượng có người đang đứng bên bờ sông đầy tuyết nhìn lên chiếc cửa sổ có ánh sáng bên trong, lắng tai nghe điệu nhạc vanxơ. Không khí ngoài kia quá trong lành. Xa xa là công viên cành cây tuyết trĩu nặng bên cạnh bức tượng Wellington chóp mũ phủ đầy tuyết hiên ngang đưa tay chỉ cánh đồng trắng xóa trước mắt phía trời tây.

Gabriel bắt đầu:

– Thưa quí vị,

– Hôm nay đến phiên tôi nói, một vinh dự, nhưng thật khó cho tôi vì tôi không có tài ăn nói.

– Không đúng đâu, không đúng đâu, ông Browne nói.

– Tôi chỉ xin quí vị rộng lượng để tôi được trình bày cảm tưởng của tôi.

– Thưa quí vị. Ðây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau dưới mái nhà mạnh thường quân này. Cũng không phải đây là lần đầu tiên chúng ta dược hưởng – hay nói cách khác là nạn nhân – tính hiếu khách của mấy bà chủ nhà này.

Gabriel chấm dứt câu mở đầu bằng một vòng tay khoát trước cử tọa. Mọi người cười tán đồng. Dì Kate, Julia và Mary Jane mặt ửng hồng e lệ. Thêm can đảm Gabriel tiếp:

– Thời gian càng trôi qua tôi càng cảm thấy rõ rằng tính hiếu khách là tính mang lại cho đất nước chúng ta nhiều vinh dự và là đức tính chúng ta trân trọng giữ gìn nhất. Truyền thống đó đặc biệt cho đất nước chúng ta trong số các nước văn minh lân cận, ít nhất với kinh nghiệm cá nhân của tôi qua nhiều chuyến du lịch nước ngoài. Có thể có một số người cho rằng tính hiếu khách chỉ để bị lợi dụng. Dù vậy đi nữa, tôi vẫn nghĩ đó là một tính cao thượng, quí báu và chúng ta vẫn muốn duy trì. Với tôi đó là một chân lý. Chừng nào còn mái nhà này, còn mấy người phụ nữ đáng kính kia – và tôi hy vọng còn kéo dài nhiều năm nữa – cái truyền thống hiếu khách, lịch sự, trải lòng ra sống với người khác của người Ái nhỉ lan mà cha ông chúng ta để lại và chúng ta sẽ truyền lại cho con cháu vẫn còn mãi mãi.

Có tiếng rì rầm tán thưởng trong cử tọa. Gabriel thoáng nghĩ tiếc cô Ivors không có mặt, cô đã bỏ về trước một cách thiếu xã giao khó hiểu, và chàng tiếp một cách tự tin:

– Thưa quí vi.

– Một thế hệ mới đang lên trong chúng ta với những tư duy và nguyên tắc mới. Một chuyển biến tự nhiên, đứng đắn và đáng khích kệ. Nhưng chúng ta đang sống trong một thời đại mà giới trẻ trăn trở và ngờ vực mọi giá trị, và tôi lo ngại rằng thế hệ mới này với bằng cao học, tiến sĩ, thạc sĩ trong tay không còn giữ các giá trị nhân bản, thương người và tính khôi hài của thế hệ trước. Lúc nãy nghe quí vị nói đến các nghệ sĩ và ca sĩ nổi danh ngày trước tôi thú thật rằng tôi có cảm tưởng không gian chúng ta sống như bị thu hẹp lại. Nói không sợ quá lời, những ngày qua là những ngày phóng khoáng: và nếu thời gian đi qua không kéo lại được chúng ta cũng hy vọng rằng qua những buổi gặp gỡ như hôm nay chúng ta có cơ hội nhắc đến chúng với tự hào và trìu mến, và ghi trong tâm khảm những người đã khuất mà tên tuổi thế giới không hề quên.

– Tuyệt! Tuyệt! Ông Browne kêu lên.

– Nhưng, Gabriel tiếp, giọng trầm xuống dịu dàng, trong những buổi gặp gỡ nhau như thế này chúng ta không khỏi thấy buồn khi nhớ lại quá khứ, tuổi trẻ, những biến đổi, và những khuôn mặt một thời quen thuộc. Ðời sống mỗi người đều có những kỷ niệm buồn, nhưng chúng ta có nên đắm chìm trong những suy tư đó để quên bổn phận đối với những người chung quanh hôm nay không… Chúng ta có bổn phận với những người chung quanh và đòi hỏi sự hăng hái của chúng ta.

– Vì vậy, tôi sẽ không nói nhiều về quá khứ. Tôi sẽ không làm quí vị nản lòng. Hôm nay chúng ta gặp nhau giữa dòng đời bận rộn. Chúng ta gặp nhau như bạn, trong tinh thần bằng hữu, như những người đồng sự, và như những người khách của – tôi tạm gọi – của ba người phụ nữ kiều diễm của thế giới âm nhạc Dublin.

Tiếng vỗ tay lẫn tiếng cười vang dội cả phòng. Dì Julia nghiêng mình hỏi cô cháu ngồi bên cạnh Gabriel vừa nói gì.

– Gabriel nói chúng ta là ba người phụ nữ kiều diễm, Mary Jane trả lời.

Dì Julia không hiểu rõ câu trả lời, nhưng vẫn ngước mắt nhìn Gabriel mĩm cười. Thấy dì Kate nước mắt như muốn tuôn ra trên khóe mắt Gabriel biết đã đến lúc cần kết thúc. Nâng cao ly rượu póc – tô – làm mọi người tự động nâng theo – Gabriel nói lớn:

– Xin cùng chúc mừng cả ba. Xin cạn ly cho sức khỏe, cho sự sung túc, tuổi thọ, hạnh phúc và chúc cả ba tiếp tục duy trì vị trí đáng kính tự hào trong nghề nghiệp và sự quí mến của chúng ta.

Chương 5

Cử tọa đồng loạt dứng dậy, tay nâng li, hướng về phía Kate, Julia và Mary Jane ngồi, đồng thanh hát theo nhịp tay của ông Browne:

Hãy hát tặng những người chủ nhà khả ái.
Hãy hát tặng những người chủ nhà khả ái.

Dì Kate lấy khăn bỏ túi lau nước mắt. Dì Julia cố kềm chế xúc động. Freddy Malins dùng nĩa đánh nhịp. Thực khách hướng vào nhau hai người một vừa cạn li vừa hát:

Ngoại trừ anh tự gạt mình.
Ngoại trừ anh tự gạt mình.

Rồi hướng về hai dì và Mary Jane cao giọng:

Những người chủ nhà khả ái.
Những người chủ nhà khả ái.

Tiếng vỗ tay vang dội từ phòng ăn qua phòng bên cạnh, và lặp đi lặp lại nhiều lần theo nhịp nĩa cầm tay của Freddy Malins.

Trời sắp sáng. Khí lạnh tạt vào cửa chính nơi nhiều người khách đang đứng chuẩn bị ra về nên dì Kate bảo:

– Ai đứng gần đóng cửa giúp. Bà Malins có thể bị cảm lạnh đó.

– Ông Browne đang ở ngoài, Kate, Mary Jane nói

– Ông Browne ở đâu cũng có mặt, dì Kate thấp giọng.

Mary Jane cười trước giọng e dè của dì Kate.

– Ðúng vậy, Mary Jane bóng bẩy, ông ta lo cho mọi người.

– Vẫn thấp giọng dì Kate nói, mùa Giáng sinh trước ông ta cũng không lúc nào vắng mặt ở đây.

Dì cười một cách tự nhiên điểm chú khôi hài, rồi nói nhanh:

– Nói ông ta đi vào đi Mary Jane, hy vọng ông ta không nghe những gì Cô nói.

Vừa lúc cửa phòng mở ông Browne bước vào miệng cười toe toét. Ông mặc áo khoác nĩ dài đến đầu gối, cổ choàng khăn, đầu đội nón chống tuyết. Chỉ bờ sông đầy tuyết lạnh lẫn tiếng còi xe inh ỏi, ông Browne nói:

– Freddy đang cho gọi hết xe của thành phố Dublin lại đây.

Gabriel từ phòng để áo bước ra, khoác áo choàng vào người, nhìn quanh phòng hỏi

– Gretta chưa xuống nhỉ…

– Gretta đang lấy áo mũ Gabriel, dì Kate nói.

– Ai đánh đàn trên đó…

– Không ai cả, mọi người về cả rồi.

– Không cô Kate! Mary Jane nói, Bartell D’Arcy và cô O’Callaghan còn trên đó.

– Có ai đánh đàn piano, Gabriel nói.

Mary Jane nhìn Gabriel và ông Browne, rùng mình như lạnh nói:

– Thấy hai anh ăn mặc cách đó tôi cũng thấy lạnh lây. Giờ này nếu phải về chắc tôi không đi nổi.

– Tôi thích đi giữa trời tuyết, ông Browne nói, hơn tản bộ giữa một bầu trời mát mẻ hay dạo xe ngựa dưới trời mưa.

– Chúng tôi từng có một con ngựa rất đẹp mã mà không cỡi đi đâu được, dì Julia nói như tiếc của.

– Ồ Johnny, Mary Jane cười nói.

Dì Kate và Gabriel đều cười:

– Sao! Có gì đặc biệt về Johnny… Ông Browne hỏi.

– Ông ngoại tôi, Patrick Morkan, Gabriel giải thích, vốn là một người sản xuất hồ bột. Ông có một con ngựa tên Johnny thật đẹp hằng ngày chỉ có việc chạy vòng tròn kéo máy xay bột làm hồ. Johnny là một con ngựa cần mẫn ai cũng thương, cho đến một hôm. Hôm đó ông tôi muốn cỡi ngựa tham dự một buổi điễn hành quân sự cổ truyền trong thành phố.

– Xin Chúa hãy thương linh hồn của Johnny, Dì Kate nói, giọng thương tiếc.

– Gabriel tiếp, ông tôi dùng một chiếc yên ngựa đẹp nhất, đóng bộ đồ lớn, mũ rộng, viền cổ cao và quất ngựa ra khỏi tòa nhà cũ của tổ tiên gần Back Lane mà ông rất tự hào.

Ai cũng cười với lối nói và dáng điệu của Gabriel, ngay cả bà Malins, và dì Kate nói:

– Gabriel, ông ngoại không ở Back Lane, nhà máy làm hồ bột ở đó thôi.

– Vâng, Gabriel tiếp, cố nhịn cười, ông ngoại cỡi ngựa ra đi. Ðến gần công viên bỗng Johnny thấy tượng vua Billy hùng dũng trên lưng một con ngựa cái bằng đá. Không biết vì Johnny mê ngựa của vua Billy hay tưởng pho tượng là cái máy xay nên cứ chạy quanh pho tượng không chịu đi.

Gabriel vừa nói vừa giả bộ con Johnny đi quanh làm mọi người không nhịn được cười.

– Johnny đi hết vòng này đến vòng khác, Gabriel tiếp, ông tôi ra lệnh gì cũng không nghe làm ông già phát khùng. Ông hét lên: Johnny, Johnny, làm trò khỉ gì vậy… Tao không thể hiểu mày được.

Tràng cười theo sự pha trò của Gabriel bỗng dứt vì có tiếng đập mạnh vào cửa. Mary Jane vội ra mở. Freddy Malins lách cửa bước vào, chiếc mũ treo nơi cổ lật ra sau lưng, thở phì phì, xát hai bàn tay vào nhau nói không thành tiếng.

– Tôi chỉ kiếm được một cỗ xe.

– Không sao, chúng tôi sẽ kiếm xe khác.

– Phải, dì Kate nói, không nên để bà Malins chờ lâu.

Malins và Browne giúp dìu bà Malins bước xuống mấy bậc tam cấp trước nhà và sau mấy lần chuyển dịch đưa được bà lên xe. Freddy Malins bước theo lên xe giúp bà ngồi, ông Browne đứng ngoài góp ý. Sau khi bà Malins yên vị Freddy Malins mời ông Browne lên xe. Nhường qua nhường lại một hồi cuối cùng Browne bước lên xe. Người đánh xe kéo tấm chăn phủ lên đầu gối xong nghiêng mình ra ngoài hỏi địa chỉ. Freddy Malins và Browne thò đầu ra hai bên cửa sổ người chỉ lối này kẻ chỉ đường kia làm người đánh xe không quất ngựa lên đường được. Vấn đề là ngừng nơi nào để Browne xuống cho tiện. Ðứng trong cửa dì Kate, Julia và Mary Jane ai cũng tranh nhau chỉ đường giữa tiếng cười tiếng nói. Freddy Malins cười ngất nhoai đầu ra thụt đầu vào làm chiếc mũ chỉ muốn rơi xuống đất, giải thích cho mẹ biết mọi người đang bàn cãi gì, sau cùng ông Browne nói lớn với người đánh xe át hẳn giọng nói và tiếng cười của mọi người.

– Anh có biết đại học Trinity không…

– Thưa ông tôi biết, người đánh xe trả lời

– Anh chạy đến cổng trường đại học Trinity rồi tôi sẽ chỉ tiếp.

– Vâng.

– Hãy chạy thẳng đến đó.

Không trả lời, người đánh xe quất roi vào lưng ngựa. Chiếc xe chuyển bánh chạy dọc bờ sông giữa tiếng cười và lời từ biệt rộn rã.

Gabriel không ra cửa tiển bà Malins. Chàng đứng phía trong phòng khách nơi ít ánh sáng nhìn lên thang gác. Một người phụ nữ đứng đầu kia thang gác cũng trong ánh sáng lờ mờ. Chàng không thấy rõ mặt, chỉ thấy chiếc váy màu đất nung trên đan những đường chỉ lớn hình chữ nhật mầu hồng trong ánh sáng nhạt trông như đen trắng. Ðó là Gretta. Vợ chàng đứng tựa vào cầu thang đang chăm chú nghe một cái gì. Gabriel ngạc nhiên thấy vợ đứng yên như vậy nên cũng lắng tai nghe. Nhưng chàng chẳng nghe được gì ngoài tiếng cười nói ngoài cửa và một vài nốt nhạc piano nhè nhẹ hòa điệu với tiếng hát rất nhỏ của một thanh niên. Gabriel đứng yên ráng tìm trong trí nhớ xem điệu nhạc gì, nhìn vợ và không để ý đến giọng hát. Cách đứng và nghe của nàng có một cái gì vừa quí phái vừa là lạ như gợi một hình ảnh gì. Chàng tự hỏi, một người phụ nữ đứng trong bóng tối trên một cầu thang lắng nghe một điệu nhạc xa xa là hình ảnh gì. Nếu chàng là hoạ sĩ chàng sẽ vẽ một bức tranh vợ chàng trong dáng điệu đó. Chiếc mũ nỉ mầu xanh làm nổi bật mái tóc vàng, những viền hình chữ nhật nổi bật trên chiếc váy sậm mầu hơn, và chàng sẽ đặt tên bức tranh là Nhạc Xa.

Có tiếng đóng cửa, dì Kate, Julia và Mary Jane vẫn chưa hết cười bước vào phía trong.

– Thật tếu, Mary Jane nói, anh chàng Freddy thật là tếu.

Gabriel im lặng chỉ lên đầu cầu thang nơi vợ chàng đang đứng. Bây giờ cửa ngoài đã đóng, tiếng đàn và tiếng hát có thể nghe rõ hơn. Gabriel đưa hai tay ra hiệu hãy im để nghe. Hình như là điệu nhạc của một bài hát cổ Ái nhĩ lan, nhưng không thể nhận ra giọng ai hát. Lời thật buồn, giọng không thanh, văng vẵng từ xa nghe như tha thiết, như khẩn cầu:

Mưa rơi nặng trĩu trên mái tóc tôi

Sương đêm thấm ướt da tôi

Lòng tôi lạnh cóng…

– Mary Jane nói lớn, Bartell D’Arcy đang hát đó. Ðêm nay ảnh chưa hát. Tôi phải yêu cầu ảnh hát một bài trước khi về.

– Phải, phải, Mary Jane, dì Kate nói

– Mary Jane gạt mọi người bước tới thang gác, nhưng chân chưa tới đầu thang tiếng hát lẫn tiếng đàn im bặt.

– Thật là tiếc, Mary Jane nói, xong hỏi vọng lên, Bartell D’Arcy đang đi xuống phải không Gretta…

Gabriel nghe vợ trả lời phải và nàng bước chầm chậm xuống thang. Theo sau là Bartell D’Arcy và cô O’Callaghan.

– Này ông D’Arcy, Mary Jane nói như thét, ông có biết ông ác lắm không, bỏ ngang bài hát trong khi mọi người đang chăm chú lắng nghe.

– Cả buổi tối, cô O’ Callaghan nói, tôi và bà Conroy ép mãi mà ảnh không chịu hát nói bị cảm cúm mất giọng.

– Ông D’Arcy, dì Kate nói, bây giờ thì ông hết chối rồi phải không…

– Dì không thấy giọng tôi khan sao… D’Arcy không nễ nang đốp chát.

Nói xong D’Arcy buớc vội vào phòng lấy áo choàng khoác vào người. Thấy D’Arcy nổi cáu không ai nói gì nữa. Dì Kate đưa mắt ra hiệu mọi người bỏ chuyện đó đi. D’Arcy vừa dùng khăn quàng kín cổ vừa cau mày.

– Sau một giây, dì Julia nói như than, thời tiết xấu quá.

– Vâng. Ai cũng bị cảm lạnh, dì Kate hứng lời, không trừ ai cả.

– Người ta nói, Mary Jane lên tiếng, ba mươi năm qua chưa bao giờ tuyết xuống dày đặt như năm nay, và báo sáng nay tôi đọc cho biết tuyết phủ kín Ái nhĩ lan.

– Tôi thích nhìn thấy tuyết, dì Julia trầm giọng nói.

– Tôi cũng vậy, cô O’Callaghan tiếp lời, tôi nghĩ lễ Giáng sinh không còn là lễ Giáng sinh nếu không có tuyết phủ kín mặt đất.

– Nhưng ông bạn D’Arcy của chúng ta không thích tuyết, dì Kate vừa nói vừa mĩm cười.


Chương 6

D’Arcy bước ra phòng khách, nai nịt đầy đủ, trở nên vui vẻ kể cho mọi người nghe câu chuyện cảm cúm của ông. Ai cũng lo cho ông, người khuyên thế này kẻ khuyên thế khác, nhất là đừng hít khí trời lạnh ban đêm. Gabriel nhìn vợ. Nàng đứng cạnh lò sưởi, không để ý đến câu chuyện của D’Arcy với những người chung quanh, ánh lửa bập bùng chiếu lên mái tóc vàng xinh đẹp mà Gabriel nhớ thấy vợ sấy mấy ngày trước bên cạnh lò sưởi ở nhà. Nàng đứng yên, một thái độ như cách biệt với thế giới bên ngoài. Sau cùng nàng quay nhìn mọi người, Gabriel thấy má vợ ửng hồng, ánh mắt ngời lên sung sướng.

– Ông D’Arcy, nàng hỏi, bài ông vừa hát tên gì nhỉ…

– “The Lass of Aughrim, ” D’Arcy trả lời, nhưng tôi không chắc lắm. Tại sao… Cô biết bài đó hả…

– The Lass of Aughrim, Gretta lặp lại, tôi từng nghe hát bài đó nhưng không biết tên.

– Bài hát thật hay, Mary Jane nói, tôi tiếc hôm nay ông mất giọng.

– Này Mary Jane, dì Kate nói, đừng làm ông D’Arcy mất vui. Cô không muốn ai làm ông ta mất vui.

Thấy đã đến lúc, dì Kate mời khách ra cửa.

– Xin chào quí vị, dì Kate nói, và cám ơn đã làm cho cuộc vui hôm nay thành công.

– Chia tay nhé, Gabriel, Gretta!

– Xin chia tay, dì Kate, xin cám ơn. Và xin chia tay dì Julia.

– Xin chia tay Gretta, chắc còn lâu lắm dì mới gặp lại cháu.

– Xin chia tay ông D’Arcy, xin chia tay cô O’Callaghan.

– Xin chia tay, bà Morkan

– Một lần nữa, xin chia tay

– Xin chia tay tất cả. Và chúc mọi người về an toàn.

– Xin chào, xin chào

Trời chưa sáng hẳn. Một thứ áùnh sáng vàng nhợt phủ trên mặt sông và nhà cửa chung quanh, bầu trời như thấp xuống. Tuyết đang tan ướt nhẹt dưới chân, chỉ còn lại những vệt dài và những mảng tuyết nhỏ còn bám trên mái nhà, trên bức tường chắn ke sông, trên các con đường sắt chạy ngang dọc trên bờ sông. Ðèn đường còn sáng đỏ ngầu trong bầu không khí tranh tối tranh sáng. Bên kia sông tòa lâu đài Four Courts đứng sừng sững như đe dọa dưới bầu trời nặng trĩu.

Chưa có xe, mọi người đi bộ. Gretta đi trước với Bartell D’Arcy. Ðôi giày cuốn trong bọc giấy mầu nâu kẹp dưới nách, hai tay nâng tà váy để khỏi chạm tuyết đang tan. Dáng diệu nàng lúc này không có gì quí phái nhưng đôi mắt Gabriel sáng lên vì sung sướng. Máu chảy mạnh trong huyết quản chàng với bao nhiêu ý tưởng dồn dập trong đầu, thích thú, dịu dàng và khoái cảm.

Gretta đi trước thái độ ung dung thoải mái làm cho Gabriel chỉ muốn rón rén chạy tới, kéo vai nàng và nói nhỏ vào tai những lời âu yếm. Nàng có vẻ yểu điệu như đang cần che chở để chàng chiếm đoạt lấy một mình. Những giây phút thần tiên hương lửa vụt sống lại trong trí nhớ chàng như ánh sao băng. Gabriel muốn nhắc lại cho Gretta những giây phút đó để quên đi những lúc nhọc nhằn nhàm chán của cuộc sống.

Thời gian không làm cho Gabriel thấy Gretta bớt hấp dẫn, trái lại là khác. Sinh con đẻ cái, việc sáng tác của chàng, việc bếp núc nhà cửa hằng ngày của nàng không làm cho ngọn lửa yêu đương của chàng giảm cường độ. Có một lần khi đi xa Gabriel viết cho Gretta, “tại sao những lời ân ái anh viết trên trang giấy này vẫn nhạt nhẽo vô duyên… Bởi vì không một lời nào êm ái bằng tên em”

Những câu chàng viết cho Gretta hiện trở lại với chàng như một điệu nhạc quen thuộc thời thơ ấu, như thúc bách Gabriel chỉ muốn có nàng và chỉ nàng thôi trong lúc này. Sẽ không còn ai chung quanh khi về tới khách sạn, chỉ có nhau, chàng sẽ âu yếm gọi nàng:

– Gretta em,

Có thể nàng đang thay áo quần không nghe chàng gọi. Rồi đồng khí tương cầu nàng nghe tiếng chàng và nhìn chàng…

Ðến góc đường Winetavern bốn người gặp một chiếc xe. Gabriel thấy dễ chịu vì tiếng vó ngựa làm ngưng các ý tưởng vẫn vơ của chàng. Lên xe, Gretta nhìn bâng quơ ra cửa sổ dáng mệt mỏi. Bartell D’Arcy và O’Callaghan không nói gì nhiều đưa tay chỉ đường cho người đánh xe. Con ngựa nặng nề cất bước, chuyển sang nước kiệu, kéo cỗ xe lăn sào sạt trên tuyết đang tan. Gabriel ngồi cạnh Gretta không gợi chuyện.

Khi xe chạy qua cầu O’Connell, cô O’Callaghan nói:

– Người ta nói không ai qua cầu O’Connel mà không thấy một con ngựa trắng.

– Lần nầy tôi thấy một người mặc đồ trắng, Gabriel nói.

– Ở đâu vậy… Bartell D’Arcy hỏi.

Gabriel chỉ pho tượng tuyết trắng phủ chưa tan, vẫy chào và nói mấy lời thân mật như nói với một người sống.

– Chào anh Dan.

Xe đến khách sạn, Gabriel nhảy xuống, trả tiền xe, mặc cho Bartell D’Arcy quầy quậy bảo đừng. Gabriel cho người đánh xe thêm mấy đồng tiền típ. Người đánh xe cám ơn:

– Xin chúc ông năm mới phát tài.

– Tôi cũng xin chúc ông như vậy. Gabriel thân mật đáp lễ.

Gretta dựa vào đôi cánh tay của Gabriel khi Gabriel đỡ nàng xuống xe. Ðứng trên lề đường Gretta chào tạm biệt và chúc mọi người về nhà ngủ ngon giấc. Nàng tựa nhẹ đầu vào cánh tay Gabriel, nhẹ như lúc nãy trên sàn nhảy. Khi khiêu vũ chàng cảm thấy sung sướng, hãnh diện với cung cách mềm mại yêu kiều của vợ. Và lúc này, đụng chạm da thịt nàng sau khi trí tượng tượng của chàng đầy ắp kỷ niệm yêu đương, chàng cảm thấy bức xúc thèm muốn xác thịt. Thấy nàng im lặng, Gabriel cầm cánh tay Gretta ép sát vào người; và khi hai người đứng trước cửa khách sạn, Gabriel có cảm tưởng cả hai đang chạy trốn cuộc sống và công việc hằng ngày, trốn nhà trốn cửa, trốn bạn trốn bè, lòng rộn ràng lăn mình vào một cuộc mạo hiểm hoang dại.

Người gác dan già đang ngủ gật trong phòng đợi. Ông chợt tỉnh đứng dậy thắp đĩa đèn cầy dẫn hai người lên thang gác. Gabriel và Gretta im lặng theo ông lão, chân bước nhẹ trên các bậc thang lót thảm dày rất mềm. Ðầu Gretta hơi cúi xuống, đôi vai mệt nhọc, chiếc váy quấn sát bắp chân theo nhịp bước. Gabriel muốn bước tới dùng đôi bàn tay mạnh khỏe của chàng ôm ngang lưng nàng không cho cử động. Chàng ấn móng tay vào bàn tay để tự kềm chế. Người gác dan dừng lại đầu cầu thang sửa lại chiếc đèn cầy cho thẳng. Gabriel và vợ đứng dưới một bậc thang chờ. Trong im lặng Gabriel nghe rõ tiếng sáp chảy xuống trên chiếc dĩa và tiếng tim chàng đập thùm thụp trong lồng ngực. Người gác dan dẫn hai vợ chồng đi theo một hành lang, mở cửa một phòng bên phải, cẩn thận đặt dĩa đèn cầy trên bàn đêm rồi hỏi ngày mai muốn đánh thức mấy giờ.

– Tám giờ, Gabriel nói.

Người gác dan đưa tay chỉ cho Gabriel công tắc đèn định xin lỗi cáo từ thì Gabriel vội nói.

– Chúng tôi không cần đèn. Ðèn từ ngoài đường chiếu vào đủ lắm rồi. Và, vừa nói vừa chỉ cây đèn cầy, ông đem cây đèn đó đi luôn thì rất tốt. Người gác dan chậm rãi nhấc đĩa đèn cầy, ngạc nhiên về ý muốn ngộ nghĩnh của khách. Ông chúc khách ngủ ngon rồi ra khỏi phòng. Gabriel khóa cửa.

Một vệt sáng lờ mờ từ bóng đèn đường chiếu qua cửa sổ đập vào chiếc cửa ra vào. Gabriel quẳng áo choàng và mũ trên chiếc đi văng rồi bước lại cửa sổ. Chàng nhìn xuống đường như tìm kiếm cái gì giúp chàng kềm chế bức xúc của cơ thể. Rồi Gabriel xoay người lại tựa lưng vào chiếc tủ bên cạnh. Vợ chàng đã cởi mũ và áo choàng, đang đứng trước một tấm gương lớn hai tay cởi nịt. Gabriel nhìn vợ một giây rồi gọi:

– Gretta

Nàng xoay mình rồi tiến về phía chàng, vệt ánh sáng mờ ôm trọn thân nàng. Thấy nàng mệt, nét mặt nghiêm trang, Gabriel biết chưa phải lúc mặc dù lời ân ái chực sẵn trên môi.

– Em mệt lắm phải không, chàng hỏi

– Vâng, em hơi mệt, nàng đáp.

– Em không cảm thấy bị bệnh chứ…

– Không, chỉ mệt thôi.

Nàng bước đến cửa sổ, dừng lại, nhìn ra ngoài. Gabriel yên lặng chờ đợi, rồi bỗng ngại sự thiếu tự tin sẽ chinh phục mình, Gabriel bất thần lên tiếng:

– Này, Gretta!

– Gì vậy anh…

– Em có biết ông bạn Malins không…

– Chuyện gì vậy…

– Ông ta không đến nổi tệ, Gabriel nói, đổi giọng làm như chàng chú ý đến chuyện đang nói lắm. Ông ta vừa trả nợ cho anh, một món nợ anh tưởng ông sẽ không bao giờ trả. Tội nghiệp, người ta xem ông không hơn ông Browne, nhưng thật ra ông ta có tư cách hơn nhiều.

Gabriel thấy khó chịu. Tại sao Gretta lơ đãng như vậy… Chàng không biết nên hỏi thế nào. Hay Gretta đang ưu tư một chuyện gì… Ước gì bây giờ Gretta đến sà vào lòng chàng. Bước đến ôm Gretta vào lòng lúc này chàng cảm thấy không được thanh nhã. Không, chàng chỉ làm như vậy khi chàng ghi nhận được lửa yêu đương bừng cháy trong đôi mắt nàng. Chàng không hề bắt nhầm ánh mắt đó.

– Anh cho ông Malins vay tiền hồi nào… Một lúc lâu, Gretta hỏi.

Gabriel cố kềm chế để khỏi phát nên lời không đẹp đối với anh chàng Malins nghiện rượu, vì điều duy nhất chàng muốn lúc này là hét lên, ghì chặt thân thể nàng, khuất phục nàng. Và chàng nói:

– Vào dịp lễ Giáng sinh khi anh ta mở tiệm bán thiệp trên đường Henry.

Trong ánh sáng lờ mờ Gabriel không nhận ra ngay Gretta đang đi về phía chàng. Nàng đứng trước Gabriel, chăm chú nhìn chàng như người chưa quen. Bỗng nàng khoác đôi tay lên vai chàng, nhón chân hôn vào môi chàng.

– Anh thật là một người rộng lượng, Gretta nói.

Gabriel run lên sung sướng vì cái hôn bất ngờ và lời khen lạ lùng của Gretta, chàng đưa đôi bàn tay vuốt tóc nàng rồi nhẹ vuốt lưng nàng. Tim chàng rộn ràng đập trong lồng ngực. Còn gì hạnh phúc bằng đúng lúc chàng muốn ân ái thì nàng đến với chàng. Có thể nàng đọc được ý nghĩ của chàng. Có thể vì nàng cảm thấy sự rạo rực của chàng nên nàng cũng rạo rực lây. Giờ đây nàng đang ở trong đôi cánh tay chàng, chàng tự hỏi sao lúc nãy mình thiếu tự tin như vậy.

Chàng đứng yên, hai bàn tay ôm đầu Gretta. Bỗng chàng luồn một cánh tay ra sau lưng Gretta kéo thân nàng vào sát thân mình âu yếm hỏi:

– Em yêu của anh, em đang suy nghĩ gì vậy.

Nàng không trả lời, thân thể như cưỡng lại cánh tay của chàng. Vẫn giọng âu yếm Gabriel hỏi lại:

– Nói đi, Gretta, cái gì vậy. Chắc anh cũng biết chứ. Anh cũng biết phải không…

– Nàng không trả lời ngay. Thoáng một giây, Gretta trả lời qua nước mắt.

– Em đang nghĩ đến bài hát The Lass of Aughrim.

Nàng vuột khỏi cánh tay của chàng chạy đến giường ngủ hai bàn tay che mặt gục trên giường khóc nức nở. Vừa xúc động vừa ngạc nhiên, Gabriel bất động một lúc rồi đi đến gần nàng. Ði qua chiếc gương đứng Gabriel thấy trọn hình mình trong gương, chiếc áo sơ mi rộng, khuôn mặt sần sù chính chàng cũng thấy có cái gì lạ lạ mỗi lần nhìn trong gương với đôi kính đeo mắt gọng vàng óng ánh. Gabriel dừng lại cách Gretta vài bước và hỏi:

– Bài hát đó có gì lạ… Và tại sao nó làm em khóc.

Chương 7

Gretta ngẩng đầu khỏi đôi bàn tay, dùng lưng bàn tay chùi nước mắt như một đứa bé. Bằng một giọng cố thật dịu dàng Gabriel hỏi:

– Tại sao vậy Gretta…

– Em đang nhớ đến một người hát bài hát đó đã lâu rồi…

– Và người đó là ai… Gabriel hỏi, mĩm cười.

– Một người em quen ở Galway lúc em sống ở đó với bà ngoại. Gretta đáp.

Nụ cười biến mất trên môi Gabriel. Chàng thấy bực mình và sự ham muốn làm tình với nàng biến thành cơn giận bừng bừng trong huyết quản.

– Một người em đã yêu… Gabriel mỉa mai hỏi.

– Ðó là một thanh niên trẻ tuổi bạn của em, nàng đáp, tên là Michael Furey. Michael thường hát bài The Lass of Aughrim. Anh ấy là một người rất tế nhị.
Gabriel không nói gì thêm, chàng không muốn Gretta nghĩ chàng quan tâm đến người thanh niên tế nhị đó.
– Em tưởng tượng như đang thấy anh ấy trước mắt, Gretta nói sau một giây yên lặng. Không thể nào quên đôi mắt to đen nháy của anh. Như chứa cả nỗi lòng – một nỗi lòng.

– Và em yêu anh ấy… Gabriel nói

– Em thường dạo chơi với ảnh, nàng nói, khi em ở Galway.

Một ý nghĩ thoáng qua trí Gabriel.

– Vì vậy em muốn đi Galway với cô Ivors, Gabriel lạnh lùng hỏi.

Gretta nhìn thẳng vào mắt Gabriel và hỏi lại một cách ngạc nhiên:

– Ðể làm gì…

Ðôi mắt của Gretta làm Gabriel lúng túng. Chàng nhún vai trả lời:

– Anh làm sao biết được. Ðể thăm anh ta chẳng hạn.

Gretta tránh đôi mắt của Gabriel, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ theo vệt ánh sáng lờ mờ.

– Một lúc sau, Gretta chậm rãi nói, anh ấy chết rồi. Aủnh chết năm mười bảy tuổi. Thật là một điều khủng khiếp khi chết yểu như vậy phải không anh…

– Hồi đó anh ta làm gì… Gabriel hỏi, vẫn chưa hết mỉa mai.

– Ảnh làm cho sở cung cấp khí đốt, nàng nói.

Gabriel cảm thấy bị khinh thường vì Gretta không để tâm đến giọng nói mỉa mai của chàng, và vì hình ảnh từ cõi chết của người thanh niên trẻ tuổi nhân công của hãng cung cấp khí đốt. Trong khi chàng nhớ đến kỷ niệm xưa, nhớ những phút âu yếm bên nhau lòng đầy ham muốn thì vợ chàng so sánh chàng với một hình ảnh khác chôn chặt tận đáy lòng. Gabriel bỗng thấy mình chẳng là gì cả, lố bịch, chỉ biết tiêu tiền của mấy bà dì, một người giả bộ giàu tình cảm nhưng bản chất nóng nảy, ưa diễn thuyết cho những kẻ trưởng giả học làm sang, lý tưởng hóa tài tình tính đam mê nhục dục, một anh chàng ngờ nghệch đáng thương như chàng vừa thấy trong chiếc gương. Như một bản năng Gabriel quay lưng thêm về phía ánh sáng để dấu sự sượng sùng chỉ chực làm nổ tung vừng trán của chàng.

Gabriel muốn gay gắt hỏi thêm nhưng không thể được, giọng chàng trở nên vô thưởng vô phạt.

– Gretta, anh đoán em đã yêu Michael Furey, Gabriel nói.

– Em đã trải qua một thời gian rất đẹp rất thú vị với anh ấy, Gretta trả lời.

Nghe giọng buồn diệu vợi, nửa kín nửa hỡ của Gretta, Gabriel biết hỏi nữa vô ích, chàng vuốt ve bàn tay của Gretta buồn buồn nói.

– Sao anh ấy chết sớm vậy, Gretta… Bệnh lao hã…

– Em nghĩ ảnh chết vì em, Gretta trả lời.

Câu trả lời của Gretta làm Gabriel thảng thốt. Lúc chàng tưởng mình đã thắng thì một hình bóng từ cõi vô hình hiện đến đe dọa chàng. Chàng cố chế ngự sự sợ hãi, vuốt mạnh hơn bàn tay của Gretta, không hỏi gì thêm sợ nàng sẽ nói những gì chàng không muốn nghe. Bàn tay Gretta ẩm và ấm, không đáp ứng sự vuốt ve của chàng, nhưng chàng vẫn tiếp tục vuốt ve như chàng vuốt ve lá thư đầu tiên nàng gởi chàng nhận được vào một buổi sáng mùa xuân năm nào.

– Chuyện xẩy ra vào một buổi sáng mùa đông, nàng nói, đầu mùa đông khi em sắp từ biệt bà ngoại lên đây để vào tu viện. Aủnh đang bệnh nằm tại nhà ở Galway và người ta không cho anh ra ngoài. Sở làm đã viết thư thông báo cho thân nhân của ảnh ở Oughterard, cho biết sức khỏe của ảnh suy giảm trầm trọng, đại khái như vậy, em không biết rõ lắm.

Ngừng một giây, Gretta thở dài.

– Thật tội nghiệp, nàng nói, ảnh thật đáng thương và rất mến em. Aủnh và em thường đi bộ dạo chơi bên nhau như thói quen nam nữ ở thôn quê. Aủnh định học hát cho khỏe người, giọng ảnh thật tốt.

– Rồi thì sao… Gabriel hỏi.

– Vào lúc em sắp rời Galway để vào tu viện bệnh của ảnh trở nặng và bà ngoại không cho em đến thăm ảnh nên em viết cho ảnh một lá thư ngắn cho biết em sắp đi Dublin hẹn mùa hè tới sẽ trở về và chúc ảnh chóng bình phục.

Nàng ngừng một lúc để kềm chế xúc động, rồi tiếp:

– Ðêm cuối cùng trước khi lên đường trong khi em đang xếp đồ đạt vào va li ở nhà bà ngoại ở đảo Nun bỗng em nghe tiếng sạn ai ném vào khung cửa sổ. Kính cửa sổ mờ không thấy được bên ngoài em vội chạy xuống cầu thang mở cửa ra vườn thì thấy ảnh đang đứng ở góc vườn người run cầm cập vì lạnh.

– Em có bảo ảnh trở về không… Gabriel hỏi.

– Em van ảnh hãy trở về nhà ngay, nếu không sẽ chết trong mưa. Nhưng ảnh nói ảnh chẳng thiết sống. Mắt ảnh sâu thăm thẳm. Aủnh đứng đó cạnh bức tường dưới một thân cây, giọt mưa rơi lã chã.

– Rồi ảnh có đi về không… Gabriel hỏi.

– Vâng, ảnh về. Vào tu viện một tuần em được tin ảnh chết và thân nhân mang về an táng ở Oughterard, quê ảnh. Lúc em được tin ảnh đã ra người thiên cổ.

Nàng ngừng nói, nất lên. Gục đầu trên chiếc chăn bông nàng nức nở khóc. Gabriel cầm tay nàng một lúc, rồi như cảm thấy xúc phạm nỗi niềm riêng tư của vợ chàng nhẹ đặt bàn tay vợ xuống bước lại cửa sở nhìn mông lung xuống đường.

Nàng đắm chìm vào giấc ngủ.

Gabriel, tựa mình trên cùi tay, quên hết giận hờn, nhìn nàng, mớ tóc rối, miệng hé mở, hơi thở điều hòa. Thì ra nàng có một tâm sự u sầu: một thanh niên đã chết vì nàng. Mình là chồng mà như đi bên cạnh cuộc đời nàng. Chàng bình thản nhìn nàng ngủ như hai người chưa bao giờ sống với nhau như vợ với chồng. Ðôi mắt tò mò của Gabriel dừng lại trên khuôn mặt và mớ tóc nàng, mường tượng khuôn mặt xinh đẹp của nàng ở tuổi dậy thì và thấy thương nàng vô hạn. Chàng không muốn xác nhận với chính mình khuôn mặt bây giờ của nàng không còn đẹp như xưa nhưng chắc chắc không phải là khuôn mặt vì nó Michael Furey chết.

Chương 8

Có thể nàng không nói hết câu chuyện. Chàng nhìn chiếc ghế trên đó Gretta để áo nàng vừa cởi còn ngổn ngang. Một sợi dây lưng thòng xuống đất, đôi giày chiếc đứng chiếc nằm. Chàng tự hỏi cái gì một giờ trước đây làm chàng khao khát Gretta như vậy? Vì bữa cơm thịnh soạn ở nhà mấy bà dì, vì bài diễn văn hơi điệu của chàng, vì rượu vang và khiêu vũ, vì không khí tươi vui khi tiển biệt nhau, vì đi bên cạnh nàng bên bờ sông dưới tuyết lạnh?

Gabriel cảm thấy đôi vai lành lạnh. Chàng nhè nhè lách mình dưới tấm chăn vải nằm xuống cạnh vợ. Nghĩ đến cuộc đời như một giấc chiêm bao. Chẳng thà chết trong vinh quang hay chết bởi đam mê còn hơn chết già héo hắt. Chàng nghĩ làm sao người đàn bà đang nằm cạnh chàng đây bao nhiêu năm có thể dấu kín trong tim đôi mắt sâu thẳm của người yêu nàng khi anh ta nói với nàng anh không thiết sống.

Nước mắt làm ướt má Gabriel. Chàng chưa bao giờ xúc cảm mãnh liệt như vậy đối với một phụ nữ nào, nhưng chàng biết đó là tình yêu chân thật. Nước mắt tuôn xuống má, trong ánh sáng lờ mờ chàng thấy hình bóng một thanh niên trẻ tuổi ẩn hiện dưới một thân cây giọt mưa đang đổ xuống. Cạnh đó là một thế giới khác, thế giới của người chết. Chàng còn tỉnh nhưng không phân biệt nổi thực và ảo. Chàng thấy mình chìm ngập trong bầu không gian xám ngắt không sờ mó được: thế giới vô hình dành cho người chết như thu nhỏ lại rồi biến mất.

Có tiếng động nhẹ trên ô kính, Gabriel nhìn ra cửa sổ. Tuyết lại xuống. Chàng nhìn hoa tuyết trắng tinh rơi nghiêng nghiêng qua chiếc cột đèn đường. Chàng nghĩ đến con đường trở về nhà. Báo chí tiên đoán đúng, tuyết rơi trên toàn đảo Ái nhỉ lan. Rơi trên đồng bằng miền trung du, trên các ngọn đồi trọc, rơi trên vùng Bog of Allen, và xa hơn về phía tây trên các ngọn sóng của biển Shannon. Tuyết đang rơi trên nghĩa địa nơi đó Michael Furey đang yên nghỉ, trên các tấm mộ bia, trên các cây thánh gía bơ vơ, trên các bụi gai trụi lá. Chàng lịm đi nghe tuyết nhè nhẹ rơi trong vũ trụ, như rơi lần cuối cùng, xuống trên người sống và cả những người trong cõi chết.

nguon: vietnamcayda.com

Older Posts »

Blog at WordPress.com.